dân đời đầu lúc quân thập tự chiếm Jerusalem thôi, sau này thì dân TCG kết hôn với dân bản địa ( Hồi, Do Thái, Ko Đạo) mới ra tầng lớp TCG đời sau vì họ đâu mang đàn bà theo ( mà chính bọn này lại ghét người TCG đến từ Euro -> ghét cha ông chúng nó ) còn bác bảo 100% dân TCG ở Jerusalem thì sai rồi
VN <=> china or VN <=> Barbarian Cambodia <=> "great" Khmer Empire Thailand <=> civilized, powerful, special empire
Vớ vỉn, chẳng qua là do Thái nhọ ngày nay phát triển hơn và nổi tiếng hơn VN. Cứ nhắm bọn Nhật trung đại ấy, chả làm được gì thay đổi lịch sử thế giới, suốt ngày bo nhà đánh nhau, thế mà hầu như không games chiến thuật nào thiếu Nhật P/S: Thêm nữa, xã hội Thái không có định kiến xấu về games (không đánh giá games tương đương ... ma túy như ở xã hội Vịt), sử gia Thái chịu khó nghiên cứu về trang bị, giáp trụ, nghiên cứu thật sự chứ không nói dóc tán phét như sử gia Vịt, kiến thức ko dừng ở mức độ ông A sinh năm B, mất năm C như sử gia Vịt, đồ cổ ở Thái còn nhiều, không bị hốt lấy mang sang Pháp Mẽo Nhựt như đổ cổ Vịt ===> dễ tiếp cận, nghiên cứu tài liệu
cũng do Thái nó pê đê nên ko bị thuộc địa VN mà pê đê như bọn nó chắc quá nửa các ông TWer giờ có...........bạn trai
Pê đê là từ sai. Phải là "gay". Pede là để chỉ những người yêu trẻ con trai. http://en.wikipedia.org/wiki/Pederast
Hịch truyền quan lại, quân dân các phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn của vua Quang Trung năm 1792 "Tất cả các người, lớn nhỏ, từ hơn hai chục năm nay, đều luôn luôn chịu ân đức của nhà Tây Sơn ta. Sự thật, trong mấy chục năm qua, trẫm đã chiến thắng khắp cả trong Nam, ngoài Bắc. Trẫm nhận rằng có được những chiến thắng ấy chính là nhờ có sự phù trợ hết lòng của nhân dân hai phủ [2]. Hai phủ cũng đã tiến cử lên trẫm nhiều người trung dũng, hiền tài để giúp rập triều đình. Trẫm đem quân tới đâu, quân thù đều phải thất bại hoặc tan rã. Trẫm mở rộng chiến trận tới đâu, quân Xiêm và quân Thanh tàn bạo đều phải khuất phục. Còn bọn dư đảng bỉ ổi của cựu triều [3], thì từ hơn ba chục năm nay trẫm chưa từng thấy chúng làm nổi trò trống gì. Trẫm đã đánh chúng hàng trăm trận, sĩ tốt của chúng phải tan tác, tướng lĩnh của chúng phải bỏ mạng, xương tàn của chúng tràn đầy đất Gia Định. Những điều trẫm nói đây, các người đều biết rõ, nếu mắt các người chưa được trông thì tai các người cũng đã từng nghe thấy. Như tên Chủng [4] đê hèn kia, đã phải lẩn trốn sang những nước tầm thường ở phương Tây [5], thì có gì là đáng kể. Còn như đám dân ươn hèn Gia Định [6], nay dám ngóc đầu dậy, mộ binh, tại sao các người sợ hãi chúng như vậy, tại sao tinh thần các người khiếp đảm đến thế? Quân thủy bộ của chúng tới đánh chiếm các hải cảng của các người như thế nào, các người không cảnh giác như thế nào, Hoàng đại huynh [7] đã có thư cho trẫm rõ cả rồi. Trẫm thấy sở dĩ chúng đánh chiếm được đất và giữ được đất của các người cho tới ngày nay, không phải vì chúng tài giỏi gì, mà chính là vì quan quân và dân chúng hai phủ đã không giám đánh nhau với chúng. Bộ binh của các người đã hèn nhát bỏ trốn [8]. Bây giờ, theo lệnh Hoàng đại huynh, trẫm sẽ thân chinh cầm đại quân theo hai đường thủy bộ vào dẹp giặc. Trẫm sẽ đập tan bọn giặc cựu Nguyễn dễ dàng như đập tan một cành củi khô, một thanh gỗ mục. Còn nhân dân hai phủ, các người đừng lo âu, đừng sợ giặc. Các người hãy để mắt nhìn, để tai nghe, xem trẫm sẽ làm gì. Các người sẽ thấy rằng trẫm chỉ đánh một trận là Bình Khang, Nha Trang, những mảnh xương tàn của cái thây ma Gia Định, cũng như Phú Yên đã từng là trung tâm chiến trường và suốt một dải từ Bình Thuận vào tới Chân Lạp, sẽ tức khắc được thu phục. Như thế để ai nấy hiểu rõ rằng trẫm và Hoàng đại huynh là hai anh em ruột, là cùng chung một dòng máu. Trẫm không bao giờ quên điều đó. Trẫm kêu gọi nhân dân, lớn nhỏ, hai phủ, hãy ủng hộ hoàng gia, trung thành với Hoàng đại huynh, chờ đợi quân ta vào quét sạch miền Gia Định, lấy lại đất về ta. Tiếng thơm hai phủ các người sẽ mãi mãi lưu truyền sử sách. Các người chớ quá nhẹ dạ cả nghe những lời phao đồn về bọn người Tây dương. Tài giỏi gì hạng người đó? Mà chúng là mắt rắn xanh, chúng chỉ là những xác chết trôi từ biền Bắc giạt về đây, các người nên hiểu như thế. Những tàu bằng đồng, những khinh khí cầu [9] của chúng thì có gì là kỳ lạ mà phải đệ trình lên trẫm biết. Để cho đại quân của ta tiến vào được dễ dàng, các xã dân hai phủ ở dọc bên đường hành quân hãy kíp sửa sang cầu cống. Lệnh này truyền tới, nhân dân hãy vâng theo ý trẫm. Khâm thử Quang Trung năm thứ năm, ngày mồng l0 tháng Bảy [10]" (ngày 27 tháng 8 năm 1792, tức 20 ngày trước khi Nguyễn Huệ mất - tác giả chú) ============================== 1. Bài hịch này, hiện nay, chưa tìm thấy nguyên văn, không rõ viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. ở đây, chúng tôi dịch lại theo bản dịch tiếng Pháp của giáo sĩ De la Bissachère trong sách Etat actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des royaumesde Cambodge, Laos et Lac-tho xuất bản năm 1812. Bản dịch tiếng Pháp này còn trích in trong hai sách khác: 1. trong sách của Al. Faure: Les Francais en Cochinchine au XVIIIe siècle.Mgr Pigneau de Béhaine, évêque d' Adran, xuất bản năm 1891, ở đây chỉ trích dẫn một số đoạn, không in toàn văn - 2. trong sách của C.B. Maybon: La relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère, xuất bản năm 1920. Trong sách này trích in toàn văn bản dịch tiếng Pháp, nhưng ở đôi chỗ: lời, ý và cách viết chữ có khác với bản in trong tập sách xuất bản năm 1812 của De la Bissachère. 2. Bản dịch tiếng Pháp viết là tỉnh, nhưng thời bấy giờ Quảng Ngãi và Quy Nhơn chỉ là hai phủ của dinh Quảng Nam. 3. Cựu triều: chỉ tập đoàn chúa Nguyễn ở Đàng trong. 4. Chủng là tên tục tức tên thường gọi của Nguyễn Ánh. 5. Không rõ nguyên văn là gì mà bản dịch tiếng Pháp viết là Europe (châu âu). Có thể là bản tiếng Pháp dịch sai. Nguyễn Ánh không trốn sang châu âu mà chỉ trốn sang Xiêm và các đảo ở phía vịnh Xiêm La, chắc chắn Nguyễn Huệ biết rõ điều đó. Xiêm và các đảo thuộc vịnh Xiêm La cũng là ở phía tây Gia Định. 6. Chỉ bọn phản động tay sai của Nguyễn Ánh ở Gia Định. 7. Hoàng đại huynh (notre frère l'Empereur) tức vua anh, chỉ Nguyễn Nhạc. 8. Theo bản dịch trong sách của Maybon thì câu này viết khác, đại ý là: "Quân của các người đã hèn nhát bỏ trốn, bộ binh trốn một nơi, thủy binh chạy một nẻo". Chưa rõ ý trong bản nào đúng với nguyên văn. 9. Khinh khí cầu là một thứ quả bóng tròn, lớn, làm bằng vải, cho hơi đốt hoặc khinh khí vào trong, có thể đưa bóng lên cao trên không được. Hai anh em Mông-gôn-phi-ê (Montgolfier), người Pháp đã sáng chế ra khinh khí cầu và đưa ra thí nghiệm lần đầu tiên ngày 5 tháng 6 năm 1783. Cách mấy năm sau, khoảng 1790 Boa-xơ-răng, một giáo sĩ Pháp theo Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Ánh, đã làm thí nghiệm thả những khinh khí cầu lên trời để lòe bịp nhân dân Gia Định, Quy Nhơn về phép lạ của người Pháp. Nhưng sự lòe bịp ấy không có hiệu quả. Năm 1797, tên Boa-xơ-răng đã bỏ mạng ở Nha Trang, sau trận đi đánh Đà Nẵng trở về. 10. Bản trích dẫn trong sách của Al. Faure viết sai là ngày 10 tháng Năm âm lịch.
Máy bắn đá là chọi kiểu điểm rơi, bạn phải đặt máy ở cự ly hợp lý mục tiêu thì khả năng trúng mới cao. Công thành mà để máy gần tường thành quá thì nó sẽ bắn vào trong nhiều hơn (làm hư công trình trong đó). Dùng máy bắn đá bắn vỡ tường thành thì hơi phi thực tế, hoặc là phải bắn rất nhiều. Thời trung cổ thì công thành vẫn là dùng ram cổng và thang leo lên thôi, máy bắn đá chỉ dùng để diệt quân đứng thủ trên tường thành hay bắn vào trong để tàn phá. Mà thời trung cổ siege engineer đã tiến bộ hơn rất nhiều. Phải đến thời đại bác thì mới bắn vỡ tường thành được.