Arcane University - Mystic Archives (1st Floor): Phòng trưng bày sách

Thảo luận trong 'Box lưu trữ' bắt đầu bởi The Guardian, 30/12/11.

  1. The Guardian

    The Guardian Extrema Remedia Moderator Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    8/1/09
    Bài viết:
    3,449
    Nơi ở:
    Ranger Station Alpha

    ---------------------------------------------------------------​
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/1/12
  2. Jokohama

    Jokohama GameVN Gentleman

    Tham gia ngày:
    28/2/04
    Bài viết:
    8,100
    Nơi ở:
    Hà Nội
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]
    Nightingale: Sự thực hay giả tưởng?
    (The Nightingales: Fact or fiction?)
    [hr][/hr]
    Nhắc tới từ “Nightingale” trước mặt bất kì tên trộm có tay nghề nào và hắn sẽ cười vào mặt bạn. Hắn sẽ bảo với bạn rằng, những kẻ được mệnh danh người trừng trị của Chúa tể Daedric Nocturnal ấy, chẳng là gì ngoài những nhân vật hư cấu sống trong tích truyện mà người ta thêu dệt nên để dọa những tên trộm mới vào nghề cho chúng phải nghe lời. Nhưng liệu họ có thực sự là hư cấu hay chỉ đơn giản là bị hiểu sai?

    Trong khi thực tế có nhiều học giả vẫn giễu cợt trên ý tưởng có một giáo phái thánh xuất hiện trong bản thân bè lũ vô tổ chức và trái với luân thường đạo lý như Hội Đạo Tặc, các bằng chứng vẫn cho thấy rằng có thể có một nhóm như thế đã từng một thời xuất hiện trong biên giới của Skyrim. Một trăm hai mươi năm trước sự công bố của tập sách này, một thi thể đã được tìm thấy mang trên mình một bộ giáp phục kì lạ mà sau đó được mô tả là “được rèn lại từ đêm tối”. Bộ giáp tả tơi có gắn một loại huy hiệu, một biểu tượng hình con chim nằm trong một vòng tròn tượng trưng giản lược cho bóng đêm. Những gì còn sót lại của thi thể và bộ giáp đã được đem đến Học Viện ở Winterhold để nghiên cứu, nhưng lại biến mất một cách bí ẩn chỉ một ngày sau khi chuyển tới nơi.

    Biểu tượng từ bộ giáp phục ấy sau đó được truyền bá đi khắp Skyrim trong nhiều năm nhưng việc nhận dạng nó gần như là không thể. Thế rồi từ nguồn khó tin nhất, một tù nhân bị giam giữ trong hầm mỏ ở Markarth đã xác nhận đó là dấu ấn của một nhóm đạo tặc tự gọi mình là những Nightingale. Khi bị ép cung, tên tù nhân khai rằng Nightingale là chiến binh của Nocturnal và thực thi mệnh lệnh của bà ta một cách trung thành. Hắn thú nhận rằng những điều mà hắn biết là từ một người quen trong nội bộ Hội Đạo Tặc ở Skyrim, nhưng kiên quyết từ chối khai ra những cái tên cụ thể; và vì thế câu chuyện nhanh chóng được khép lại.

    Mảnh ghép thứ hai của bằng chứng chỉ ra rằng các Nightingale tồn tại cho đến ngày nay nằm ngay trong vùng ngoại ô Riften. Người ta đã phát hiện ra rằng ở cuối một con đường mòn ngắn tách khỏi đường chính, có một tảng đá làm từ vật liệu đen thẫm không xác định. Được khắc lên trên bề mặt tảng đá ấy chính là biểu tượng cánh chim được tìm thấy trước đó trên bộ giáp phục đen. Với những người tin vào sự tồn tại của các Nightingale, đây được coi như một nơi tụ họp bí ẩn. Với những người khác, biểu tượng này lại một lần nữa bị cho qua như một vụ chơi khăm, hay đơn giản chỉ là một trò đánh lạc hướng của Hội Đạo Tặc mà thôi.

    Mảnh cuối cùng, và cũng là mảnh gây tranh cãi nhiều nhất của bằng chứng chính là một đoạn chữ được tìm thấy viết nguệch ngoạc trong một xà lim ở Whiterun. Xà lim này trước đó được dùng để giam giữ một người Dunmer tên là Lorthus, kẻ bị tống giam vì tội giết người và sau đó bị xử tử hình. Sau khi xử án, xà lim của Lorthus được khám xét, và những dòng sau được tìm thấy khắc trên một phiến đá:

    “Cầm lấy tay tôi hỡi Nữ Thần Nocturnal, nhận đó làm ý nguyện của tôi phục vụ người. Làm một Nightingale, tôi đã được sinh ra một lần nữa. Hãy để quá khứ của tôi vang vọng lại khúc khải hoàn của chúng ta.”

    Đây là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất một mối liên hệ chặt chẽ giữa Nocturnal và Nightingale được phát hiện. Bản chất bất thường của đoạn văn, một hàm ý tôn giáo hướng tới Nocturnal của một tên tội phạm, được bàn luận sôi nổi trong nhiều năm bất kể khả năng liệu tổ chức này có thực sự tồn tại hay không. Đáng tiếc là, không có thêm bất kì một bằng chứng nào nữa được tìm thấy cho đến ngày nay; phát kiến thú vị này dần chìm trong sự mờ mịt và những cuộc tranh luận cũng ngớt dần đi.

    Với những mảnh bằng chứng hiếm hoi này, một kết luận cụ thể là khó mà đạt được. Tất cả những gì chúng ta có là nhiều câu hỏi hơn những câu trả lời. Liệu tôn giáo và trộm cướp có thể cùng tồn tại? Liệu Chúa Tể Daedric Nocturnal thực sự có những điệp viên hoạt động khắp trên đất Skyrim với mục đích hiển nhiên là bất chính? Liệu Hội Đạo Tặc thực sự có biết về sự tồn tại của các Nightingale, nhưng nguyện trung thành với lời thề bí mật? Có thể một ngày nào đó câu trả lời cho những câu hỏi này sẽ được giải đáp, nhưng trong thời gian hiện tại nó phụ thuộc vào chính bạn, độc giả, quyết định xem Nightingale là có thật hay chỉ là hư cấu.

    [hr][/hr]

    Tác giả: Wilimina Roth
    Dịch giả: Jokohama

    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    lanhdiendiemla thích bài này.
  3. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td][table="width: 600"]
    [tr]
    [td]Cuốn Sách Về Dragonborn
    (The Book of Dragonborn)
    [HR][/HR]

    Tác giá
    Tu viện trưởng Emelene Madrine
    Ý chí của Talos
    Tu viện Weynon


    Năm 360 Kỷ Nguyên Thứ Ba
    Năm thứ 21 dưới sự trị vì của đức vua Pelagius IV​



    Nhiều người đã từng nghe đến thuật ngữ “Dragonborn” – và chúng ta đều là con dân của các đế vương có mạng cách “Dragonborn” – nhưng ý nghĩa thật sự của thuật ngữ này không giống như những hiểu biết thông thường đã từng đề cập. Với chúng ta, những tín đồ của Ý chí Talos, đây quả thực là một chủ để gần gũi và thân thiết với trái tim mỗi người, và trong cuốn sách này tôi sẽ cố gắng để làm rõ lịch sử và ý nghĩa của những người được vinh danh là “Dragonborn” xuyên suốt những chặng dài thời đại.

    Nhiều học giả đồng tình rằng việc thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên có liên quan đến “Giao Ước của Akatosh”, khi St.Alessia (nữ hoàng Alessia hay thánh nữ Alessia) may mắn được trao cho sợi dây chuyền của Hoàng đế và Ngọn Lửa Rồng lần đầu được thắp lên trong Ngôi Đền của Người Được Chọn. “Akatosh, nhìn thấy và thương cảm cho hoàn cảnh khốn khổ của con người, đã nhỏ ra những giọt máu quý giá từ chính trái tim mình, rồi chúc phúc cho St.Alessia với dòng máu của rồng, tạo nên một giao ước rằng cho đến khi nào dòng dõi của Alessia vẫn còn xứng đáng với dòng máu cao quý đó, Akatosh sẽ vẫn cố gắng phong ấn thật kín kẽ “Những Cánh Cổng Lãng Quên”, ngăn chặn những đạo quân của Daedra và Undead đến với Ayleids – những kẻ sùng bái Daedra điên cuồng”. Tất cả những ai nhận được lời chúc phúc của Akatosh cùng dòng máu của rồng đều sẽ trở thành những “Dragonborn”.

    Mối liên hệ này đối với những người cai trị của đế chế rõ ràng là đã có ngay từ thưở ban đầu – chỉ có những người mang trong mình dòng máu của rồng mới có khả năng đeo sơi dây chuyền của Hoàng đế và thắp lên Ngọn Lửa Rồng. Tất cả những người cai trị hợp pháp của để chế đều là những “Dragonborn” – Những vị vua và nữ hoàng đầu tiên của đế chế Cyrodilic là Alessia; Reman Cyrodiil cùng những người thừa kế; và tất nhiên là cả Tiber Septim và những người thừa kế của ông, cho đến thời hoàng đế hiện tại của chúng ta, đức vua Pelagius Septim IV.

    Nhưng cũng chính bởi mối liên hệ với những Hoàng đế này, mà những ý nghĩa khác của thuật ngữ “Dragonborn” dần dần bị che giấu và gần như hoàn toàn bị lãng quên với người đời – ngoại trừ các học giả và những người trung thành với những tín điều của Talos (cũng chính là Tiber Septim) như chúng ta. Rất ít người nhận ra rằng việc trở thành “Dragonborn” không đơn giản chỉ là sự di truyền – việc một người nào đó nhận được sự ban phúc của Akatosh, nó vượt quá sự hiểu biết của chúng ta rằng chính xác tại sao và như thế nào mà nó được ban cho. Những người trở thành Hoàng đế và thắp sáng Ngọn Lửa Rồng rõ ràng phải là “Dragonborn” – bằng chứng rõ ràng nhất là việc có thể đeo sợi dây chuyền và mang lại ánh sáng cho ngọn Lửa Thiêng. Nhưng bởi vì họ là những “Dragonborn” nên mới có thể làm những điều vĩ đại – hay bởi vì thực hiện những việc vĩ đại khiến họ trở thành những người được Akatosh ban phúc ? Tất cả những gì chúng ta có thể nói đó là nó có thể là cả hai, hoặc là không gì cả - một bí mật của thánh thần.

    Tất cả những người thuộc dòng dõi Septims đều là những “Dragonborn”, dĩ nhiên, đây chính là một nguyên nhân khiến quan niệm về sự di truyền dòng máu rồng trở nên phổ biến. Nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng những người cai trị của đế chế Cyrodilic xưa kia có những người không phải “Dragonborn”. Không có bất cứ bằng chứng nào rõ ràng về việc Reman Cyrodiil là hậu duệ của Alessia, mặc dù có rất nhiều huyền thoại làm cho sự việc “có vẻ” như thế, phần lớn những huyền thọai này đều có niên đại vào thời của Reman và dường như đều cố gắng để hợp thức hóa sự cai trị của ông ấy.

    Chúng ta cũng biết rằng “The Blades”, thường được xem là những hộ vệ của Hoàng đế, tiền thân chính là đạo quân viễn chinh Akaviri đã xâm lược Tamriel bởi những lý do hết sức vớ vẩn vào quãng cuối Kỷ Nguyên Thứ Nhất. Sự xuất hiện của họ làm bùng lên những giai thoại về “Dragonborn” – những sự kiện tại Đèo Xám chính là minh chứng – và chính quân Alaviri là những người đầu tiên làm lộ ra rằng Reman Cyrodiil là “Dragonborn”, thực tế thì chính quân Akaviri là những kẻ hô hào tôn Reman làm Hoàng đế cực lực nhất (mặc dù bản thân Reman chưa từng có được danh hiệu này trong suốt cuộc đời). Và tất nhiên cũng chẳng có mối liên hệ huyết thống nào giữa Tiber Septim với bất cứ “Dragonborn” nào trước đây từng cai trị Tamriel.

    Và liệu rằng việc xuất hiện nhiều hơn một “Dragonborn” trong cùng một thời kỳ có phải là một bí ẩn khác không ? Những Đế vương đều cố gắng làm tất cả những gì có thể để bác bỏ quan điểm này, nhưng tất nhiên họ càng thành công trong việc che đậy thì càng chứng tỏ rằng ít ra cũng phải là hai hoặc nhiều hơn nữa những “Dragonborn” cùng tồn tại trong bất kỳ thời điểm nào của lịch sử như: Hoàng đế và những người thừa kế của ông hay bà ta. Lịch sử của “The Blades” cũng có chút gợi ý về vấn đề này – mặc dù rất ít người được biết về những hoạt động của họ trong khoảng giao thời giữa đế chế của Reman và sự nổi dậy của Tiber Septim, nhiều người tin rằng “The Blades” vẫn tiếp tục tìm kiếm và bảo vệ cho những người mà họ tin rằng là (hoặc có lẽ là) “Dragonborn” trong thời gian này.

    Cuối cùng, chúng ta đi đến câu hỏi về ý nghĩa thực sự cho việc trở thành một “Dragonborn”. Mối liên hệ với loài rồng rất rõ ràng là gần như đã bị quên lãng – vào những ngày này khi loài rồng chỉ còn là những hồi ức xa xăm, chúng ta đã quên mất rằng ngày xửa ngày xưa, một “Dragonborn” có nghĩa là người đó có dòng máu rồng chảy trong huyết quản . Nhiều học giả cho rằng đó chính xác là nghĩa đen, nhưng kể cả ý nghĩa của điều này vẫn hết sức mù mờ. Tộc Nords đã kể nhiều câu chuyện anh hùng về những “Dragonborn” đã trở thành những Kẻ-Diệt-Rồng vĩ đại, có khả năng chiếm lấy sức mạnh của những con rồng mà họ đã giết. Đúng là, ai ai cũng biết chuyện quân Akaviri đã săn lùng và tiêu diệt rất nhiều rồng trong suốt cuộc xâm lăng của họ, và có vài bằng chứng cho thấy điều này vẫn còn tiếp diễn sau khi họ đã trở thành Vệ Sĩ Rồng của Reman Cyrodiil (một lần nữa, sự liên hệ với tộc rồng) – Những tiền bối đầu tiên của “The Blades” ngày nay.

    Tôi dành cho bạn suy ngẫm về thứ gọi là “Lời sấm truyền của Dragonborn”. Nó được cho là có nguồn gốc từ những Văn Bản Cổ Đại, mặc dù thỉnh thoảng ai đó lại cho rằng nó thuộc về tộc người Akaviri cổ. Rất nhiều người đã cố gắng giải mã nó, một số khác lại cho rằng câu sấm đã linh nghiệm và đó chính là điềm báo cho sự sắp xuất hiên một “Dragonborn” cuối cùng. Tôi sẽ không tự biến mình thành sứ giả của lời tiên tri, nhưng có vẻ như ý nghĩa thực sự của món quà mà Akatosh trao tặng cho trần thế vẫn chưa được hiểu một cách rõ ràng.

    “Khi bạo tàn và ngu dốt cai trị tám phương trời…
    Ngọn tháp Đồng rung chuyển,
    theo sự loạn lạc của dòng thời gian…
    Cả ba lời chúc phúc đều chìm vào tuyệt vọng,
    ngọn tháp Đỏ rùng mình, run sợ trước điềm hung…
    Đứa con Rồng mất nước, tòa tháp Trắng cũng cùng sụp đổ…
    Hỡi ôi Băng trụ tan tành,
    vì ngôi vương mà máu tanh ngập đất…
    Yêu tà hung hiểm, dõi mắt tham muốn chực uống máu người…
    Vòng tròn số phận,
    đứa con của Rồng cuối cùng ở nơi đâu…”
    [HR][/HR]
    Dịch giả: hieumapdau[/td]
    [/tr]
    [/table][/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [tr]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [tr]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/11
    lanhdiendiemla thích bài này.
  4. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Cuốn Sách Về Daedra
    (The Book of Daedra)

    [HR][/HR]
    Trích từ một tác phẩm dài mô tả đặc điểm chính của các Daedra…

    Azura, mang quyền năng của bóng tối lúc hoàng hôn, nguồn ma thuật giữa thời khắc chạng vạng, được biết đến với những cái tên như Mặt Trăng Đen, Người Mẹ Của Hồng Hoa, và Nữ Chúa Bầu Trời Đêm.

    Boethiah, là hiện thân của dối trá và thủ đoạn, với những âm mưu bí mật nhằm giết chóc, ám toán, mưu phản và phá hoại những thế lực cầm quyền đương thời.

    Clavicus Vile, có khả năng ban bố sức mạnh và thực hiện những tham vọng cho những kẻ thèm khát chúng thông qua các nghi thức cầu khẩn hay giao ước.

    Hermaeus Mora, có khả năng tiên tri thông qua tinh cầu của dòng chảy số phận, đọc quá khứ và tương lai được ghi lên bầu trời và những vì sao, là kẻ nắm giữ những kho báo vô tận của ký ức và tri thức.

    Hircine, cai quản những cuộc lùng sục, các môn thể thao của Daedra, trò chơi vĩ đại, sự săn đuổi, thường được biết đến như là Chúa tể săn bắn và Cha của những Quái vật nửa người.

    Malacath, là kẻ đỡ đầu cho những ai bị xã hội khai trừ và ruồng bỏ, là kẻ canh giữ cho những lời nguyền độc địa và những phép trù ếm tàn bạo vô cùng.

    Mehrunes Dagon, mang quyền hành của sự phá hủy, đổi thay, bạo động, sức mạnh và tham vọng.

    Mephala, quyền năng của mụ là một bí ẩn mà nhân loại chưa thể khám phá; được biết đến với những cái tên như Kẻ-Xe-Lưới, Kẻ-Quay-Tơ hay Nhện-Chúa, có vẻ như thứ duy nhất mà mụ hứng thú là phá hoại và cản trở những công việc của nhân loại.

    Meridia, quyền năng của mụ là một bí ẩn mà nhân loại chưa thể khám phá; là kẻ có mối liên kết với những nguồn sinh lực của những sinh vật sống.

    Molag Bal, có hứng thú độc địa trong việc thống trị và bắt các sinh vật khác làm nô lệ; luôn ham muốn chiếm đoạt linh hồn của các sinh vật và ép những linh hồn đó làm nô dịch cho hắn bằng cách gieo rắc những hạt giống bất hòa và xung đột vào mảng tối của mỗi linh hồn.

    Namira, mang quyền lực của Bóng đêm cổ đại; được biết đến với cái tên Linh hồn Daedra, kẻ thống trị của những âm binh và linh hồn mờ ảo, liên kết với lũ nhện, côn trùng và ốc, bọ, cũng như các tạo vật kinh tởm khác nhằm mang đến những dịch bệnh khủng khiếp cho mọi loài sinh vật.

    Nocturnal, có quyền lực của màn đêm và bóng tối; được mệnh danh là Nữ Chúa Màn Đêm.

    Peryite, là kẻ sai khiến những giai cấp thấp kém nhất ở Oblivion, được mệnh danh Người-Giao-Nhiệm-Vụ.

    Sanguine, biểu tượng của sự dâm dục và trụy lạc, luôn thèm khát những bản năng đáng ghê tởm.

    Sheogorath, hiện thân của sự điên khùng, với những hành động không thể lường trước được.

    Vaernima, kẻ thống trị những giấc mơ và ác mộng, mang lại những điềm báo xấu xa và độc ác.

    Cần thiết phải lưu ý đến một mối liên hệ đặc biệt ở phía dưới chương mục về “Malacath", bạn sẽ thấy một ám thị về SCOURGE, vũ khí mang lời nguyền của Malacath, ban cho những sinh vật thấp hèn sử dụng. Ngắn gọn là, ám thị này cho rằng bất cứ Daedra nào mắc phải sức mạnh hắc ám của vũ khí này đều bị trục xuất vào khoảng không vô định của Oblivion.

    "Những bảo vật huyền thoại của Daedra, phần lớn rất nổi tiếng, như Ngôi Sao Của Azura (Azura's Star), và Gậy Quỷ Của Sheogorath (Sheogorath's Wabbajack)… cũng có những bảo vật ít nổi tiếng hơn, như Scourge, Cây Búa Của Mackkan (Mackkan's Hammer), Tai Ương Của Daedra (Bane of Daedra)...."

    ...mặc dù Malacath nguyền vào Scourge nhằm tăng cường sức mạnh chống lại những Daedra khác, gã cũng không thể ngờ rằng nó lại rơi vào bàn tay của Daedra khác, sau đó trở thành công cụ cho cuộc chiến nội bộ giữa những kẻ đê tiện và bị lãng quên. Bởi lời nguyền của Malacath vào thứ vũ khí đó, bất cứ một Daedra nào thèm muốn chiếm hữu sức mạnh của nó, ngay lập tức khoảng không sẽ mở, nuốt chửng Daedra đó, tống khứ hắn vào khoảng không vô định của Oblivion, kể từ đấy con đường để trở về thế giới thực thực sự là một thứ gì đó thật viển vông.
    [HR][/HR]

    Tác giả: Khuyết danh
    Dịch giả: hieumapdau[/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [tr]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [tr]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/11
  5. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Bản đồ vị trí của Rồng.
    (Atlas of Dragons).
    [HR][/HR]

    Bản đồ vị trí của Rồng, Năm 373 Kỷ Nguyên Thứ 2
    Bởi Brother Mathnan
    Bản ghi chép về loài rồng ở Skyrim
    [HR][/HR]
    Tài liệu này ghi chép lại danh sách của những con rồng đã được biết đến, kể cả còn sống hay đã chết, bao gồm cả những con đã bị những Vệ-Sĩ-Rồng (Dragonguard) sát hại trong những trận chiến, cũng như những con đã bị giết ở thời kỳ trước còn xác định được. Đáng tiếc là, chỉ một số ít trong số những con rồng bị các tổ phụ Akaviri của chúng ta tiêu diệt trong cuôc viễn chinh được ghi chép lại và vì thế, thật đáng tiếc rằng danh sách này vẫn còn chưa hoàn thiện.

    [HR][/HR]

    Được cho là đã chết

    Nahagliiv – Những câu chuyện cổ ở các vùng cho rằng nó chính là con rồng được chôn ở quả đồi phía tây Rorikstead. Vẫn chưa xác định được cụ thể thời gian nó chết, chỉ có thể chắc chắn rằng nó thuộc vào Kỷ Nguyên Chiến Tranh Rồng.

    Odahviing – Những lời khai của các Tư-Tế-Rồng (Dragon Cultists) bị quân viễn chinh bắt làm tù binh và tra khảo chỉ ra rằng con rồng này được chôn ở ngọn đồi phía đông-nam Skyrim, không xa Riften.

    Sahloknir – Những truyền thuyết địa phương cho rằng con rồng này được chôn gần Khu-Rừng-Của-Kyne (Kyne's Grove), bị Jorg Helmbolg – anh hùng của tộc Nord tiêu diệt trong Kỷ Nguyên Thứ Nhất.

    Viinturuth – chết trong Kỷ Nguyên Chiến Tranh Rồng, theo như những tài liệu thu thập được ở những ngôi đền của Tư-Tế-Rông thì nó được chôn gần hồ Yorgrim (Lake Yorgrim).

    Vuljotnaak – chết trong Kỷ Nguyên Chiến Tranh Rồng hoặc chỉ sau đó một chút, theo như những tài liệu thu thập được ở những ngôi đền của Tư-Tế-Rông thì nó được chôn ở một ngọn đồi nhỏ gần đồi Granite (Granite Hill).


    Bị giết bởi các Vệ-Sĩ-Rồng

    Grahkrindrog – Bị giết vào năm 184 Kỷ Nguyên Thứ 2 sau khi gây ra những trận thảm sát kinh hoàng ở Winterhold và Eastmarch, tên của nó được xác định nhờ sự giúp đỡ của Học Viện Pháp Sư (the College mages).

    Krahjotdaan – Bị giết vào năm 2971 Kỷ Nguyên Thứ Nhất tại phía nam ngọn núi Jerall (Jerall Mountains), tên của nó được xác định bởi những dấu hiệu riêng của rồng.

    Những con rồng khuyết danh
    – Gồm 12 con, được ghi chép trong các cuốn biên niên sử khi ngôi đền Bến-Cảng-Bấu-Trời (Sky Haven Temple) được tìm thấy.


    Còn sống


    Ahbiilok – Bị phát hiện khi các Vệ-Sĩ-Rồng lùng sục quanh khu vực phía bắc Jerralls. Hàng loạt những nỗ lực nhằm tiêu diệt nó đều thất bại. Người ta cho rằng tổ của nó ở đâu đó tại Morrowind.

    Mirmulnir – Nhìn thấy lần cuối ở pháo đài Reach (the Reach) năm 212 Kỷ Nguyên Thứ Hai.

    Nahfahlaar – Luôn được các chiến binh bảo vệ khỏi những mối nguy hiểm. Chiến binh hộ vệ cuối cùng của nó là đức vua Casimir II của Wayrest, khi sứ mạng của các Vệ-Sĩ-Rồng kết thúc thành công năm 369 Kỷ Nguyên Thứ Hai cũng là lúc nó trốn thoát và bặt vô âm tín cho đến tận bây giờ.

    Paarthurnax – là tướng quân huyền thoại của Alduin trong Chiến Tranh Rồng. Hiện đang ẩn mình tại Cuống-Họng-Của-Thế-Giới (Throat of the World) dưới sự bảo vệ của các Greybeards ở High Hrothgar. Chủ tế Araidh vẫn giữ chính kiến của mình là tránh đương đầu trực tiếp với các Greybeards trong khi kiên trì chờ đợi một cơ hội để thực thi công lý với Paarthurnax.

    [HR][/HR]

    Dịch giả: hieumapdau[/td]
    [/tr]
    [/table]
     
  6. S.Dentatus

    S.Dentatus Legend of Zelda

    Tham gia ngày:
    15/9/11
    Bài viết:
    1,116
    Nơi ở:
    Whiterun
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]
    Huyền thoại Galerion​

    ( Galerion the Mystic )

    [HR][/HR]

    Bởi Asgrim Kolsgreg

    [HR][/HR]

    Trong những năm đẫm máu đầu tiên của kỷ nguyên thứ hai, Vanus Galerion được sinh ra dưới cái tên Trechtus, như một nông nô của một nhà quý tộc nhỏ, lãnh chúa Gyrnasse của vùng Sollicich-on-Ker. Trechtus có cha và mẹ là lao động chân tay, nhưng cha của ông đã bí mật, chống lại luật lệ của lãnh chúa Gyrnasse, tự học chữ và sau đó cũng để cho Trechtus được học. Lãnh chúa Gyrnasse đã được thông báo rằng các nông nô biết chữ là một sự ghê tởm của tự nhiên, gây nguy hiểm cho bản thân và kể cả các lãnh chúa của họ, lãnh chúa đã ra lệnh đóng cửa vào các phòng sách tại Sollicich-on-Ker. Tất cả các người bán sách, nhà thơ, và thầy dạy chữ đều bị cấm, ngoại trừ ngoài thành của Gyrnasse.

    Không bao giờ là mãi mãi, hoạt động buôn lậu quy mô nhỏ đã giữ một số sách và cuộn giấy lưu thông một cách tốt đẹp sau lưng Gyrnasse.

    Khi Trechtus tám tuổi, những tên buôn lậu bị tóm và bị tù đày. Một vài người nói rằng mẹ của Trechtus, một phụ nữ thiếu hiểu biết và tâm hồn đầy sợ hãi về sự đam mê của chồng, đã phản bội những tên buôn lậu bằng cách tố cáo chúng, nhưng cũng có các tin đồn khác cũng rất đáng tin. Những mánh khóe của các tên buôn lậu đã không hể giúp chúng thoát khỏi hình phạt. Cơ thể của cha Trechtus bị treo lên hàng tuần liền dưới cái nóng nhất chưa từng được thấy trong nhiều thế kỉ của mùa hè vùng Sollicich-on-Ker như.

    Ba tháng sau Trechtus chạy đi khỏi vùng đất của lãnh chúa Gyrnasse. Ngài đã chạy xa thật xa như là đã đến Alinor, chạy một quãng bằng một nửa đường đến hòn đảo Summerset. Một ban nhạc hát rong tìm thấy Ngài gần chết và nằm cuộn tròn trong một cái rãnh bên vệ đường. Họ chăm sóc cho Ngài rồi sai bảo Ngài như một cậu bé chạy việc vặt để Ngài được đổi lấy thức ăn và chổ trú ẩn. Một trong những người hát rong, một nhà tiên tri tên Heliand, bắt đầu kiểm tra thần trí linh lực của Trechtus và tìm thấy bên trong một cậu bé, nghĩ rằng là kẻ nhút nhát, là sự thông minh quá mức tự nhiên và ông đưa cho cậu ta các nghi lễ kiểm tra phức tạp. Heliand đã phát hiện ở cậu bé ra một sự tương đồng giống như Heliand, là cần thiết cho một quá trình đào tạo thần bí.

    Khi đoàn người dừng chân tại một ngôi làng tên Dotansa vùng viễn cực đông của Summerset, Heliand đã dẫn Trechtus, lúc bấy giờ đã mười một tuổi, đến đảo Artaeum. Magister của hòn đảo, một cách trễ nãi, đã nhận ra tiềm năng của Trechtus và nhận anh ta làm môn đồ, đặt anh ta một cái tên mới là Vanus Galarion. Vanus rèn luyện thần trí của mình tại đảo Artaeum, cũng như luyện tập cơ thể mình tại đó.

    Vậy đó chính là Archmagister đầu tiên của Mages Guild đã được huấn luyện. Từ Dsijics của đảo Artaeum, Ngài nhận được sự huấn luyện. Từ thời thơ ấu thiếu thốn và đầy bất công, giờ đây Ngài nhận được triết lý và sự chia sẻ kiến thức.

    [HR][/HR]

    Dịch bởi Stephanurus Dentatus
    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/1/12
  7. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Những bóng ma trong bão tố.
    (Ghosts in the Storm)
    [HR][/HR]

    Những bóng ma trong bão tố.
    Bởi Adonato Leotelli
    Câu chuyện của tác giả về cuộc đụng độ với Falmer

    Nhiều năm trở lại đây, tôi đã chu du khắp các hang cùng ngõ hẻm của Skyrim, ghi chép lại những kinh nghiệm và những cuộc phiêu lưu của mình.

    Tôi đã được thấy nhiều thắng cảnh phi thường và hàng đống những sinh vật kỳ lạ trong suốt cuộc hành trình, nhưng có một cuộc đụng độ cho đến giờ tôi vẫn nhớ như in, mặc cho bao cố gắng loại bỏ nó ra khỏi tâm trí.

    Tôi nhập bọn với một đoàn thương buôn Khajiit đi xuyên suốt Skyrim, buôn bán hàng hóa của họ ở ngoài cổng các thành phố lớn.

    Chúng tôi đang ở gần Windhelm khi cơn bão ập đến. Gió quật dữ dội và mạnh khủng khiếp, một trong những thứ tồi tệ nhất tôi từng gặp trong suốt cuộc đời. Tiếng gió gào rú giống hệt lũ Daedra của Oblivion, và màn tuyết dày đặc như muốn tách chúng tôi ra ngoài thế giới.

    Ri’saad ra hiệu dừng lại và chúng tôi loạng choạng trên đường, đôi bàn tay giơ cao che chắn cho khuôn mặt khỏi những viên băng đá nhọn như kim. Chúng tôi chen chúc nhau trong vài bụi rậm dưới những cây thông ven đường. Không có cách gì để dựng được lều, gió sẽ xé banh chúng ngay khi chúng tôi mở hành lý ra.

    Chúng tấn công khi cơn bão đang mạnh nhất, khoảng nửa tá lũ quái vật. Thật khó mà mô tả chúng, khi tuyết bay dày đặc và gió rít dữ dội cản hết tầm nhìn và thính giác của chúng tôi.

    Chúng có kích thước khá giống một người trưởng thành, nhưng lưng bị gù và trông thật xấu xí. Trên người chỉ khoác những mảnh da thuộc và giẻ rách nham nhở. Chúng trang bị kiếm, dao găm và một vài thứ khác, chắc chúng đã tước đoạt từ những nạn nhân xấu số trước đây.

    Chúng có vẻ không thể phát âm khi chỉ có một rãnh dài thay cho lỗ mũi. Lỗ tai to và nhọn làm tôi có cảm tưởng chúng có cùng nguồn gốc xa xưa với loài elves. Với làn da nhợt nhạt và đôi mắt đen tối vô hồn, chúng giống như những con quái vật khủng khiếp thoát ra từ ác mộng.

    Bhisha nhìn thấy chúng trước tiên, nhưng đã quá trễ để tự cứu mình. Tiếng hét thảm thương khi cô bị giết vang đến chúng tôi xuyên qua những cơn gió thổi ào ào. Âm thanh chết chóc đó đã cứu mạng tất cả chúng tôi.

    Tiếng thét như âm thanh báo hiệu kẻ thù, những chiến binh khajiit vung cao lưỡi kiếm và tụ lại thành một vòng tròn, lưng đấu lưng. Quân số của lũ quái vật quá ít để bao vây chúng tôi hoàn toàn, và những đòn tấn công đều bị người Khajiit chặn đứng. Sau khi ba con trong số chúng bị tiêu diệt, lũ còn lại rút chạy và không tấn công thêm lần nào nữa.

    Cơn bão dịu dần và chúng tôi đến được Windhelm vào buổi sáng hôm sau. Tôi liền đến trú tại đại sảnh Candlehearth và cảm nhận sự an toàn thoải mái bên trong những bức tường đá vững chắc của pháo đài.

    Thật thoải mái, ít nhất là cho đến khi tôi chìm vào giấc ngủ và ảo giác về những con quái vật khủng khiếp đó đã quay trở lại, ám ảnh tôi trong mỗi giấc mơ.
    [HR][/HR]

    Dịch giả: hieumapdau
    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/1/12
  8. aveyond

    aveyond C O N T R A

    Tham gia ngày:
    13/4/07
    Bài viết:
    1,975
    Nơi ở:
    Aveyond
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]
    Khẩu vị hiếm - Bản ký tặng
    (Uncommon Taste - Signed)​

    [HR][/HR]
    Dành cho anh bạn già Anton yêu quí của tôi

    Tôi sẽ không bao giờ quên được lòng tốt của anh và toàn thể gia đình Virane đã dành cho tôi, khi mà tôi đến thăm High Rock nhiều năm trước. Khi đó chúng ta đều còn trẻ, bốc đồng và ngu ngốc, và đó cũng là thời gian nguy hiểm nhất cho tất cả chúng ta. Nhưng chúng ta đã nhận ra ngay sau đó, và cũng như đã chắc chắn đến tận bây giờ, chiến trường thật sự của chúng ta là trong các nhà bếp. Với vũ khí là thìa và kẻ thù là sự đói khát.
    Và giờ đây, thật sự cảm ơn sự chỉ dẫn và tình bạn của anh, tôi đã có thể chia sẻ tình yêu của chúng ta về các công thức nấu ăn của người Breton với toàn Tamirel này. Quyển sách dạy nấu ăn này ko chỉ là sự tập hợp của những công thức, mà nó còn là bài tóm lược của toàn bộ sự nghiệp của tôi, và đó cũng là minh chứng cho sức mạnh của lòng đam mê.

    Người bạn ăn uống của anh,

    The Gourmet


    Những khẩu vị lạ thường
    Tác giả: the Gourmet​


    Xin chúc mừng!
    Chỉ bằng cách mở ra chương sách này, bạn đã đạt được bước đầu tiên trong một cuộc hành trình đầy ngoạn mục, một cuộc hành trình đi qua thế giới ẩm thực rộng lớn của Breton chứa đựng vô số niềm hứng khởi và những điều kỳ diệu trong nó. Bạn sẽ khám phá ra những mùi thơm, những vị ngon và những cách bài trí thực tinh tế, và chúng gần như là điều không tưởng. Thế nhưng tất cả chúng đều là sự thật!
    Thực vậy, chỉ cần cẩn thận làm theo công các công thức được lựa chọn kĩ càng trong quyển sách này, bạn đã có thể nấu những dĩa thức ăn thơm ngon lạ thường chỉ bằng những nỗ lực bình thường, và những người xung quanh bạn sẽ nghi ngờ rằng đó chỉ là những trò quỷ thuật. Nhưng phép màu duy nhất chính là thứ tồn tại trong trái tim bạn, sự đam mê với niềm vui nấu nướng khi tạo ra những món ăn ngon lành, hấp dẫn mà không cần chuẩn bị quá cầu kì, sẽ mang đến cho bạn niềm khoái cảm vô biên
    Bắt đầu từ bây giờ, và một ngày nào đó, bạn có thể trở thành một Người sành ăn!

    Bánh thái dương

    Nguyên liệu:
    - 71g pho mát sữa bò
    - 28g bơ
    - 28g bột
    - 255g sữa
    - Một chút muối
    - Một chút tiêu
    - Một tách đầy bột Nhục đậu khấu

    Cách làm:
    - Đầu tiên bật lò nướng, và sau đó đợi đến khi có nhiệt độ vừa phải.
    - Xắt pho mát thành miếng nhỏ vừa ăn bằng một con dao elven thật sắc trên thớt.
    - Tách lấy lòng trắng trứng và đánh lên cho đến khi chúng sánh lại.
    - Và bắt đầu chuẩn bị Nước xốt Thái Dương - nấu bơ lên cho chúng tan ra, sau đó cho vào bột mì trắng và bắt đầu trộn đều cho đến khi chúng trộn vào nhau hoàn hảo. Đặt bột và bơ đã nhào kĩ lên bếp và bắt đầu khuấy nhẹ với sữa. Hãy chắc chắn rằng bạn không dừng tay vì đây là khâu quyết định! Tiếp tục khuấy mười phút nữa, cho đến khi chúng sánh lên. Và sau đó, và chỉ khi đó, Nước xốt Thái Dương mới thực sự được coi là hoàn thành.
    - Cho muối, tiêu và Nhục đậu khấu vào và tắt lửa đi.
    - Cho thêm vào pho mát xắt nhỏ và lòng đỏ trứng. Nhào kĩ cho đến khi được trộn đều. Sau đó, nhẹ nhàng cho thêm lòng trắng trứng vào bằng một cái thìa gỗ hickory.
    - Nhẹ nhàng rót hỗn hợp đó vào bốn cái khuôn đá và đổ gần đầy (nhưng ko được đầy quá!).
    - Cho khuôn vào trong lò rồi đóng nắp lại! Nướng trong 25 phút.
    - Cho ra khỏi lò sau 25 phút và món ăn đã sẵn sàng ngay lập tức.
    - Hay để ý, sự tỏa sang của mặt trời, cùng với vị ngon tinh tế của Bánh Thái Dương.

    Món súp tuyệt hảo

    Nguyên liệu:
    - 4 cốc nước xáo gà.
    - 4 cốc nước xáo bò.
    - 71g bơ.
    - 1 hũ bột.
    - 1 cốc cà rốt thái hạt lựu.
    - 1 cốc hành tây thái hạt lựu.

    Cách làm:
    - Nhóm lò và để cửa mở sao cho nó đạt được nhiệt độ thấp.
    - Cho tất cả nguyên liệu vào một bát súp lớn.
    - Đánh tan tát cả lên!
    - Chờ đến khi nóng lên thì ngay lập tức là vào bốn bát súp bằng gốm.
    - Chú ý, món ăn của Gourmet - Món súp tuyệt hảo.

    Nhưng chờ đã. Tôi biết bạn đang rất kinh ngạc. “Nó đây sao! Đó là tất cả sao? Bí quyết nấu ăn của Gourmet đâu? ‘’
    Không lẽ bạn chờ mong tôi đưa bí quyết những món ăn nổi tiếng nhất của tôi ? Thử đoán xem nào ? Tôi sẽ đưa ra ! Bí mật của tôi, bạn ạ, chính là BẠN đấy ! Đúng vậy, Món súp tuyệt hảo rất ngon, và vị của nó rất lạ. Chỉ dùng những nguyên liệu thông thường, bạn cũng có thể tạo ra món súp thịnh soạn và ngon lành. Nhưng để làm được Món súp tuyệt hảo cừ như vậy, nó cần có khả năng sáng tạo của một đầu bếp với nguồn cảm hứng bất tận. Vậy bạn có khả năng trời ban đó không ?
    Tôi đã phục vụ Món súp tuyệt hảo mà làm cho cả những người trưởng thành cũng phải khóc lên vì niềm hứng khởi. Bạn có thể đoán được tôi đã cho thêm gì vào không ? Bạn có thể tạo ra ... phép màu không?
    [HR][/HR]

    Người dịch: Aveyond[/td]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [tr]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [tr]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [tr]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [td][/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/1/12
    hieumapdau thích bài này.
  9. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Kolb - Dũng sĩ diệt Rồng
    (Kolb & the Dragon)
    [HR][/HR]

    Kolb - Dũng sĩ diệt Rồng
    Cuộc phiêu lưu của anh chàng tộc Nord
    Câu chuyện về nhiệm vụ diệt rồng nơi người đọc tự lựa chọn và quyết định số phận cho vị anh hùng.
    [HR][/HR]

    [​IMG]

    Trang (1): Kolb là một chiến binh Nord dũng cảm. Một ngày kia tộc trưởng muốn Kold lên đường tiêu diệt con rồng tàn ác đang đe dọa ngôi làng của họ. “Hãy theo con đèo để đi xuyên ngọn núi, Kolb”, tộc trưởng nói. “Cậu sẽ thấy con rồng ở phía bên kia”
    Lật sang trang (2)


    Trang (2): Kolb mang theo lưỡi rìu và tấm khiên ưa thích của mình rồi rảo bước trên con đèo, anh ta tìm thấy một hang động lạnh lẽo, một cái hang gió rít và một con đường mòn hẹp.
    Vào hang động lạnh lẽo (17)
    Vào hang gió rít (8)
    Theo con đường mòn (12)



    Trang (3): Kolb leo lên đỉnh ngọn đồi đầy đá. Anh có thể thấy con rồng đang nằm ngủ phía dưới kia, và một quán rượu phía cuối con đường mòn
    Leo xuống chém nó nhanh còn về ngủ (16)
    Vào quán rượu hú hí cho ấm (14)



    Trang (4): Tìm đến nơi bốc ra mùi hôi thối, Kolb bắt gặp một tên Orc bẩn thỉu! Hắn gầm gừ rồi lao vào Kolb với cây chùy gai góc vung cao.
    Vung khiên đỡ lẹ kẻo bể đầu (9)
    Dám hỗn với anh, anh lấy rìu chém chết mày (13)



    Trang (5): Lội xuyên qua đầm lầy, Kolb phát hiện một con ma than khóc đang chặn đường.
    Đánh chết cha nó (15)
    Nộp tiền mãi lộ (10)



    Trang (6): Mũi rìu cắm ngập vào cái cổ cứng chắc và đầy vẩy của con rồng. Nó rống lên và vùng vẫy điên cuồng, nhưng Kolb vẫn giữ cán thật chắc là xẻ lưỡi rìu xuyên qua cổ, giết chết con rồng. Kolb trở về làng trong sự vinh quang, và ngôi làng của anh sẽ không bao giờ còn bị lũ rồng quấy nhiễu.
    KẾT THÚC.


    Trang (7): Rời khỏi đầm lầy, Kolb có thể thấy tổ của con rồng gần đó, cũng như một quán rượu nhỏ, xinh xắn ở phía xa.
    Sao phải xoắn, lao thẳng vào tổ rồng (16)
    Đến quán rượu hú hí (14)



    Trang (8): Một trận gió cực mạnh thổi tắt đuốc của Kolb, anh trượt chân rơi xuống một miệng hố, đập đầu vào tường đá, ngàn thu ở lại…
    KẾT THÚC.


    Trang (9): Tên Orc cười gằn khi cây chùy của hắn đập nát tấm khiên của Kolb rồi giáng cho anh một cú búa bổ ngay giữa mặt. “Cám ơn thằng ngu”, tên Orc nói. “Xương của chú mày đem nấu súp sẽ ngon lắm đây”.
    KẾT THÚC.


    Trang (10): Kolb nhớ lại câu chuyện mà ông nội anh đã kể, liền quẳng hai đồng vàng sang cho con ma, nó lập tức biến mất, nhường lối cho anh.
    Chuyển sang trang (7)


    Trang (11): Kolb bò nhanh về phía bụng con rồng, nhưng ngay khi anh rời mắt khỏi cái đầu của nó, đã bị nó cắp lên và nhai sống cả người lẫn vũ khí.
    KẾT THÚC.


    Trang (12): Leo lên cao, Kolb thấy một cái lều và gặp một ông lão thông thái. Ông chia cho anh ít bánh mì và chỉ cho anh hai con đường dẫn đến tổ rồng. Một đường dấn lên đồi, một băng qua đầm lầy.
    Leo đồi cho vui, vừa đi vừa ngắm cảnh (3)
    Lội qua đầm lầy, biết đâu gặp được vài em tắm tiên… (5)



    Trang (13): Trước khi tên Orc kịp bổ xuống, Kolb đã vung nhanh lưỡi rìu sắc bén của mình. Đầu của hắn cũng như quả chùy lăn lông lốc xuống sàn.
    Chuyển sang trang (3)


    Trang (14): Kolb bước vào quán rượu và nghỉ ngơi một lát trước trận chiến với con rồng. Chủ quán rượu này là lũ High elves, đã bỏ độc vào rượu, giết chết Kolb rồi cuỗm sạch vàng của anh.
    KẾT THÚC.


    Trang (15): Kolb xả cây rìu bằng hết sức bình sinh, nhưng con ma dường như không hề để ý. Nó nhập thẳng vào người Kolb, đưa anh vào giấc ngủ vĩnh hằng.
    KẾT THÚC.


    Trang (16): Kolb đã đến cái tổ nơi con rồng đang say ngủ, từng đợt khói cuồn cuồn tỏa ra từ mũi nó. Khí nóng bôc lên làm đôi mắt Kolb bỏng rát, anh gần như trượt trên đống xương người đã bị con rồng nhai hết thịt. Con quái vật nằm trên tảng đá lớn, cổ họng và bụng chìa ra đều là những mục tiêu tuyệt vời.
    Cắt cổ nó như vắt tiết gà (6)
    Chọc thủng bụng cho nó bỏ cơm bỏ cháo (11)



    Trang (17): Kolb bước vào hang động lạnh như băng, nhưng dòng máu Nord giữ cho anh ấm áp. Một đường hầm bốc mùi nồng nặc ở phía trước mặt anh, và gió thổi ra từ một cái hốc bên cạnh. Ngay gần đó lại có thêm một cầu thang dẩn lên cao.
    Đi theo hướng bốc mùi (4)
    Đi vào cái hốc gió lùa cho mát (8)
    Leo lên cái thang (12)


    [HR][/HR]

    Dịch giả: hieumapdau
    Lưu ý: Vì đặc điểm của cuốn sách này là một Easter Egg nên có những đoạn mình dịch thoáng ra và thêm thắt một chút cho thêm phần vui nhộn, mọi người đừng thấy lạ khi nó có khác đôi chỗ với nguyên tác... :D
    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
  10. Jokohama

    Jokohama GameVN Gentleman

    Tham gia ngày:
    28/2/04
    Bài viết:
    8,100
    Nơi ở:
    Hà Nội
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]
    Nightingale - Tập 1
    (The Nightingales Vol. 1)
    Tập thứ nhất của cuốn sách miêu tả về những Nightingale

    [hr][/hr]

    [​IMG]

    Bản thân là một Nightingale, ta cảm thấy thôi thúc cần phải đặt ngòi búi lông lên tờ giấy da và ghi lại những suy nghĩ dựa trên những hiểu biết bản thân về tổ chức này. Nếu một ngày nào đó tất cả các Nightingale biến mất khỏi Tamriel, thì hãy để cuốn sách này phục vụ như một lời nhắc nhở về ý nghĩa một thời của chúng ta, cũng như xua đi bất kì lời đồn đại hay rỉ tai nào về mục đích, về động cơ của chúng ta.

    Bộ ba chúng ta phục vụ Nữ thần Nocturnal (Lady Nocturnal), là Nữ chúa của Bóng tối (Empress of Murk) và là Con gái của Chạng vạng (Daughter of Twilight). Chúng ta đặt niềm tin vào Người là bảo hộ của chúng ta, nếu như không phải là bảo hộ của tất cả kẻ trộm trên thế giới này. Chúng ta phục vụ Người không cần cầu nguyện, không cần tích đức và cũng không cần ca tụng. Mối quan hệ của chúng ta với Người hiện hữu như là một bản giao dịch mà chúng ta dâng lên bằng Lời tuyên thệ (the Oath). Những điều kiện của Người đơn giản và ràng buộc. Là Nightingale, ta phải canh giữ Đền Thiêng Chạng Vạng (Twilight Sepulcher), ngôi đền của Nocturnal, khỏi bất cứ điều gì được cảm thấy như là một mối đe dọa. Đổi lại, chúng ta được cho phép sử dụng những năng lực của một Nightingale để phục vụ những mục đích cho bản thân mình và cho Hội Đạo Tặc (Thieves Guild).

    Cho đến lúc chết, chúng ta sẽ gắn bó với Đền Thiêng Chạng Vạng như là một linh hồn canh giữ tới khi Nocturnal cảm thấy giao kèo của ta đã được hoàn tất. Vận mệnh thiêng liêng của ta nằm trong Evergloam, vùng đất của Nocturnal. Ở đó, linh hồn của ta nhập làm một với cái bóng của chính nó, và trở thành tấm áo choàng chở che cho tất cả những kẻ trộm đồng môn của chúng ta trong hoàn cảnh nỗ lực của họ. Đây chính là ý nghĩa gốc của thành ngữ “bước đi cùng bóng tối” lưu truyền trong Hội Đạo Tặc lâu nay.

    Đền Thiêng Chạng Vạng không chỉ đơn thuần là một ngôi đền, nó còn cất giấu một lối đi dẫn từ thế giới của chúng ta tới Evergloam, một bể bóng đêm lỏng xoáy chặt vào nhau mà ta gọi là Ebonmere. Đây chính là trái tim của Đền Thiên, và ngọn nguồn của quyền lực Nocturnal chảy đi khắp thế giới. Ebonmere chỉ có thể bị phong ấn bằng cách lấy đi một chiếc chìa khóa độc nhất khỏi ổ khóa của nó. Chiếc chìa khóa này, vốn thỉnh thoảng xuất hiện bên ngoài những bức tường của Đền Thiêng, còn được biết đến rộng rãi dưới cái tên Chìa khóa Skeleton (Skeleton Key).

    Chìa khóa Skeleton là một bảo vật thường bị hiểu nhầm. Những người muốn chiếm hữu nó lại chỉ nghĩ tới việc sử dụng một phần nhỏ quyền năng của nó. Đa số đều nghĩ rằng nó là một cây kim mở khóa không bao giờ gãy. Dù điều đó là thật, sự kì diệu của bảo vật này chỉ có thể được thưởng thức trọn vẹn một khi người chủ sở hữu nguyện mở rộng đầu óc và thoát khỏi cái định nghĩa thông thường của từ “mở khóa”. Hành động ấy hướng tới nhiều hơn là những cánh cửa hay cánh cổng. Nằm trong tay đúng người, Chìa khóa Skeleton có khả năng “mở khóa” những tiềm năng còn ẩn giấu và những khả năng chưa được biết đến. Những khả năng xa hơn của quyền năng này vẫn chưa được khám phá hết, vậy sẽ thật đáng sợ nếu nó rơi vào bàn tay của kẻ xấu.

    Là thành viên của bộ ba Nightingale, chức trách của chúng ta là thu hồi lại chiếc Chìa khóa Skeleton nếu nó có thất lạc ra ngoài Đền Thiêng Chạng Vạng. Vì sao Nocturnal vẫn để chiếc Chìa khóa Skeleton bị đánh cắp vẫn còn là điều bí ẩn. Có kẻ nói rằng Người thích thưởng thức sự hỗn loạn mà chiếc chìa khóa gây ra, kẻ khác lại nghĩ đơn giản là Người chẳng quan tâm, rằng cái đám người trần nhỏ nhặt và lộn xộn không đáng cho Người để ý. Dù là vì lí do gì, phận sự của chúng ta vẫn là đảm bảo cho nó được nằm an toàn trong vòng canh giữ của Đền Thiêng.

    Nếu mà nói rằng Nightingale là một tổ chức thánh ấy lại là một lời xiên xỏ. Trong trái tim ta, chúng ta vẫn là kẻ trộm. Chúng ta vui vẻ trong cuộc săn và sung sướng trên chiến lợi phẩm. Chúng ta có thể thề nguyền sự trung thành dành cho Nocturnal và giữ những ảnh hưởng nhất định đến Hội Đạo Tặc, song bổn phận lớn nhất mà một Nightingale nắm giữ đó là cho chính bản thân mình.


    [hr][/hr]

    Tác giả: Gallus Desidenius
    Dịch giả: Jokohama

    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
  11. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Loài mèo ở vùng Skyrim
    (Cats of Skyrim)
    [HR][/HR]

    Loài mèo ở vùng Skyrim
    bởi Aldetuile
    Bài luận ngắn về những loài mèo có thể tìm thấy ở Skyrim
    [HR][/HR]
    Tôi được cử đến vùng đất lạnh giá và hoang vu này để nghiên cứu và ghi chép lại bất kỳ những gì nhìn thấy được về một loài vật vốn không được chú ý lắm đang sinh sống ở đây , đó chính là loài mèo. Sau nhiều tháng rong ruổi tìm kiếm thì tôi chỉ có thể bắt gặp được một vài loài tương tự nhưng lại có sự khác biệt về một số đặc điểm cơ bản.

    Trong cuộc hành trình của mình , tôi đã tình cờ gặp được một số người du mục thuộc bộ tộc Khajiit đang sinh sống tại vùng đất Skyrim này . Họ không hề tỏ ra thân thiện một chút nào cả chắc có lẽ là do họ sợ tôi sẽ tiết lộ thông tin về nơi sinh sống của họ. Tôi không hết ngạc nhiên khi nhìn thấy ở vùng đất lạnh giá và hoang vu này lại có những người thuộc bộ tộc Khajiit sinh sống.

    Mèo răng kiếm là loài mèo to lớn tiêu biểu nhất, hai chiếc răng cửa to lớn và sắc nhọn của chúng mang lại cho chúng một dáng vẻ cực kỳ hung tợn và nguy hiểm.

    Thường thì mèo răng kiếm có một bộ lông màu nâu đỏ , bộ lông này giúp cho chúng có thể hoà lẫn vào trong những vùng đất có cỏ mọc mà không bị phát hiện, nhưng khi quan sát chúng rình mồi và ngủ trên những tảng đá thì tôi không cho rằng bộ lông của chúng là dùng để nguỵ trang.

    Đòn tấn công chủ yếu của mèo răng kiếm chính là cắn nhưng đôi khi chúng cũng chồm lên tấn công bằng móng vuốt ở chân trước của mình. Tôi cũng đã từng chứng kiến cảnh nó tấn công con mồi bằng một cú vồ mạnh mẽ.

    Điểm đáng chú ý của loài mèo răng kiếm sống ở những vùng đất có tuyết rơi chính là bộ lông trắng của chúng và tôi tin rằng bộ lông trắng của chúng thích hợp dùng trong việc nguỵ trang hơn so với bộ lông của những người bà con sống ở vùng đồng bằng của chúng.

    Có những thông tin cho rằng răng của loài mèo răng kiếm được dùng trong việc bào chế ra những loại thuốc có tác dụng giúp cho người uống phục hồi thể lực cũng như là những loại thuốc giúp cho người uống tạm thời trở nên khéo léo hơn trong công việc rèn đúc các công cụ và vật dụng.

    Một người thợ săn giỏi thường có thể lột da và nhổ răng của những con mèo răng kiếm mà họ giết được nhưng còn thịt thì được cho là rất nhạt nhẽo không thích hợp để làm thức ăn.
    [HR][/HR]

    Dịch giả: iskras
    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/1/12
  12. S.Dentatus

    S.Dentatus Legend of Zelda

    Tham gia ngày:
    15/9/11
    Bài viết:
    1,116
    Nơi ở:
    Whiterun
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Chủng tộc man rợ
    ( The Pig Children )
    [HR][/HR]

    Bởi Tyston Bane

    [HR][/HR]

    Không một ai - dù là những Dark Elf lớn tuổi nhất của vùng núi Dagoth-Ur hay chính nhà thông thái cổ đại ở Solitude - có thể nhớ lại quãng thời gian trước khi tộc Orc tàn phá lãnh thổ Tamriel yêu quý của chúng ta. Kể cả khi những Daedra độc ác và kinh khủng nhất của Oblivion xuất hiện cũng không thể tạo ra những mối nguy hại chồng chất cho tất cả các chủng tộc của Tamriel hơn lũ Orc khốn kiếp này.

    Lũ Orc có thể dễ dàng phân biệt với các chủng người khác nhờ kích thước – với chiều cao trung bình khoảng bốn mươi pertans và chừng mười lăm ngàn angaids về trọng lượng (pertan, angaid là những đơn vị đo độ dài và trọng lượng của Tamriel - ND) – cái dáng vẻ cục súc như lợn của chúng, chưa kể đến mùi hôi thối tởm lợm từ người chúng bốc ra. Chúng là một chủng tộc hiếu chiến, không có chút gì gọi là đạo đức, với trí não đần độn và bẩn thỉu một cách tởm lợm. Bởi tất cả quyền hạn của mình, những chủng tộc của Tamriel đáng lẽ phải tiến hành thanh lọc, quét sạch chúng ra khỏi vùng đất này từ nhiều năm trước, nhưng nhờ sự tàn bạo, quỷ quyệt của dã thú, và lòng trung thành đến mức cuồng tín với bộ lạc của mình, dân số của chúng ngày càng tăng trưởng như lũ đỉa nhung nhúc trong vũng tù.

    Những giai thoại về sự dã man của loài Orc còn hơn cả những gì đã được ghi chép lại. Trong những ghi chép của Jatstyaga khi hội Mênh Lệnh Diagna (the Order of Diagna) gia nhập quân đội của Daggerfall và Sentinel “nhằm cầm chân lũ Orc khốn kiếp tại vùng vịnh của pháo đài khủng khiếp Orsinium…rồi thiêu rụi chúng ra tro bằng ngọn lửa thiêng thuần khiết” năm 950 Kỷ Nguyên Thứ Nhất, bà đã cho rằng bất cứ độc giả nào cũng phải kinh hoàng trước sự man rợ tột cùng của loài Orc. Khi trận vây hãm thắng lợi vào ba mươi năm sau, sau cái chết của hàng loạt những anh hùng như Gaiden Shinji, và sau sự sụp đổ của pháo đài Orsinium, lũ Orc sống sót chạy trốn toán loạn khắp dọc vùng núi Wrothgarian (the Wrothgarian Mountains), bà còn viết thêm rằng, “những con người tự do đã vui sướng như điên khi nhận thấy chủng tộc đối địch với họ từ ngàn xưa nay tan tác thành từng phần nhỏ”. Bởi thực tế là, lũ Orc đã đe dọa và khủng bố khắp khu vực vịnh Iliac (the Iliac Bay) ít nhất là từ những năm đầu của Kỷ Nguyên Thứ Nhất
    .

    [HR][/HR]

    Dịch bởi Stephanurus dentatus và hieumapdau[/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/1/12
    lanhdiendiemla thích bài này.
  13. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Lịch Sử Tóm Lược Của Đế Quốc, Quyển I.
    (Brief History of the Empire, v1)
    [HR][/HR]

    Lịch sử tóm lược của Đế quốc
    Phần I

    Bởi Stronach k’Thojj III, sử gia Imperial

    Phần 1 trong loạt sách miêu tả những sự kiện lịch sử của Đế quốc
    [HR][/HR]

    Trước thời kì Tiber Septim lên nắm quyền, toàn cõi Tamriel ngập chìm trong loạn lạc. Thi sĩ Tracizis gọi đây là thời kì chiến loạn không ngừng nghỉ “những tháng ngày của máu và nọc độc”. Lũ vua chúa thời bấy giờ rặt một lũ tham lam và tàn bạo, hợp sức nhau chống lại Tiber Septim khi ông cố gắng đem lại công lý cho mảnh đất này. Nhưng những chiến lược phản công cũng ngu dốt như sự ăn chơi trụy lạc của chúng vậy, và đôi bàn tay mạnh mẽ của Septim đã mang theo hòa bình ngự trị cho toàn thể Tamriel. Đó là năm 896 của Kỷ Nguyên Thứ Hai. Năm tiếp theo đó, tân Quốc vương đã tuyên bố sự bắt đầu của một Kỷ Nguyên mới – Chính là Kỷ Nguyên Thứ Ba, năm khai quốc.

    Suốt ba mươi tám năm Quốc vương Tiber ngồi trên ngôi cao. Đó là thời kỳ của kỷ cương, thái bình và thịnh trị, nơi công lý bao trùm và công bằng cho hết thảy, từ các nông nô đến tầng lớp quý tộc đương thời. Ngày Quốc vương băng hà, suốt hai tuần lễ trời đổ mưa tầm tã, như cả vùng đất Tamriel cùng hòa tiếng khóc than.

    Cháu trai của ngài, Pelagius, thừa hưởng ngai vàng. Dù thời kỳ cai trị của ông khá ngắn, nhưng ông là một vị vua mạnh mẽ và kiên nghị như cha ông đã từng (1), và Tamriel lẽ ra phải tiếp tục hân hoan thụ hưởng Thời Đại Hoàng Kim của mình. Than ôi! Một kẻ thù giấu mặt của hoàng tộc Septim, đã chiêu mộ một tổ chức sát thủ đáng ghê tởm, hội Hắc Huynh Đệ (the Dark Brotherhood), tiến hành ám sát Quốc vương Pelagius I khi ông đang quỳ bái ở Ngôi Đền của Người Được Chọn (the Temple of the One) tại thủ đô Imperial. Triều đại của Pelagius I chỉ được gần ba năm.

    Pelagius không có người nối dõi, vì thế Vương miện của Imperial được trao cho em họ của ông, con gái của Agnorith – em trai của Tiber, Kintyra, nguyên là Nữ hoàng của Silvenar, kế vị với tước danh Kintyra I. Triều đại của bà được ban phúc với sự phồn thịnh và mùa màng bội thu, và bản thân bà là người bảo trợ của nghệ thuật, âm nhạc và khiêu vũ.

    Con trai của Kintyra thừa kế ngai vàng sau khi bà mất, hoàng đế đầu tiên của Tamriel sử dụng một cái tên đậm chất Imperial, Uriel. Uriel I là một nhà viết luật vĩ đại của vương triều Septim, và là người sáng lập ra những tổ chức và bang hội độc lập. Dưới sự cai trị nhân từ nhưng không kém phần quả quyết của ông, Hội Chiến Binh (the Fighter Guild) và Hội Pháp Sư (the Mages Guild) trở nên nổi tiếng trên toàn cõi Tamriel. Đứa con kế vị ông, Uriel II trị vì suốt mười tám năm, từ năm 64 Kỷ Nguyên Thứ Ba khi Uriel I qua đời đến khi ông truyền ngôi cho Pelagius II năm 82 Kỷ Nguyên Thứ Ba. Buồn thay, sự trị vì của Uriel II bị nguyền rủa bởi hỏa hoạn, dịch bệnh và nội chiến. Tính tình mềm mỏng ông thừa hưởng từ cha không phù hợp để cai trị Tamriel trong bối cảnh hiện giờ, công lý dần trở nên mờ nhạt.

    Pelagius II thừa kế không chỉ ngai vàng của cha, mà còn cả món nợ từ quốc khố nghèo nàn và sự lỏng lẻo về luật pháp. Pelagius đã giải tán toàn bộ Hội Đồng Tiền Bối, và bắt họ phải bỏ ra những khoản tiền lớn để phục hồi tước vị. Ông cũng khuyến khích những hành động tương tự nơi các quan lại, chư hầu, những lãnh chúa của Tamriel, và sau mười bảy năm cai trị của ông, Tamriel đã trở lại thời thái bình thịnh trị. Tuy nhiên, những người phản đối ông cho rằng, tất cả những nhà cố vấn dù thông tuệ đến đâu nhưng không có vàng đều bị Pelagius ruồng rẫy. Điều này có thể dẫn đến những bất lợi nhất định cho hoàng tử Antiochus con ông khi kế vị ngai vàng.

    Antiochus chắc chắn là một người thích phô trương khác hẳn nếp sống bình dị của các thành viên trong hoàng tộc, ông có hàng đống vợ và nhân tình thì nhiều không đếm xuể. Ông cực kì nổi tiếng bởi những bộ quần áo hết sức sang trọng và khiếu hài hước tuyệt đỉnh của mình. Nhưng thật không may, triều đại của ông đầy rẫy những cuộc nội chiến, thậm chí còn có phần hơn những năm cai trị của ông nội mình, Uriel II. Trận chiến vì những hòn đảo năm 110 Kỷ Nguyên Thứ Ba, mười hai năm sau khi Antiochus đăng vị, gần như chia cắt khu vực quần đảo Summurset khỏi Tamriel. Liên minh các lãnh chúa vùng Summurset và Antiochus chỉ may mắn đánh bại được lãnh chúa Orghum của đế quốc đảo Pyandonera nhờ vào một cơn bão kì dị. Nhiều truyền thuyết cho rằng hội Mệnh Lệnh Psijic (the Psijic Order) của hòn đảo Artaeum với phép thuật của họ là tác giả của cơn bão này.

    Câu chuyện của nữ hoàng Kintyra II, con gái thừa kế ngai vàng của Antiochus, chắc chắn là một trong những câu chuyện buồn nhất trong lịch sử của Imperial. Người anh họ của bà, con trai của nữ hoàng Potema vùng Solitude, cáo buộc Kintyra là một đứa con hoang, ám chỉ sự suy đồi đạo đức của thủ đô Imperial trong suốt thời kì cai trị của Antiochus. Khi lời cáo buộc này thất bại trong việc ngăn cản Kintyra đăng quang, Uriel đã lôi kéo hàng loạt những lãnh chúa có cùng sự bất mãn ở các vùng như High Rock, Skyrim và Morrowind, cùng với sự hỗ trợ của nữ hoàng Potema, hắn đã tổ chức ba cuộc tấn công vào đế quốc Septim.

    Trận đánh đầu tiên nổ ra ở vùng vịnh Iliac (Iliac Bay), đã chia cắt High Rock và Hammerfell. Những cận thần của Kintyra bị tàn sát và bản thân bà bị bắt làm tù binh. Suốt hai năm, Kintyra II héo hon trong một nhà tù của đế quốc nằm đâu đó ở Glenpoin hoặc Glenmoril trước khi bà bị bí mật ám sát trong tù.

    Trận đánh thứ hai nhằm vào những hòn đảo gần bờ biển Morrowind. Nữ hoàng đương quyền Kontin Arynx thất bại trong việc bảo vệ các phảo đài. Trận đánh thứ ba cũng là trận cuối cùng là một cuộc bao vây chính thủ đô Imperial, xảy ra sau khi Hội Đồng Tiền Bối phân chia quân đội để tấn công phía tây High Rock và phía đông Morrowind.
    Chính phủ đã suy yếu chỉ có thể cầm cự trước sự công kích của Uriel một cách yếu ớt, và đầu hàng chỉ sau hơn hai tuần kháng cự. Uriel chiếm lấy ngai vàng và ngay tối hôm đó đã tự phong cho mình làm Uriel III, Quốc vương của toàn cõi Tamriel. Đó là năm 121 Kỷ Nguyên Thứ Ba. Từ đó mở đầu cho Chiến Tranh Kim Cương Đỏ (the War of the Red Diamon), sẽ được mô tả trong phần hai của loạt sách này.
    [HR][/HR]

    Dịch giả: hieumapdau
    Lưu ý: (1): nhiều nguồn nói rằng Pelagius I là cháu nội của Tiber Septim, cha ông cũng là con trai của Tiber với một người phụ nữ vô danh vẫn chưa được xác định chính xác. Nhiều nguồn khác lại cho rằng Pelagius I chính xác là con trai cả của Tiber Septim. Vì vậy trong nguyên tác lúc thì ghi là con, lúc thì ghi là cháu do hai luồng tư tưởng trái chiếu này - không phải người dịch dịch sai đâu nhé :))
    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/1/12
  14. Jokohama

    Jokohama GameVN Gentleman

    Tham gia ngày:
    28/2/04
    Bài viết:
    8,100
    Nơi ở:
    Hà Nội
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]
    Các thần thoại về Sheogorath
    (Myths of Sheogorath)
    Tuyển tập các thần thoại kì diệu về Thần Điên Rồ

    Tác giả: Mymophonus
    [hr][/hr]

    Sheogorath tạo ra âm nhạc (Sheogorath invents music)
    ____________________________

    Vào thuở khai thiên lập địa, khi thế giới vẫn còn nguyên sơ, Sheogorath đã quyết định du ngoạn ở chốn trần gian. Ông ta che đậy hình dạng thật của mình dưới lốt một Quý Ông Mang Gậy (Gentleman With a Cane), và di chuyển khắp các vùng miền mà không sợ bị phát hiện. Sau mười một ngày đêm, Sheogorath đã nhận ra rằng cuộc sống ở thế giới con người còn nhàm chán hơn cả ở thế giới của ông ta.

    “Ta có thể làm được gì để giúp cho họ có cuộc sống thú vị hơn đây?”
    Ông tự nhủ. Ngay lúc ấy, có một thiếu nữ gần đó than thở một mình rằng: ”Tiếng hót của loài chim thật thánh thót.”

    Sheogorath đồng ý với điều này trong im lặng. Loài người không thể có được tiếng hót tuyệt vời như vậy. Giọng nói của chúng thật tầm thường và trần tục làm sao. Sheogorath không thể thay đổi được bản chất của loài người vì đó là giới hạn quyền lực của các Chúa tể Daedric (Daedric Prince). Tuy nhiên, ông ta có thể tạo cho loài người công cụ để sở hữu được những âm thanh trong trẻo.

    Sheogorath liền tóm lấy người thiếu nữ đang ỉ ôi và xé cô ra thành nhiều mảnh. Ông dùng các sợi gân của cô để làm đàn luýt (lute). Từ xương sọ và xương cánh tay ông tạo ra trống. Và ông dùng các ống xương để làm sáo (flute). Ông ta trao tặng những món quà này cho loài người, và từ đó … âm nhạc đã ra đời.


    Sheogorath và vua Lyandir (Sheogorath and King Lyandir)
    ____________________________
    Vua Lyandir nổi tiếng là một người thẳng thắn. Ông sống trong một dinh thự nhỏ với kiến trúc đơn giản, không trang trí cầu kỳ và tất nhiên nếu chỉ ngó sơ qua thì trông xấu tệ hại. “Ta không cần nhiều hơn thế này”, ông nói, “Tại sao ta lại phải tốn tài sản vào những thứ phù phiếm đó trong khi ta có thể trang bị thêm quân dụng và các công trình công cộng khác?”

    Vương quốc của ông càng giàu có hơn với điều luật nhạy cảm này. Tuy nhiên, người dân không phải lúc nào cũng thấu hiểu và chia sẻ với tính thực tế của nhà vua. họ xây dựng các căn nhà tuyệt đẹp, dù không có tính thực dụng chút nào. Họ dành hết thời gian và công sức để tạo ra các kiệt tác nghệ thuật cũng như tổ chức các kỳ lễ hội tưng bừng. Nhìn chung, người dân có vẻ rất hạnh phúc.

    Vua Lyandir rất thất vọng khi người dân không làm theo hình mẫu của ông - sống một cuộc sống đạm bạc và khôn ngoan. Ông đã suy nghĩ về điều này trong nhiều năm liền. Cuối cùng, nhà vua biết rằng chỉ đơn giản là do người dân chưa hiểu được những thứ mà họ sẽ đạt được nếu họ không phí phạm thời gian vào những hoạt động vô bổ đó. Ông lý luận rằng có lẽ bọn họ cần nhiều hơn những việc để làm gương.

    Nhà vua ra sắc lệnh rằng tất cả cá tòa nhà mới phải được xây dựng một cách đơn giản, không trang trí cầu kỳ, và không lớn hơn quy mô sử dụng thực của nó. Người dân không mấy vui vẻ khi nhận tin này, nhưng họ vẫn giữ niềm tin vào nhà vua và tôn trọng điều luật mới. Một vài năm sau, các ngôi nhà đơn sơ xuất hiện nhiều hơn. Cư dân sử dụng tiền bạc họ tiết kiệm được vào các kiệt tác nghệ thuật và tổ chức các kỳ lễ hội còn hoành tráng hơn.

    Một lần nữa, vua Lyandir quyết định ra thêm một điều luật nghiêm khắc để cho người dân hiểu được lợi ích từ việc sử dụng thời gian và nguồn lực cho các mục đích thực tế nhất. Ông cấm hết tất cả các tác phẩm nghệ thuật trong thành phố. Lúc này người dân thực sự nổi giận, nhưng họ vẫn biết rằng nhà vua đang làm điều mà ông nghĩ là tốt cho họ nhất. Tuy nhiên, bản chất của con người không thể dễ dàng từ chối như vậy được. Vài năm sau, thành phố tràn ngập các ngôi nhà đơn sơ và không còn sự hiện diện của các tác phẩm nghệ thuật nữa. Bù lại người dân hiện giờ còn có nhiều tiền bạc và thời gian hơn để tiệc tùng linh đình và tổ chức lễ hội suốt ngày.

    Với một trái tim nặng trĩu tâm sự, Vua Lyandir quyết định rằng người dân của ông sẽ được đối xử như những đứa trẻ. Và giống như tất cả trẻ em, cần phải có quy định và kỷ luật được quy định bởi những "người lớn" có quyền lực để làm cho họ hiểu được cái quan trọng trong cuộc sống là gì. Ông tuyên bố sẽ không còn có các cuộc hội họp chè chén trong thành phố. Ca hát, nhày múa, và cà âm nhạc đều bị cấm. Ngay cả thực phẩm cũng bị hạn chế chỉ còn nước và các thức ăn đơn giản khác.

    Lúc này “giọt nước đã làm tràn ly”, nhưng nổi dậy lại không phải là quyết định đúng đắn khi nhà vua Lyandir sở hữu một đội quân tinh nhuệ và hùng hậu. Người dân liền tụ tập lại và đi viếng các đền thờ, cầu xin tất cả các vị thần, thậm chí cả các Chúa tể Daedric mong nhà vua rút lại những điều luật bất công này.

    Sheogorath đã lắng nghe lời yêu cầu và quyết định ghé thăm vua Lyandir. Trong giấc mơ của nhà vua, ông ta xuất hiện như một cánh đồng hoa, mà mỗi bông đều có các cánh tay thay vì cánh hoa, và khuôn mặt của Thần Điên Rồ (Madgod - Sheogorath là Prince of Madness) nằm ở chính giữa. “Ta là Chúa tể của sự Sáng tạo (Lord of the Creative) và đồng thời là Chúa tể của sự Điên cuồng (Lord of Deranged). Do nhà ngươi không còn chỗ nhận món quà sáng tạo của ta nữa, nên ta đã quyết định sẽ tặng cho ngươi một món quà “to lớn” khác.”

    Kể từ ngày đó, tất cả trẻ em sinh ra trong thành phố đều trở nên loạn trí. Do các bệnh về tâm lý không biểu hiện rõ ở trẻ nhỏ, nên phải mất tới vài năm mọi người mới nhận ra điều này. Ngay cả con trai của nhà vua cũng năm trong số nạn nhân trẻ em này, chịu đựng sự đau đớn do bị lên cơn và ảo giác. Nhưng nhà vua vẫn không thay đổi quyết định của mình.

    Khi con trai của Lyandir - Glint - lên 12 tuổi, nó đã đâm ông khi ông đang ngủ. Trong cơn hấp hối, vua Lyandir hỏi, “Tại sao?” Glint trả lời, “Đây là điều thực tế nhất mà con có thể làm.”

    Nhà vua trẻ ra lệnh làm thịt hết những người hầu trong cung. Ông yêu cầu tổ chức một bữa tiệc linh đình để mừng cho việc lên ngôi của ông và bãi bỏ các điều luật của vua Lyandir. Ông cho đám đông người dân ăn món hầm làm từ thịt của những người hầu trong cung. Ông còn ra lệnh phải sơn các bức tường hướng về phía Đông màu đỏ, và sơn màu sọc cho những bức tường hướng về phía Tây. Ông yêu cầu tất cả cư dân phải mạng 1 chiếc mặt nạ sặc sỡ ở gáy. Rồi ông liền đốt cung điện cũ và bắt đầu cho xây dựng lại một cái mới.

    Trong cung điện mới, nhà vua trẻ yêu cầu phòng riêng của mình không được có cửa vì sợ rằng các sinh vật nhỏ trong rừng sẽ tấn công ông và cũng không có cửa sổ do lo sợ mặt trời và mặt trăng vì ghen tị mà sẽ hại chết ông.

    Và đến đây là kết thúc huyết thống của vua Lyandir. Người dân đã quay trở lại với nghệ thuật và các kỳ lễ hội của họ. Họ nói chuyện và hành động như thể họ vẫn có một vị vua, và thậm chí vẫn giữ lại cung điện để làm nhà chăm nuôi cho những đứa trẻ điên. Sheogorath vô cùng hài lòng với kết quả này. Kể từ đó về sau, thành phố luôn được ban phước với rất nhiều nghệ sĩ tài năng và các công dân mất trí.

    Cuộc thi của Ý chí (The Contest of Wills)
    ____________________________
    Một lần nọ,có một phù thủy cao tay tên là Ravate đã cưỡi trên Ngọn Gió Thời Gian (the Winds of Time) để tìm kiếm Chúa tể Sheorath. Chủ định của y là xin một ân huệ từ một Chúa tể Daedric nổi tiếng là bốc đồng nhất. Khi tìm thấy Sheogorath, y nài nỉ, “Chúa tể Sheogorath, tôi thành kính cầu xin một ân huệ của Ngài. Tôi có thể khiến cho một ngàn người trở nên điên dại dưới danh tiếng của Ngài nếu Ngài ban cho tôi những phép thuật mạnh mẽ hơn.”

    May mắn cho Ravate, Sheogorath đang trong trạng thái hưng phấn. Ông ta đề nghị một trò chơi, ”Ta sẽ ban ơn cho ngươi, nếu ngươi vẫn giữ được tỉnh táo trong ba ngày. Trong thời gian đó, ta sẽ dùng hết sức mình để khiến ngươi điên dại. Như vậy sẽ thật là vui.”

    Ravate không dám chắc rằng mình thích điều kiện mới này. Y thực sự đang trông đợi việc làm một ngàn người trở nên điên dại. ”Chúa tể Sheogorath, tôi lấy làm xấu hổ vì đã quấy rầy Ngài với yêu cầu nông cạn và ích kỷ của tôi. Tôi xin phép rút lại lời yêu cầu và rời khỏi nơi này.”

    Sheogorath cười phá lên, “Quá trễ rồi Ravate ơi. Trò chơi đã diễn ra và người phải chơi.” Ravate liền bỏ chạy và nhận ra rằng tất cả các lối thoát khỏi thế giới Daedric đều đã bị niêm phong lại. Y rảo bước trong vô vọng, liên tục nhìn lại sau lưng và nhảy dựng lên khi nghe tiếng động lạ. Mỗi lúc như vậy càng làm cho Ravate lo sợ đến lúc nào mà Sheogorath ra tay.

    Sau ba ngày, Ravate tin rằng từng cành cây ngọn cỏ hay những loài vật tại đây đều là công cụ của Sheogorath. Y không dám ăn hay uống bất cứ thứ gì vì sợ bị Sheogorath bỏ độc. Y cũng không dám ngủ vì sợ rằng Sheogorath sẽ xâm nhập vào những giấc mơ của hắn. (Điều này hoàn toàn là ngu xuẩn, vì những giấc mơ là lãnh địa của Vaermina, Người đã ban cho chúng ta giấc ngủ ngon.)

    Sau đó, Sheogorath xuất hiện. Ravate liền khóc thét lên, “Ngài đã cho cả thế giới này theo dõi tôi! Từng sinh vật và cây cối này đều đang khiến tôi điên lên như trò chơi của Ngài.”

    Sheogorath liền đáp, ”Thực ra ta chưa làm gì cả. Chính bản thân nhà ngươi đã tự khiến mình trở nên điên loạn do sự sợ hãi của ngươi. Chính ảo giác mà người tạo ra đã chứng minh ngươi bị mất trí, do đó, ta là người thắng cuộc. Trong khi nhà ngươi muốn làm cho một ngàn người trờ nên điên loạn, ta thì chỉ cần làm điều đó với một người thôi, chính là ngươi.”

    Từ đó, Ravate phục vụ mọi mệnh lệnh của Sheogorath. Bất cứ khi nào có những người thám hiểm cả gan muốn tiếp cận Sheogorath, Ravate cảnh báo, “Sheogorath thực sự đã ở trong mỗi chúng ta. Nhà người thua hoàn toàn rồi.”

    [hr][/hr]

    Dịch giả: h1tm4n

    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
  15. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Lịch Sử Tóm Lược Của Đế Quốc, Quyển II.
    (Brief History of the Empire, v2)
    [HR][/HR]

    Lịch sử tóm lược của Đế quốc
    Phần II


    Bởi Stronach k’Thojj III, sử gia Imperial

    Phần 2 trong loạt sách miêu tả những sự kiện lịch sử của Đế quốc
    [HR][/HR]
    Ghi chú: Đây là phiên bản Skyrim của cuốn sách này. Để tìm đọc những phiên bản của Morrowind, Oblivion, và Daggerfall, tìm đọc Lịch sử tóm lược của Đế quốc, quyển II và Lịch sử tóm lược của Đế quốc, phần II.
    [HR][/HR]

    Phần 1 của loạt sách này đã mô tả một cách ngắn gọn về cuộc đời của tám vị Quốc vương đầu tiên của vương triều Septim, bắt đầu bởi Tiber Septim vinh quang và kết thúc bởi đứa cháu gái tám đời vĩ đại, vĩ đại, vĩ đại, vĩ đại của ông, Kintyra II. Kintyra bị ám sát tại Glenpoint khi đang bị giam cầm bởi những kẻ được coi là mang huyết thống thuần chủng cuối cùng của vương tộc Septim. Điều này chắc hẳn sẽ là cột mốc đánh dấu cho một điều gì đó thật trọng đại.

    Uriel III không chỉ tự phong cho mình là Quốc vương của toàn cõi Tamriel, mà còn lấy hiệu là Uriel Septim III, sử dụng dòng họ cao quý đó như là một danh hiệu. Thực tế, họ của hắn là Mantiarco, theo trực hệ dòng cha. Sau này, mặc dù Uriel III đã bị phế truất và những tội ác của hắn không ngừng bị nguyền rủa và xỉ vả, nhưng truyền thống sử dụng họ Septim như danh hiệu của các Quốc vương Tamriel không mất đi cùng cái chết của hắn.

    Suốt sáu năm ròng, cuộc chiến Kim Cương Đỏ (the War of the Red Diamond) (cái tên được lấy từ gia huy nổi tiếng của hoàng tộc Septim) đã xâu xé Đế quốc thành từng mảnh. Lực lượng tham chiến chính là ba đứa con còn sống của Pelagius II- Potema, Cephorus, và Magnus- cùng con cháu của họ. Potema, hẳn nhiên là hỗ trợ cho con trai mình, Uriel III, và nhận được sự hỗ trợ chung của toàn thể Skyrim cũng như miền bắc Morrowind. Nhờ sự nỗ lực của Cephorus và Magus, vùng High Rock đã trở mặt với Potena và Uriel III. Những vùng khác như Hammerfell, quần đảo Summurset, Valenwood, Elsweyr và Black Marsh chia rẽ sâu sắc khi một phần thì trung thành với Cephorus và Magus, số khác lại ủng hộ Uriel III, nhưng phần lớn các lãnh chúa đều hỗ trợ cho Cephorus và Magus.

    Năm 127 Kỷ Nguyên Thứ Ba, Uriel III bị bắt sống trong trận đánh Ichidag ở Hammerfell. Trong khi đang áp giải hắn về thủ đô Imperial, một đám đông dân chúng bất thình lình lao đến và thiêu sống hắn trong chiếc xe tù. Chú ruột và cũng là người đã bắt giữ hắn tiếp tục lên đường về thủ đô, đăng quang ngôi vị trở thành Cephorus I, Quốc vương của Tamriel, trong tiếng tung hô nhiệt thành của dân chúng.

    Dấu ấn cho sự cai trị của Cephorus không gì khác ngoài chiến tranh. Dù tất cả những ghi chép và nhận xét đều nói rằng, ông là một vị vua thông minh và tốt bụng, nhưng điều Tamriel mong mỏi trong thời kỳ này là một chiến binh vĩ đại – và ông, rõ ràng là một chiến binh như thế. Mất thêm mười năm chiến tranh dai dẳng ông mới có thể tiêu diệt người chị Potema của mình, người được mệnh danh Nữ Hoàng Sói ở Solitude đã chết trong trận vây hãm thành quốc của bà ta năm 137. Cephorus băng hà sau đó ba năm. Trong suốt cuộc đời chinh chiến của mình, ông thậm chí không có chút thời gian rảnh để thành gia lập thất, và vì thế em trai của ông, đứa con thứ tư của Pelagius II, nhận được quyền kế vị ngai vàng.

    Quốc vương Magnus đã khá cao tuổi khi tiếp nhận vương vị, và quá trình thanh trừng những lãnh chúa phản bội trong chiến tranh Kim Cương Đỏ đã rút cạn những sức lực cuối cùng của ông. Nhiều truyền thuyết nói rằng con trai cũng là người thừa kế của ông, Palegius III đã sát hại ông để giành lấy ngai vàng, nhưng điều đó gần như chắc chắn là không có thực, khi Pelagius trở thành lãnh chúa của Solitude sau cái chết của Potema, và rất hiếm khi về thăm thủ đô Imperial.

    Pelagius III, thỉnh thoảng bị gọi là Pelagius điên loạn, lên ngôi vào năm 145 của Kỷ Nguyên Thứ Ba. Ngay từ khi mới lên ngôi, sự lập dị trong tính cách của ông đã được các quần thần nhận thấy. Ông sỉ nhục quan lại, xúc phạm các lãnh chúa chư hầu, và sự việc đánh dấu sự kết thúc của vương triều này là khi ông cố treo cổ tự vẫn. Người vợ đau khổ của ông được bầu làm người nhiếp chính của Tamriel, và Pelagius III được chuyển đến điều trị tại hàng loạt các tổ chức y dược và nhà thương điên cho đến lúc chết, đó là năm 153 Kỷ Nguyên Thứ Ba, hưởng dương ba mươi tư tuổi.

    Nữ hoàng nhiếp chính của Tamriel được tấn phong là Nữ Hoàng Kataruah I sau cái chết của chồng. Một số người không đồng tình với việc dòng máu của Septim đã chết cùng với nữ hoàng Kintyra II cho rằng chính quyền lực của người phụ nữ Dark Elf này đã dẫn đến sự suy tàn của nó. Những người bảo vệ bà thì quả quyết rằng, mặc dù Katariah không có quan hệ huyết thống với Tiber, nhưng đứa con của bà và Pelagius lại có, vì thế nên vương tộc của đế quốc vẫn còn được tiếp nối. Mặc cho sự phân biệt chủng tộc sâu sắc, bốn mươi sáu năm cai trị của Katariah thực sự là một trong những thời kì nổi tiếng nhất trong lịch sử của Tamriel. Không thoải mái trong thủ đô Imperial, Katariah lên đường du ngoạn khắp Đế quốc, một việc làm mà chưa Quốc vương nào, ngoại trừ Tiber, từng thực hiện. Bà sửa chữa những mối quan hệ đồng minh đã bị phá hỏng trước đây do chính sách ngoại giao tệ hại gây ra. Tình yêu mà tầng lớp bình dân của Tamriel dành cho bà lớn hơn rất nhiều so với giai cấp quý tộc. Katariah qua đời trong một trận giao tranh nhỏ ở Black Marsh, việc này đã trở thành đề tài sôi nổi của rất nhiều sử gia. Như nhà thông thái Montalius đã phát hiện ra những kẻ thuộc một nhánh gia tộc nhỏ từng bị trục xuất khỏi vương tộc Septim đã bị nhận diện khi tham dự vào trận đánh này.

    Khi Cassynder thừa hưởng ngai vàng sau cái chết của mẹ, ông đã là một người trung niên. Chỉ mang nửa dòng máu Elven, tuổi thọ của ông tương tự như người Breton. Thực tế thì ông đã nhường lại quyền cai trị vùng Wayrest cho người em cùng mẹ khác cha Uriel vì lý do sức khỏe. Tuy nhiên, vì là người nối dõi dòng máu cuối cùng của Pelagius cũng như Tiber, ông đã bị ép phải nhận lấy ngai vàng. Không mấy ngạc nhiên khi triều đại của ông không kéo dài lâu. Chỉ sau hai năm ông đã gia nhập cùng những người tiền nhiệm vào giấc ngủ vĩnh hằng.

    Uriel Lariat, em cùng mẹ khác cha với Cassynder, là con trai của Katariah I và người chồng sau Gallivere Lariat (sau cái chết của Pelagius III), đã rời vùng Wayrest để tiếp nhận ngai vàng với danh hiệu Uriel IV. Về mặt pháp lý, Uriel IV là một thành viên của vương tộc Septim: Cassynder đã công nhận ông là một thành viên của hoàng tộc bằng việc trao cho ông quyền cai trị Wayrest. Tuy nhiên, đối với hội đồng và dân chúng của Tamriel, thì ông chỉ là một đứa con hoang của Katariah. Uriel không có được sự khôn khéo như mẹ mình, và bốn mươi ba năm trị vì của ông ngập trong nội loạn.

    Câu chuyện về Uriel IV sẽ được kể trong phần ba của loạt sách này.
    [HR][/HR]

    Dịch giả: hieumapdau

    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/1/12
  16. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Lịch Sử Tóm Lược Của Đế Quốc, Quyển III.
    (Brief History of the Empire, v3)
    [HR][/HR]

    Lịch sử tóm lược của Đế quốc
    Phần III

    Bởi Stronach k’Thojj III, sử gia Imperial
    Phần 3 trong loạt sách miêu tả những sự kiện lịch sử của Đế quốc
    [HR][/HR]
    Ghi chú: Đây là phiên bản Skyrim của cuốn sách này. Thứ khác biệt duy nhất là ngày đăng vị của Cephorus II, “năm 247 Kỷ Nguyên Thứ Ba thay vì năm 268 Kỷ Nguyên Thứ Ba”. Để tìm đọc những phiên bản của Morrowind, Oblivion, và Daggerfall, tìm đọc Lịch sử tóm lược của Đế quốc, quyển III và Lịch sử tóm lược của Đế quốc, phần III.
    [HR][/HR]

    Phần đầu của loạt sách này đã mô tả ngắn gọn về vinh quang rực rỡ của tám Quốc vương đầu tiên của vương triều Septim, từ Tiber I đến Kintyra II. Phần hai mô tả về chiến tranh Kim Cương Đỏ và sáu vị Quốc vương sau đó, từ Uriel III đến Cassynder I. Ở cuối phần hai, đã kể sơ lược về việc người em cùng mẹ khác cha của Quốc vương Cassynder, Uriel IV đã tiếp nhận ngai vàng của Tamriel như thế nào.

    Các bạn hẳn vẫn còn nhớ rằng Uriel IV không phải con cháu cùng huyết thống của dòng họ Septim. Mẹ của ông, mặc dù nắm giữ ngai vàng khá lâu, là một Dark Elf đã kết hôn cùng một Quốc vương Septim, Pelagius III. Cha ruột của Uriel là chồng sau của Katariah I sau khi Pelagius chết, một quý tộc Breton tên Gallivere Lariat. Trước khi nhận lấy ngai vàng, Cassynder I đang cai trị vương quốc Wayrest, nhưng vì sức khỏe kém nên ông đã thoái vị. Cassynder không có con, nên ông đã nhận người em cùng mẹ khác cha Uriel làm con nuôi và trao cho quyền cai quản vương quốc. Bảy năm sau, Cassynder thừa kế ngôi vị Quốc vương sau cái chết của người mẹ. Và ba năm sau, lại một lần nữa Uriel trở thành người thừa kế ngai vàng của Cassynder.

    Triều đại của Uriel tuy dài nhưng đầy rẫy khó khăn. Bởi những kẻ ghen tức khi ông được nhận làm con nuôi hợp pháp của hoàng tộc Septim, và ghen tị với quyền lực mà dòng họ Lariat được hưởng – đó là những người anh em họ xa của hoàng tộc Septim – một vài kẻ trong Hội Đồng Tiền Bối sẵn lòng hợp thức hóa việc họ là người nối dõi dòng máu của Tiber. Hội Đồng đã nắm giữ khá nhiều quyền lực suốt hai triều đại của Katariah I và Cassynder, và một Quốc vương “lạc chủng” như Uriel IV dù cứng cỏi đến đâu cũng phải nhận ra rằng không có cách nào để điều khiển lũ người cổ hủ đó. Thời gian cứ trôi khi những xung đột giữa Quốc vương và Hội Đồng ngày càng gay gắt, thời gian cứ trôi khi Hội Đồng dần nắm giữ toàn quyền. Kể từ giai đoạn của Pelagius II, Hội Đồng Tiền Bối là tập hợp của những người giàu có nhất Đế quốc, và quyền lực mà họ nắm giữ nay đã đủ để quyết định thời cuộc.

    Sau cái chết của Uriel IV, cán cân quyền lực hoàn toàn nghiêng về phía Hội Đồng. Andorak, con trai Uriel IV, đã bị Hội Đồng đồng bỏ phiếu nghịch, tước đi quyền thừa kế của ông, và một người họ hàng gần nhất của trực hệ Septim chính thống được đưa lên ngôi năm 247 Kỷ Nguyên Thứ Ba, lấy hiệu là Cephorus II. Trong chín năm đầu Cephorus II trị vì, những người trung thành với Andorak phát động nhiều cuộc chiến chống lại quân đội Imperial. Hành động này được nhà Hiền triết Eraintine goi là “trái tim của Tiber Septim đã không còn đập nữa”, Hội Đồng đã phải trao cho Andorak vương quốc High Rock vùng Shornhelm để chặn đứng cuộc chiến tranh, và cho đến bây giờ, dòng dõi của Andorak vẫn còn cai trị ở đó.

    Thực tế, có những kẻ thù mà Cephorus II phải dè chừng hơn cả Andorak. “Xuất hiện từ những cơn ác mộng tối tăm nhất”, theo những mô tả của Eraintine, một kẻ tự xưng là Camoran Usurper dẫn theo một đoàn quân của Daedra và những chiến binh Undead (xác sống) phá hoại và giết chóc khắp vùng Valenwood, xâm chiến hết vương quốc này đến vương quốc khác. Chỉ một số ít cố gắng chống trả lại sự tấn công mãnh liệt của chúng, và khi sự chống trả đó trở thành một cuộc thảm sát kinh hoàng, ngày càng ít người có đủ dũng khí chống lại chúng hơn. Cephorus II tới tấp gửi những đoàn lính đánh thuê đến Hammerfell để ngặn chặn mũi tiến công của Usurprt về hướng bắc, nhưng phần lớn đám quân này đều bị mua chuộc hoặc bị tàn sát và biến thành undead.
    Giai thoại về Camoran Usurper cần được miêu tả đầy đủ hơn trong một cuốn sách khác. (Độc giả nên tìm đọc cuốn sách “Sự thất bại của Usurper – The Fall of the Usurper” của tác giả Palaux Illthre để biết thêm chi tiết). Ngắn gọn thì, nhờ sự nỗ lực của Quốc vương mà sự phá hoại của quân đoàn Usurper được hạn chế đến mức tối thiểu. Kết quả là một chiến thắng to lớn giải phóng các vùng miền, nhưng thái độ thù địch của người dân đối với Đế quốc ngày càng tăng cao khi họ cho rằng “Đế quốc quá tệ hại trong bảo vệ trị an”.

    Uriel V, con trai thừa kế ngai vàng của Cephorus II, nuôi tham vọng chinh phục những sức mạnh chống đối ngầm trong nội bộ Đế quốc. Hướng sự chú ý của toàn cõi Tamriel vào những cuộc chiến tranh cục bộ, Uriel V dấn thân vào hàng loạt các cuộc chinh phạt gần như ngay từ khi ông thừa hưởng ngai vàng năm 268 Kỷ Nguyên Thứ Ba. Uriel V chinh phạt Roscrea năm 271, Cathnoquey năm 276, Yneslea năm 279, và Esroniet năm 284. Vào năm 288 Kỷ Nguyên Thứ Ba, ông bắt tay thực hiện tham vọng táo bạo nhất của mình, cuộc thảo phạt vương quốc đại lục Akavir. Tham vọng này rốt cuộc đã thất bại thảm hại, và Uriel V bị giết tại Akavir, trên chiến trường Ionith hai năm sau đó. Tuy thế, Uriel V đã được vinh danh như một trong hai vị Quốc vương chiến binh vĩ đại nhất toàn cõi Tamriel, chỉ xếp sau Tiber.

    Bốn Quốc vương cuối cùng, bắt đầu với đứa con thơ ấu của Uriel V, sẽ được mô tả trong cuốn sách cuối cùng, phần thứ tư của loạt sách này.
    [HR][/HR]

    Dịch giả: hieumapdau


    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
  17. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Lịch Sử Tóm Lược Của Đế Quốc, Quyển IV.
    (Brief History of the Empire, v4)
    [HR][/HR]
    Lịch sử tóm lược của Đế quốc
    Phần IV

    Bởi Stronach k’Thojj III, sử gia Imperial

    Phần 4 trong loạt sách miêu tả những sự kiện lịch sử của Đế quốc
    [HR][/HR]
    Ghi chú: Đây là phiên bản Skyrim của cuốn sách này. Có một bản tương tự nhưng không đồng nhất của Morrowind, Oblivion, và Daggerfall, tìm đọc Lịch sử tóm lược của Đế quốc, phần IV cho phiên bản này.
    [HR][/HR]

    Cuốn đầu tiên trong loạt sách này đã miêu tả một cách ngắn gọn về tám vị Quốc vương đầu tiên của vương triều Septim, khởi đầu với Tiber I. Cuốn thứ hai nói về cuộc chiến Kim Cương Đỏ và sáu vị Quốc vương tiếp theo. Cuốn thứ ba là câu chuyện về ba vị Quốc vương kế tiếp – Quốc vương thất thế Uriel IV, Quốc vương Cephorus II không thu được nhân tâm, và Quốc vương Uriel V oai hùng.

    Khi Uriel V tử trận tại vương quốc thù địch Akavir bên kia đại dương, Uriel VI chỉ mới tròn năm tuổi, được sinh ra trước khi phụ vương ông tiến đánh Akavir không lâu. Uriel VI là con trưởng, anh trai của hai em gái song sinh Morihatha và Eloisa (con của Uriel V và một người phụ nữ thường dân), được sinh chỉ một tháng sau khi Uriel V lên đường. Uriel VI lên ngôi vào năm 290 Kỷ Nguyên Thứ Ba. Phu nhân Thonica, mẹ của ông, được giao quyền nhiếp chính có giới hạn cho đến khi Uriel VI trưởng thành. Hội Đồng Tiến Bối một lần nữa nắm giữ quyền lực tối cao như họ đã từng có trong triều đại của Katariah I.

    Hội Đồng rất ham hố với quyền được tự do và không hạn chế trong việc ban hành luật lệ của mình (đẻ ra nhiều lợi nhuận) nên Uriel VI vẫn không được nắm lấy quyền hành thực sự mãi cho đến năm 307, khi đã 22 tuổi. Ông gặp khá nhiều rắc rối khi thu hồi lại quyền lực của mình từng chút một suốt nhiều năm, nhưng cả Hội Đồng lẫn mẹ của ông, lúc này đã quá quen mùi quyền lực từ quyền nhiếp chính dù hạn chế của mình, đã bị ông ép phải miễn cưỡng trao trả lại tước quyền. Vào thời điểm ông mới lên ngôi, cơ chế Hội Đồng lãnh đạo chỉ trao cho ông quyền phủ quyết, quyền lực tối thiểu nhất của một vị vua.

    Tuy thế, quyền lực tối thiểu này lại được ông sử dụng thường xuyên và mạnh mẽ. Đến năm 313, Uriel VI có thể tự hào rằng ông thực sự đã giành lại được quyền thống trị của Tamriel. Ông đã khôi phục và sử dụng lại hệ thống gián điệp cùng lực lượng lính canh để uy hiếp và đe dọa những thành viên cứng đầu trong Hội Đồng Tiền Bối. Cô em gái cùng cha khác mẹ Morihatha (không ngạc nhiên lắm) chính là đồng minh tin cậy nhất của ông, đặc biệt là sau đám cưới với hoàng thân Ulfe Gersen của Winterhold đã mang lại cho cô sự giàu sang và uy quyền đáng kể. Như nhà hiền triết Ugaridge đã nói, “Uriel V chinh phục Esroniet, còn Uriel VI chế ngự Hội Đồng Tiền Bối từ đầu đến đuôi”.

    Khi Uriel VI té khỏi yên ngựa và qua đời mặc cho sự cố gắng chạy chữa của những thầy lang giỏi nhất Imperial, em gái Morihatha yêu quý của ông đành nhận lấy vương miện hoàng đế. Ở tuổi 25, cô được mọi người miêu tả (bản thân tôi cũng phải công nhận) như là một tạo vật đẹp đẽ nhất trên toàn cõi Tamriel. Hơn nữa, cô còn rất ham học hỏi, hoạt bát, yêu thích thể thao, và là một chính trị gia lão luyện. Cô đã đưa Archmagister của Skyrim đến với thủ đô Imperial và tạo ra một Imperial Battlemage thứ hai kể từ thời của Tiber Septim.

    Morihatha đã hoàn thành công việc mà anh trai cô đã bắt đầu, và đưa đế chế Imperial vào khuôn khổ cai trị dưới quyền của Nữ hoàng (về sau, là các Quốc vương). Tuy nhiên, bên ngoài khu vực Imperial, toàn đế quốc đang dần dần bị hủy hoại. Những cuộc nổi loạn công khai và nội chiến đã nổ ra trên quy mô không thể kìm hãm nổi kể từ triều đại của ông cô, Cephorus II. Thận trọng điều động các cuộc phản công của mình, Morihatha chậm rãi thu phục những chư hầu nổi loạn, cố hết sức tránh việc dàn trải quân đội của mình.

    Mặc dù những chiến dịch quân sự của Morihatha thành công xuất sắc, nhưng sự thận trọng của cô làm Hội Đồng cảm thấy khó chịu. Một thành viên Hội Đồng thuộc chủng tộc Argonian có cái tên theo Colovian là Thoricles Romus, điên tiết lên khi cô từ chối gửi quân tiếp viện đến chiến trường Black Marsh, bị nhiều người cho rằng chính hắn đã thuê tay sát thủ đã sát hại Morihatha năm 339 Kỷ Nguyên Thứ Ba. Romus sau đó bị kết án và tử hình, mặc dù hắn liên tục kháng án rằng mình vô tội cho đến phút cuối cùng.

    Morihatha không có con, và Eloisa thì đã chết trước đó khoảng bốn năm. Vì thế đứa con 25 tuổi của Eloisa, Pelagius được thừa hưởng ngai vàng, hiệu là Pelagius IV. Pelagius IV đã tiếp tục sự nghiệp của dì, chậm rãi thu về dưới trướng mình những vương quốc bướng bỉnh và chống đối, cũng như những công hầu, bá tước của Đế quốc. Ông cố gắng thực hiện theo những kế hoạch và chính sách của Morihatha đã vạch ra – nhưng đáng tiếc, ông không được thành công như người dì của mình. Những vương quốc con đã bị kìm kẹp quá lâu đến độ xem cái vẻ ngoài nhân từ của Imperial như một sự ghê tởm. Tuy nhiên, khi Pelagius chết sau hai mươi chín năm cai trị đặc biệt ổn định và thịnh vượng, Tamriel đã rất gần với sự thống nhất như triều đại của Uriel I.

    Quốc vương hiện tại của chúng ta, vừa oai nghiêm vừa đáng sợ, Uriel Septim VII, con trai của Pelagius IV, mang trong mình sự cần cù của người bà đáng kính Morihatha, kĩ năng chính trị của người ông tài ba Uriel VI, và sự anh dũng tuyệt vời của ông cố Uriel V. Suốt hai mươi mốt năm trị vì, ông đã mang lại bình đẳng và công lý cho toàn cõi Tamriel. Tuy nhiên, vào năm 389 Kỷ Nguyên Thứ Ba, Imperial Battlemage Jagar Tharn, đã phản bội ông.

    Uriel VII bị giam cầm trong một hầm ngục do Tharn tạo ra, và Tharn sử dụng phép thuật ảo tưởng của hắn để khoác lên mình diện mạo của Quốc vương. Mười năm tiếp đó, Tharn lạm dụng đặc quyền của Quốc vương nhưng không tiếp tục thực hiện chiến lược chinh phục của Uriel VII. Cho đến này vẫn chưa xác định được nguyên nhân và mục đích của hắn khi giả mạo chủ nhân của mình suốt mười năm. Năm 399 Kỷ Nguyên Thứ Ba, một chiến binh bí ẩn đã đánh bại Tharn trong khu nhà ngục ở cung điện Imperial, giải thoát Uriel VII khỏi cảnh ngục tù.

    Sau khi được giải thoát, Uriel Septim VII đã làm việc cật lực nhằm khôi phục lại những trận chiến để hợp nhất Tamriel. Sự phá bĩnh của Tharn đã phá hủy đà tiến lên mà ông đã định, đó là sự thật – nhưng những năm sau đó đã chứng tỏ rằng hy vọng phục hồi thời đại hoàng kim của Tiber Septim và mang vinh quang cho Tamriel một lần nữa không phải là việc quá xa vời.
    [HR][/HR]

    Dịch giả: hieumapdau[/td]
    [/tr]
    [/table]
     
  18. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Cách rèn các loại áo giáp nhẹ
    (Light Armor Forging)
    [HR][/HR]

    Tác giả : Revus Sarvani
    Cuốn sách miêu tả chi tiết những phương pháp rèn đúc các loại áo giáp nhẹ

    Có 2 loại áo giáp nhẹ, giáp chế tạo từ kim loại và giáp chế tạo từ phi kim. Elven và Glass là giáp nhẹ làm bằng kim loại. Bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Glass được xem là kim loại mặc dù vẻ ngoài của chúng không hề giống kim loại chút nào . Gọi là Glass (kính) là vì nó không khác gì một tấm kính cửa sổ mà bạn thấy trong nhà. Dù vậy thứ nguyên liệu màu xanh lục này bền hơn và nhiệt độ nóng chảy cũng cao hơn rất nhiều.

    Các loại giáp chế tạo từ phi kim thì bao gồm giáp da thô (Hide), giáp gắn đinh tán (Studded), giáp da thuộc (Leather) và giáp đan dạng vảy (Scaled). Để làm ra các loại giáp nhẹ này thì người chế tạo vừa là thợ rèn vừa phải có kĩ năng của người thợ may. Tất cả đều sử dụng nhiều mảnh da thuộc lớn được khâu lại với nhau bởi những sợi da (Leather Strips).

    Giáp nhẹ có gắn đinh tán cũng cần phải có những thỏi sắt, được sử dụng để làm đinh và những cái khuyên bằng kim loai nhằm giúp cho bộ giáp phát huy được hiệu quả hơn là một miếng da không. Áo giáp làm bằng vảy thì sử dụng thép thay vì sắt, nhưng là loại thép có pha lẫn Corundum để tạo thành một loại hợp kim bền vững hơn.

    Suốt nhiều thế kỷ, bí mật để chế tạo áo giáp Elven được bảo vệ rất nghiêm ngặt ở quần đảo Summerset (Summerset Isle). Cho đến khi một kẻ phản bội tên Ulvul Llaren mang bí mật này truyền bá ra ngoài, Ulvul vốn là một nô lệ Dark Elf làm việc dưới sự áp bức của Nuulion, một thợ rèn kì cựu ở Summerset từ thế kỷ thứ năm đến thế kỷ thứ bảy của Kỷ Nguyên Thứ Hai. Khi Ulvul bỏ trốn, có lẽ hắn nghĩ rằng không có hình phạt nào nặng nề hơn cho sự độc ác và tàn nhẫn của chủ nhân hắn bằng việc tiết lộ tất cả những bí mật của ông ta ra thế giới bên ngoài. Và vì thế chúng ta mới biết được rằng đá mặt trăng (Moonstone) chính là nguyên liệu quan trọng trong việc chế tạo ra áo giáp Elven , và nước biển được dùng trong việc làm nguội kim loại đang nóng chảy .

    Đối với áo giáp Elven mạ vàng thì các bạn phải nấu chảy thuỷ ngân. Thuỷ ngân thì dễ nóng chảy hơn nhiều so với đá mặt trăng, làm cho nó dễ dàng hơn khi rèn đúc cùng lúc hai kim loại.

    Đòi hỏi sự khéo léo nhất trong quá trình chế tạo đó chính là Glass . Bạn phải gõ búa lệch khỏi những thớ kim loại mặc dù làm vậy có thể khiến cho bộ giáp bị vỡ. Nguyên liệu cơ bản là Malachite, tuy nhiên cần có thêm ít đá mặt trăng gia tăng độ kiên cố cho bộ giáp.
    [HR][/HR]

    Dịch giả : iskras[/td]
    [/tr]
    [/table]
     
  19. hieumapdau

    hieumapdau Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    15/7/08
    Bài viết:
    1,201
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Sự thất bại của Hoàng tử tuyết
    (Fall of the Snow Prince)
    [HR][/HR]

    bởi Lokheim
    Cuốn sách tường thuật về trận chiến vùng Moesring dưới ngòi bút của Lokheim, biên niên sử gia của tộc trưởng Ingjaldr Mắt Bạc (Ingjaldr White-Eye).

    Hắn ta đến từ đâu vẫn còn là một câu hỏi, nhưng mỗi khi xuất hiện trong trận chiến, hắn ta đều cưỡi một con chiến mã rực rỡ một màu trắng xanh xao. Chúng tôi đơn giản gọi hắn là Elf, và hắn ta rõ ràng mang trong mình khí chất của tộc Elf không lẫn vào đâu được, mặc dù thoạt nhìn, hắn không hề giống với bất cứ kẻ đồng loại nào mà chúng tôi đã thấy trước khi cái ngày định mệnh đó xảy ra. Mũi giáo và giáp trụ của hắn mang hào quang chói lói và ánh lên sắc đỏ rực khủng khiếp của một loại ma thuật kì dị, chính điều đó khiến cho hắn toát lên một khí thế mạnh mẽ hơn một chiến binh gấp nhiều lần.

    Rắc rối mới đến này, không những thế, còn khiến chúng tôi hoảng sợ hơn vào thời khắc một tiếng thét lớn đồng loạt vang lên giữa đám quân Elven khi thấy hắn. Nó không phải một tiếng thét sợ sệt, cũng không phải tiếng thét ngạc nhiên, mà như một âm thanh báo hiệu sự vui mừng nhẹ nhõm không thể kiềm chế, như thể lũ khốn kiếp ấy đã giành lại được sự sống từ tay tử thần. Vì vào thời điểm đó, lũ Elves đáng nguyền rủa đã tiến gần đến cái chết hơn bao giờ hết trong suốt cuộc chạm trán vĩ đại của Solstheim. Trận chiến vùng Moesring là trận đánh cuối cùng giữa tộc Nord và Elf trên hòn đảo yêu quý của chúng ta. Dưới sự lãnh đạo của Ysgramor, chúng ta đã đánh bật lũ Elven quái ác khỏi Skyrim, và định thuận đà quét sạch toàn bộ bọn chúng ở Solstheim. Những chiến binh của chúng ta, trang bị những lưỡi rìu và kiếm tốt nhất mà những thợ thủ công Nord có thể rèn ra được, dũng cảm xông lên đâm xuyên đội hình địch. Con dốc ở Moesring nhuộm màu đỏ tươi khi máu của lũ Elf vương vãi. Thế thì tại sao, khi sau đó chúng có thể tập hợp lại? Tại sao sự xuất hiện của một kị sĩ đơn độc lại có thể đem đến hy vọng nhường ấy cho một đội quân đã hoàn toàn tuyệt vọng?

    Đối với phần lớn chúng tôi, ý nghĩa của tiếng thét đó đã rất rõ ràng, chắc chỉ là tiếng kêu gào tuyệt vọng và đau đớn của lũ Elven trước bờ vực chết chóc. Tuy nhiên, trong đội quân của chúng tôi khi đó, cũng có những học giả và những biên niên sử gia, những người thừa khả năng hiểu được ngôn ngữ của chúng đã rùng mình ghê sợ khi tiếng thét ấy cất lên.

    “Hoàng tử tuyết đã tới! Với bàn tay mang đến sự diệt vong!”

    Một sự bình tĩnh mạnh mẽ lan tỏa khắp hàng ngũ Elves còn đang lúng túng. Hoàng tử tuyết cưỡi ngựa xuyên qua đoàn quân lúc nhúc ấy, và như một con thuyền rẽ dòng nước băng giá của Fjalding, hắn ta rẽ đôi đoàn quân của mình. Con ngựa trắng tráng lệ bắt đầu giảm tốc độ, rồi phi nước kiệu, và kị sĩ Elf bí ẩn đó chậm rãi tiến đến đầu đoàn quân, với sự di chuyển y như ma quỷ.

    Một chiến binh tộc Nord hẳn đã chứng kiến rất nhiều thứ trong suốt cuộc đời đẫm máu và những trận chiến của mình, và rất hiếm khi ngạc nhiên trước những gì mà một trận giáp chiến có thể mang lại. Nhưng rất ít người trong chúng tôi khi đó có thể hình dung được sự sợ hãi và lung lay bao trùm trên chiến trường tàn khốc đó khi tất cả bỗng trở nên bất động và im lìm, khi áp lực từ Hoàng tử tuyết đè nặng lên mỗi chúng tôi Ngay cả khi tiếng thét vui mừng của lũ Elves chấm dứt, sự yên lặng vẫn ngự trị khắp chiến trường như sự tĩnh mịch của một giấc ngủ say, như sự bình yên trước mỗi cơn bão khủng khiếp. Và sau đó cả hai phe cùng lao đến, Elf và Nord lẫn lộn, như một thỏa thuận giữa chiến trường ngập ngụa máu xương – chiến thắng hay thua trận chẳng còn là thứ đáng quan tâm trên con dốc núi Moesring ngày ấy. Sự thật mà tất cả những kẻ tham chiến đều hiểu rõ là cái chết sẽ đến với rất nhiều người, dù thắng hay bại đều như nhau. Hoàng tử tuyết oai hùng, một người Elf khác hơn hết thảy, xuất hiện vào ngày đó để mang đến cái chết cho đồng loại của chúng ta. Cũng như cái chết mà đồng loại của hắn ta phải trả.

    Đột ngột và bạo liệt như một trận bão tuyết có thể xé nát những khách bộ hành lạc lối và đe dọa hất tung cả nền móng những công trình cứng cáp nhất, Hoàng tử tuyết lao thẳng vào chúng tôi, cùng với băng và tuyết xoáy tròn thành từng trận lốc dữ, đánh tung lên quanh người hắn, như được gọi lên để tuân theo những mệnh lệnh mà hắn ban cho. Mũi giáo lập lòe ánh đỏ xoay tròn rít lên âm thanh báo tử cho bất cứ ai cản bước đường của Hoàng tử tuyết, và nhiều chiến binh dũng mãnh nhất của chúng ta đã bỏ mạng dưới tay hắn: Ulfgi Anvil-Hand (Ulfgi Tay-Đe), Strom the White (Strom Trắng), Freida Oaken-Wand (Freida Gậy-Gỗ-Sồi), Heimdall the Frenzied (Heimdall Điên Cuồng). Tất cả đều hy sinh tại chân núi Moesring.

    Có vẻ như lần đầu tiên kể từ lúc bắt đầu, chiều hướng của trận chiến đã hoàn toàn thay đổi. Lũ Elves, như được kích thích bởi những chiến tích của Hoàng tử tuyết, đã tập hợp lại cho trận sống mái cuối cùng với lực lượng của chúng ta. Ngay sau đó, chỉ trong một thoáng chốc, trận chiến vùng Moesring chấm dứt một cách đột ngột với một cái kết bất ngờ.

    Finna, con gái của Jofrior, một cô bé chỉ mới mười hai tuổi và tham gia trận chiến cùng mẹ, đã chứng kiến tận mắt mẹ mình bị Hoàng tử tuyết sát hại. Đau đớn và phẫn nộ, Finna lao đến nhặt lấy thanh kiếm của Jofrior rồi dùng hết sức bình sinh phóng nó về phía kẻ thù giết mẹ mình. Khi ngọn giáo Elf lập lòe chút hào quang cuối cùng và ngừng hẳn vũ điệu chết chóc của nó, cả chiến trường như bất động, và dồn mọi ánh mắt về phía Hoàng tử tuyết. Không ai trong thời khắc đó có thể ngạc nhiên hơn chính hắn trước sự thật bày ra trước mắt mọi người. Ngồi trên con chiến mã của mình, lưỡi kiếm của Jofrior cắm sâu vào ngực hắn. Và rồi, hắn ngã xuống, khỏi con ngựa của mình, khỏi chiến trường, khỏi sự sống của hắn. Hoàng tử tuyết đã chết, dưới bàn tay của một đứa trẻ.

    Khi cứu tinh của lũ Elves bị giết, tinh thần của chúng ngay lập tức tan vỡ. Phần lớn bỏ chạy, những kẻ trụ lại trên chiến trường nhanh chóng bị hạ sát bởi những lưỡi rìu của tộc Nord chúng ta. Khi màn đêm buông xuống, tất cả những gì còn lại chỉ là cảnh tàn sát trên chiến trường. Và trên chiến trường nổi bật một thứ làm lu mờ tất cả kĩ năng và lòng dũng cảm, chính là bộ giáp và cây giáo của Hoàng tử tuyết vẫn tỏa sáng rạng ngời. Kể cả khi đã chết, chiến binh Elf bí ẩn và dũng mãnh này vẫn lấp đầy chúng tôi trong sợ hãi.

    Một phương pháp thông dụng là hỏa thiêu xác những kẻ thù của chúng ta. Điều này cực kì cần thiết bởi xác chết mang lại bệnh tật và nỗi khiếp sợ. Tộc trưởng của chúng tôi cũng muốn quét sách đám Elves khỏi vùng Solstheim, dù chết hay sống. Tuy nhiên, đó không phải là cái kết cho Hoàng tử tuyết. Một kẻ dũng mãnh nhường ấy trong chiến trận cũng như được đồng loại tôn kính như thế xứng đáng được đối xử tốt hơn. Kể cả khi đã chết, kể cả khi đó là kẻ địch của chúng ta.

    Và chúng tôi đưa thi hài của Hoàng tử tuyết, được bọc trong lụa tốt, đến một hầm mộ mới đào. Ngọn giáo và áo giáp đươc trưng lên bệ danh dự, và lăng mộ được xếp đầy kho báu như tiêu chuẩn quý tộc. Tất cả những tộc trưởng đều đồng ý cách làm này, rằng chiến binh Elf này phải được vinh danh. Thi thể của hắn sẽ còn ở trong hầm mộ chừng nào đất mẹ còn cho phép, nhưng sẽ không nhận được sự bảo vệ của những Stalhrim, như tiêu chuẩn của một quý tộc Nord không còn người thân.

    Và đến đây là kết thúc cho bài tường thuật về trận chiến vùng Moesring, và sự thất bại của Hoàng tử tuyết Elven hùng mạnh. Cầu thần linh của chúng ta vinh danh cho cái chết của hắn, và mong sao chúng ta không bao giờ còn gặp lại một kẻ như hắn trong suốt cuộc đời.
    [HR][/HR]

    Dịch giả: hieumapdau
    [/td]
    [/tr]
    [/table]
     
  20. h1tm4n

    h1tm4n Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    26/4/09
    Bài viết:
    80
    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Pelagius Điên Khùng
    (The Madness of Pelagius)
    [HR][/HR]
    Tác giả: Tsathenes - sơ lược lịch sử của vị Hoàng đế điên khùng nổi tiếng

    Hoàng tử Thoriz Pelagius Septim của dòng tộc hoàng gia ở Wayrest, người sẽ trở thành Hoàng Đế của lục địa Tamriel ra đời vào năm thứ 119 của Kỷ nguyên Thứ 3 - vào giai đoạn thoái trào của người chú Antiochus I. Vùng đất Wayrest rất được ưu ái trong những năm trước khi Pelagius sinh ra, vì Vua Magnus là hảo huynh đệ của Antiochus.

    Rất khó có thể khẳng định sự điên khùng của Pelagius được phát hiện khi nào vì thực sự 10 năm đầu tiên trong cuộc đời của ông là 10 năm sống trong một vùng đất chứa đựng nhiều điều điên rồ. Khi Pelagius hơn một tuổi, người chú Antiochus qua đời và một người con gái của ông là Kintyra II liền chiếm lấy ngôi vương dưới sự thừa nhận của tất cả mọi người. Kintyra II là chị họ của Pelagius và đồng thời là một phù thủy cao tay. Nếu có khả năng nhìn thấu tương lai, chắc bà đã bỏ trốn khỏi cung điện ngay lập tức.

    Câu chuyện về Cuộc Chiến Tranh Kim Cương Đỏ (War of the Red Diamond) đã được lưu truyền trong rất nhiều ghi chép của các nhà thông thái, nhưng hầu hết các nhà sử học đều đồng ý rằng ngôi vương của Kintyra II được chiếm lấy bởi Uriel - là anh họ của bà và Pelagius, bằng quyền lực của Potema - mẹ của Uriel đồng thời là người được mệnh danh Nữ hoàng Sói của Solitude. Một năm sau ngày lên ngôi, Kintyra bị sập bẫy ở Glenpoint và bị tống vào ngục Imperial tại đó.

    Toàn cõi Tamriel chìm trong chiến tranh khi Hoàng tử Uriel chiếm ngôi Vua - trở thành Uriel III. Ngoài ra, do Nữ Hoàng đang bị giam cầm tại High Rock (Glenpoint thuộc High Rock) nên vùng đất này là nơi xảy ra những trân chiến đẫm máu nhất. Nhà vua Magnus - cha của Pelagius - cùng với người anh em của mình là Cephorus hình thành một liên minh chống lại người chiếm ngôi vị Hoàng Đế và khiến cho dòng họ Wayrest phải gánh chịu cơn phẫn nộ của Uriel Đệ Tam và Thái Hậu Potema. Pelagius cùng mẹ Utheilla và các anh chị em phải chạy trốn đến vùng đảo Balfiera (Isle of Balfiera). Utheilla là người của dòng họ Direnni, và dinh thự của gia đình bà vẫn còn nằm trên hòn đảo đó đến ngày nay.

    Và cũng rất may mắn khi vẫn còn rất nhiều bản thảo viết tay ghi lại thời thơ ấu của Pelagius ở Balfiera do các y tá và những người khách tới thăm lưu lại. Tất cả mọi người khi đã gặp cậu bé đều miêu tả cậu là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, yêu thích thể thao, phép thuật và âm nhạc. Tuy vướng phải thói xấu của các chính khách là thiếu thành thật, nhưng có vẻ như Pelagius là một điềm báo phước lành cho tương lai của Triều đại Septim.

    Khi Pelagius lên tám, Cephorus giết Uriel III trong trận chiến tại Ichidag (Battle of Ichidag) và tuyên bố mình trở thành Hoàng Đế Cephorus I. trong 10 năm tại vị tiếp theo, Cephorus liên tục giao chiến với Potema. Trận chiến đầu tiên của Pelagius là Cuộc Vây Hãm thành Solitude (the Siege of Solitude) - kết thúc với cái chết của Potema và đặt dấu chấm hết cho cuộc chiến (War of the Red Diamond). Để tỏ lòng tôn trọng, Cephorus đưa Pelagius lên ngai vàng của Solitude.

    Khi lên ngôi vua Solitude, những hành vi bất thường của Pelagius bắt đầu lộ diện. Vì là một người cháu được Hoàng Đế yêu quí, vài nhà ngoại giao bắt đầu đàm tiếu những lời khó nghe về Pelagius. Trong hai năm đầu tại vị, Pelagius hầu như không để tâm đến sự thay đổi cân nặng đáng báo động của mình. Sau bốn tháng lên ngôi, một nhà ngoại giao từ Ebonheart gọi Pelagius là “một tâm hồn minh mẫn và tráng kiện với một trái tim to lớn, to đến nỗi nó làm cho ông bụng ông phát tướng”; năm tháng sau sự kiện đó, công chúa của Firsthold ghé thăm đã viết thư cho anh mình, trong đó viết “Nhà vua nắm chặt tay em và em cảm thấy tay mình như bị túm chặt bởi một bộ xương vậy. Pelagius quả thực là vô cùng gầy yếu.”

    Cephorus không cưới vợ và dĩ nhiên cũng không có người nối dõi. Ba năm sau Cuộc Vây Hãm thành Solitude, ông qua đời. Người họ hàng duy nhất mà ông có là Magnus - cha của Pelagius - rời bỏ Wayrest để nhận trách nhiệm trở thành Hoàng Đế Magnus I tại Imperial City. Nhưng lúc này Magnus cũng đã già và Pelagius lại là con trai cả của ông, nên mọi sự chú ý tại Tamriel dồn về Solitude. Lúc này, các hành vi bất thường của Pelagius bắt đầu lan truyền ra rộng rãi hơn.

    Có rất nhiều huyền thoại về Pelagius khi là vua của Sentinel, nhưng còn rất ít văn bản hoàn chỉnh được lưu giữ lại. Có người kể rằng Pelagius nhốt bản thân cùng với các hoàng tử và công chúa của xứ Silvenar trong phòng mình. Chỉ khi nhận được Thư Khiêu Chiến luồn qua khe cửa, ông mới thả mọi người ra. Khi đang đọc diễn văn tại một lễ hội ở địa phương, ông bất ngờ xé toạc quần áo của mình ra trước đám đông. Chính điều này khiến cho những người cố vấn của Pelagius quyết định phải trông chừng ông kỹ càng hơn. Theo lệnh của Magnus, Pelagius cưới Katariah Ra’athim - một cô gái giàu có thuộc giới thượng lưu của tộc Dark Elf cổ xưa.

    Các vị vua tộc Nord có vợ Dark Elf rất khó có uy danh với dân chúng. Có hai lý do mà hầu hết các học thuyết gia đưa ra. Magnus đang cố gắng giữ mối quan hệ với vùng Ebonheart, nơi mà gia tộc Ra’athim cư ngụ. Vùng Mournhold bên cạnh Ebonheart từng là một liên minh của Empire kể từ những ngày đầu khai phá, và gia đình hoàng gia của Hoàng Hậu Barenziah đã giành nhiều thắng lợi trong Cuộc Chiến Tranh Kim Cương Đỏ. Ebonheart từng bí mật giúp đỡ Uriel III và Potema.

    Một lý do khác mang tính cá nhân cho cuộc hôn nhân này: Katariah cũng giỏi trong ngoại giao nhiều như sự xinh đẹp của bà ta vậy. Nếu có bất cứ ai có khả năng che giấu được sự điên khùng của Pelagius thì chỉ có thể là bà.

    Vào ngày mùng 8 của Second Seed năm 145 Kỷ nguyên thứ ba, Magnus I qua đời khi đang ngủ. Jolethe - Chị của Pelagius - lên nắm quyền tại Solitude, và Pelagius cùng với Katariah chuyển đến thành phố Imperial để trở thành Hoàng Đế và Hoàng Hậu của Tamriel. Có người kể rằng Pelagius bất tỉnh khi vương miện được đặt lên đầu ông, nhưng do Katariah đỡ ông dậy nên chỉ những người đứng gần đó mới trông thấy. Và cũng như bao câu chuyện khác về Pelagius, không ai có thể xác nhận chuyện này cả.

    Pelagius III thực sự chưa bao giờ cai trị Tamriel cả. Katariah và Hội Đồng Tiền Bối (Elder Council) quyết định tất cả mọi việc và cố gắng giữ cho Pelagius không làm chuyện gì đáng xấu hổ. Dù vậy, những câu chuyện về triều đại Pelagius III vẫn tiếp tục tồn tại.

    Tương truyền khi đại sứ của tộc Argonian ở Blackrose đến trình tấu, Pelagius nhất định chỉ giao tiếp bằng những tiếng gầm gừ và tiếng rít - được xem là ngôn ngữ bản địa của tộc Argonian.

    Pelagius còn mắc chứng ám ảnh với sự sạch sẽ, và có nhiều người khách nói lại rằng họ nghe thấy tiếng chà xát mạnh vào lúc sáng sớm ở trong Cung điện Imperial. Ngoài ra câu chuyện về việc Pelagius sau khi quan sát công việc của các người hầu, liền bất thình lình đại tiện xuống sàn cho họ có việc để làm, vẫn còn là chuyện chưa đáng tin.

    Khi Pelagius bắt đầu tấn công và cắn những vị khách đến thăm Cung điện, ông ngay lập tức bị đưa vào nhà thương điên. Sau 2 năm từ khi Pelagius lên ngôi, Katariah được thông báo là người tạm thời nắm mọi quyền hành. Sáu năm tiếp theo, Hoàng Đế bị giữ trong các học viện và nhà thương.

    Trong giai đoạn này, những kẻ nổi loạn chống Đế chế được dịp tung nhiều tin đồn thất thiệt. Các lời xì xầm bán tán về các cuộc thử nghiệm ghê gớm cũng như việc tra tấn Pelagius gần như được chấp nhận là sự thật. Quý bà Katariah có thai một thời gian ngắn sau khi Hoàng Đế bị đưa đi, và từ đó rộ lên tin đồn về sự không chung thủy của bà và phi lý hơn là cả âm mưu nhốt vị Hoàng Đế khỏe mạnh đến phát điên. Nhưng Katariah đã chứng minh là mình có thai sau một cuộc viếng thăm chồng mình. Và vì không có bằng chứng nào khác nên chúng ta chấp nhận những lời nói của bà. Đứa con thứ hai của bà - người trị vì lâu năm và được biết đến với tên Uriel IV - là kết quả của cuộc hôn nhân với Lariate, đã được thừa nhận công khai.

    Vào một đêm ấm áp của Suns Dawn, Pelagius III qua đời ở tuổi 34 sau một cơn sốt chóng vánh tại buồng của ông ở Đền Kynareth, đảo Betony. Katariah I trị vì thêm 46 năm trước khi trao lại quyền trượng cho Cassynder Septim - đứa con chung duy nhất của bà và Pelagius.

    Éo le thay, những hành vi vô lối của Pelagius lại khiến cho ngày sinh, năm mất của ông trở nên thông thuộc khắp vùng. Ngày mùng hai của Suns Dawn - có thể là ngày kỷ niệm cho cái chết của ông và cũng có thể sai (các tài liệu ghi chép không rõ ràng). Ngày này được xem là ngày Pelagius Điên rồ, khi mọi sự ngu xuẩn hay điên rồ đều được khuyến khích. Và cứ thế, một trong những vị Hoàng Đế không được mong đợi nhất trong lịch sử triều đại Septim lại trở thành người nổi tiếng nhất.
    [HR][/HR]

    Dịch giả: h1tm4n
    [/td]
    [/tr]
    [/table]

    ---------- Post added at 13:06 ---------- Previous post was at 13:01 ----------

    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Vụ sụt lở kinh hoàng
    (On the Great Collapse)
    [HR][/HR]
    Tác giả: Deneth

    Gửi tới Lãnh Chúa Valdimar tôn kính của Winterhold,

    Lời đầu tiên tôi muốn gửi đến ngài sự chia buồn sâu sắc. Tôi hiểu được sự đau khổ của ngài và xin được bày tỏ niềm tiếc thương cho sự mất mát của ngài. Tôi cũng hiểu được những lời chỉ trích của các thành viên Hội đồng khi cho rằng tai họa khủng khiếp này do đồng nghiệp của tôi tại Học viện gây ra. Trong khi tôi chắc chắn nhận thức được sự kích động của những sự kiện gần đây và mong muốn hiểu thấu được những chuyện đang xảy ra, tôi phải nhấn mạnh với ngài nên suy xét mọi chuyện một cách khách quan nhất. Ngài cũng như mọi người đều biết đến lịch sử và danh tiếng của Học Viện ở Winterhold này. Từ lâu nó đã là niềm tự hào của thành phố này, và là một kiến trúc độc đáo của Skyrim. Những nhà phép thuật thông thái nhất đã từng nghiên cứu tại đây, và Học viện luôn xúc tiến tạo mối quan hệ tích cực với các khu vực trong lục địa Tamriel. Như chúng ta biết thì những mối quan hệ này khá căng thẳng trong vài thập niên trước. Sau khi Khủng hoảng Oblivion xảy ra, niềm tin của mọi người dành cho các pháp sư hầu như không còn, cho dù phần lớn chúng tôi đã có gắng hết sức để ngăn cản các hoạt động của Giáo phái Mythic Dawn. Học Viện trông đợi vào việc này và hy vọng mọi sự ngờ vực sẽ phai dần theo thời gian. Tôi cũng muốn nhắc đến năm Đỏ (the Red Year). Khi đó không ai dự đoán được sự phun trào bất ngờ của ngọn núi Đỏ (Red Mountain) cũng như sức phá hủy kinh hoàng của nó đến nền văn hóa tộc Dunmer (Dark Elf). Tổ tiên của Ngài đã vô cùng tử tế tiếp nhận những đoàn người tị nạn, đặc biệt là những pháp sư có đóng góp lớn trong các nghiên cứu của Học Viện. Chúng tôi rất biết ơn về điều này. Khi tộc Dunmer được đề nghị chuyển đến nơi ở mới là Solstheim, tôi cũng như nhiều người khác đã rất bất ngờ. Tuy nhiên tôi không hoàn toàn mong đợi rằng tất cả mọi Dark Elves sẽ rời khỏi Skyrim. Có thể thấy rằng nhiều người tại Winterhold thấy không hài lòng về việc có nhiều pháp sư chọn ở lại Học Viện chứ không chuyển chỗ ở về Solstheim. Và bây giờ, những trận cuồng phong đã tàn phá bờ biển Skyrim gần một năm nay cũng chấm dứt, nhưng chúng ta phải trả giá quá đắt. Tôi xin cam đoan với ngài rằng việc sụt lở phá hủy hầu hết Winterhold là điều không ai mong muốn. Và việc Học Viện vẫn tồn tại mà không bị ảnh hưởng gì là do nó có các phép thuật bảo vệ từ lâu trong quá khứ. Điều này không có nghĩa rằng chúng tôi đã chuẩn bị từ trước, và chắc chắn Học Viện không thể nào chịu trách nhiệm cho sự kiện này. Tôi không bao giờ bắt Ngài phải chịu trách nhiệm về các lời đồn đại xung quanh Winterhold. Dù vậy tôi vẫn mong Ngài để tâm đến những lời đồn này để tránh việc nó trở nên quá phổ biến. Cuối cùng tôi không hề muốn mối quan hệ giữa hai chúng ta sẽ đổ vỡ như Winterhold, và tôi chắc chắn rằng Học Viện sẽ vẫn ở đây trong một thời gian rất dài về sau.
    Sự ủng hộ của tôi dành cho Ngài là vô tận.
    Đại Pháp Sư Deneth
    [HR][/HR]

    Dịch giả: h1tm4n[/td]
    [/tr]
    [/table]


    ---------- Post added at 13:30 ---------- Previous post was at 13:06 ----------

    [table="width: 600, align: center"]
    [tr]
    [td]Những huyền thoại bị lãng quên
    (Lost Legends)
    [HR][/HR]

    Lịch sử của Skyrim đã có từ rất lâu đời, thậm chí có trước cả những hồ sơ cổ xưa nhất của loài người và yêu tinh (Elf). Hầu hết tài liệu đã bị thất lạc, chịu sự tàn phá của chiến tranh hoặc bị ảnh hưởng theo thời gian. Nhưng không có gì thực sự mất đi cả; khi không có tài liệu nào ghi chép lại, thì các sự tích hay các câu chuyện lưu truyền trong dân gian đã cho chúng ta chiếc chìa khóa để đi về quá khứ - là cách để gắn kết các mẩu chuyện mơ hồ còn đọng lại trong tâm trí của loài người.

    Cư dân Morthal vẫn lưu truyền qua hàng thế hệ những câu chuyện về Quý bà Dale - một bóng ma nữ rảo bộ quanh khu đầm lầy phía bắc, tìm kiếm đứa con gái thất lạc của mình. Một số người nói rằng bà ta bắt cóc những đứa trẻ ham chơi lạc đường, trong khi số khác thì cho rằng tiếng khóc rên rỉ của bà ta sẽ giết bất cứ ai nghe thấy. Nhưng đằng sau những câu chuyện như vậy có thể có một phần sự thật, theo như tài liệu cổ xưa “Aumriel” - nói về những cuộc chiến đấu của những người kế thừa Ysgramor bí ẩn kéo dài hàng thế kỷ và cuối cùng bị phong ấn.

    Những cư dân khu vực The Reach kể câu chuyện về Đại Bàng Đỏ Faolan (Faolan Red-Eagle) - một vị vua cổ xưa với thanh kiếm lửa đã tập hợp nhân dân để chống lại đoàn quân từ Cyrodiil. Mặc dù có nhiều dị bản, nhưng chúng dường như dựa trên một sự thật không thể chối cãi: biên niên sử hoàng gia của Nữ Hoàng Hestra đề cập đến một thủ lĩnh nổi dậy vào kỷ nguyên đó, ông bị dồn vào góc và tử trận, sau khi đã tiêu diệt cả một đạo quân thiện chiến.

    Nhưng một số câu chuyện rất khó xác định. Theo giới học giả, có thể câu chuyện được nhiều người biết đến nhất là “Huyền thoại bị lãng quên” của Đại Pháp Sư Gauldur.

    Câu chuyện bắt đầu vào những ngày tươi sáng của Kỷ Nguyên thứ nhất, có một phù thủy đầy quyền năng tên Gauldur nổi tiếng thông thái và đứng đắn, được biết đến không chỉ trong triều đình của vua Harald mà còn cả các Lãnh chúa trong Skyrim nữa, và loài người cũng như loài yêu tinh (Elf) luôn nhờ cậy vào sự giúp đỡ và những lời khuyên của ông.

    Và rồi ông bị ám sát. Có người nói do một trong những người con trai của ông đã làm điều này, người khác lại nói do lệnh của vua Harald, xuất phát từ việc ghen tị với quyền năng của Gauldur. Nhưng ba người con của ông đã bỏ trốn trong màn đêm khi bị truy đuổi bởi một nhóm các chiến binh thiện chiến, dẫn đầu là Đội trưởng Geirmund - chiến binh pháp sư riêng của nhà vua.

    Một cuộc rượt đuổi ly kỳ đã diễn ra, từ vùng đồng hoang của the Reach đến phương bắc lạnh giá. Một người con được cho rằng đã chết trong đống hoang tàn của Folgunthur, phía Đông Nam của Solitude. Hai người còn lại cũng bị bắt không lâu sau đó. Và khi mọi việc hoàn tất, vua Harald ra lệnh tiêu hủy hết mọi hồ sơ về vụ giết người này, và tên tuổi của Gauldur cũng như công lao của ông đã bị xóa bỏ khỏi những tài liệu lịch sử. Thậm chí ngày nay, chỉ một ít nguồn tư liệu còn sót lại và không một thi sĩ nào có thể kể câu chuyện này. Nhưng có thể sự thật vẫn nằm trong những di tích cổ xưa, chờ được khai phá. Thực sự không có chuyện gì có thể bị lãng quên cả.

    [HR][/HR]

    Dịch giả: h1tm4n[/td]
    [/tr]
    [/table]
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/1/12

Chia sẻ trang này