KHIÊM TỐN - ... ỨNG XỬ - SỰ HỌC - SỰ THÀNH BẠI [spoil] KHIÊM TỐN Làm người phải như cây lúa, khi chưa có hạt thì ngẩng đầu lên, khi đầy hạt thì cúi đầu xuống. Tương lai không hẳn thuộc về nhứng ai thông minh nhất mà thuộc về những ai siêng năng và cần cù nhất Cũng như những con số con người chỉ có giá trị qua vị trí của chính mình ... ỨNG XỬ Làm cho ý mình thành thật là mình không tự dối mình Sự thành thật là bí quyết lớn nhất khiến người khác đồng tình với bạn ”Kiếm chế” là cái khí lúc giận giữ Đề phòng câu nói lúc sướng mồm Lưu tâm sự “lầm lẫn” lúc bối rối Biết dùng đồng tiền đúng lúc Người càng thông minh, càng tốt thì càng nhận thấy nhiều điều tốt của mọi người Trí là để biết rõ sự lý, nhân là để hiểu rõ điều lành. Dũng là có khí kiên cường theo điều tốt đến cùng Sửa mình làm cung, ý tưởng làm tên, ngắm ngay rồi bắn tất phải chúng Thành công hay thất bại là tại nơi việc chẳng tại nơi tâm, vinh hay nhục là ở nơi tâm SỰ HỌC Học tập là cuốn sách không có trang cuối Chúng ta tin rằng cái chưa hiểu có thể hiểu, nếu không chúng ta sẽ ngừng suy nghĩ Kiến thức thu nhận bằng tự khám phá là kiến thức vững chắc và đáng tin cậy nhất Hãy học như bạn sẽ sống mãi, và hãy sống như bạn sẽ chết ngay ngày mai Hãy làm việc như những ngày đầu tiên và hãy sống như như những ngày cuối cùng của cuộc đời SỰ THÀNH BẠI Có rất nhiều người nằm mơ về thành công của mình, nhưng chỉ một vài người thức trắng đêm để thực hiện giấc mơ ấy! Một trong những bí mật của thành công là đừng để cho những trở ngại nhất thời làm chúng ta thất bại Nghèo túng lo buồn là cảnh trời để để cho ta mài giũa ý chí đến được thành công. Trên bước đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng Ráng rút kinh nghiệm sau những lần sai lầm, người nào cũng thành công theo cách đó Ai cũng có lúc sai lầm, càng trẻ lại càng sai lầm. Nếu ta quá sốt ruột đó mới là sai lầm lớn nhất Một trong những bí mật của thành công là đừng để cho những khó khăn nhất thời làm chúng ta thất bại. Nhút nhát trong tư tưởng do dự trong hành động thời nào cũng đáng trách, còn nay là đắc tội [/spoil]
Đừng coi trọng đồ vật hơn con người… [spoil] Một ông bố mua được chiếc ô tô mới, ông ta rất vui. Ông bố cẩn thận dùng khăn lau từng vệt bụi nhỏ trên xe. Chiều đến, ông ta vào nhà tắm, tắm trong một tâm trạng hạnh phúc vì lần đầu tiên trong đời ông ta được sở hữu một tài sản lớn đến như vậy. Sau khi tắm xong, ông ta lại ra chỗ chiếc ô tô mới để ngắm thành quả của mình, nhưng ông ta sửng sốt khi thấy đứa con trai của mình đang dùng 1 viên đá cào lên cánh cửa xe. Quá tức giận, ông ta dùng cái roi cứng, đánh liên tiếp vào tay đứa bé mà không để ý gì đến tiếng khóc gào, van xin của nó. Chỉ đến khi máu đứa bé thấm ướt tay áo nó, và nó cất tiếng hỏi trong tiếng khóc nghẹn ngào: “Bố ơi, ngón tay con đứt rời ra rồi, có mọc lại được không hả bố?” Ông bố đau điếng người khi nghe câu hỏi đó, lúc đó trời đất quanh ông như tối sầm lại. Ông ta dùng cây gậy thật to, chạy lại chỗ cái xe và liên tiếp đập nó. Ông ta đập đèn xe, rồi đập kiếng xe, đập thành xe…. Và khi ông ta định đập cánh cửa xe, nơi đứa con trai vừa cào xước, thì ông chợt nhận ra có 1 dòng chữ trên đó: “BỐ ƠI, CON THƯƠNG BỐ NHẤT.” [/spoil]
Thương nhớ Hoàng Lan [spoil] Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?". Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: "Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại". Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi. Lớn lên, tôi giống cha như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Ðề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Ðại Ðức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay thưa trước sư cụ trụ trì: "Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ". Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Ðã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: "Mấy con ếch lạy khéo không thua thầy M.H". Rồi bà cười hả hả: "Ði tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da". Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm... Cô ruột tôi giận lắm bảo: "Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng". Ai cũng khuyên đăng báo tìm nhưng cha tôi chỉ nói: "Ðừng". Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương? Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại cho khu vườn sáng sủa: "Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni". Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào bối tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn... Năm tôi mười tuổi, có vị Ðại Ðức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: "Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?". Tôi chỉ lắc đầu... Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: "Bạch thầy, Ðăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà-phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác". Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp vào tụng kinh, tôi biện bạch: "Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi dễ, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời làm sao hiểu đời đục mà tránh?". Thầy hỏi: "Ai bảo con là đời đục? Ðời không đục, không trong". Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì? Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu, nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào đến tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: "Ðây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải mầu vàng". Cô chìa hai bàn tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: "Này, đừng nghịch". Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. "Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan". Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: "Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai, vừa quậy". Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: "Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đọa địa ngục hử?". Tôi cự: "Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ". Từ đó, vài ba hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đấy là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Ðiểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu: "Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có". Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng cười hồn nhiên như trẻ thơ. "Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi". Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: "Không can gì". "Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?". Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu: "Ðây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó". Tôi động lòng, hỏi: "Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong". Thầy cười: "Ðúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Ðến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên đến chín tầng mây". Tôi vái thầy mà thưa: "Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa". Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. "Anh không thích phong lan nữa sao?". "Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoa hoàng lan". Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như mầu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ sắp rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất. Lan bảo: "Thích ghê, em chưa thấy bao giờ". Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương... Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo, người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. "Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường". Tôi nghe tiếng quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: "Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng". Tôi hãi hồn, vội nói: "Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây". Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: "Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa". Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan còn cô bé chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt... Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán. "Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông. Ðếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà". "Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó". "Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà-phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức". Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: "Khó tin". "Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra" Bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn". Ðạp xe về đã đến quá lăng Tự Ðức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: "Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi". Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: "Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt dài quá, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Ðấy là tướng hồng nhan mệnh yểu..." Trời nhập nhoạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống. Lan lắc đầu. Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn. "Ðồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi". Quay sang Lan, tôi nạt "Ði về!". Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực, chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của con thú mất mồi... Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi khóc: "Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?". Tôi cau mặt: "Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?". "Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến". "Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Ðừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn". Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ bên đường. Lan ngồi bên tôi. "Ðêm nào cũng nằm mơ thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?". Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa... "Em có thích nghe chuyện cổ tích không?". "Thích". Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: "Sao có người làm được như thế?". Tôi gật đầu: "Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả lời: "Bệ hạ đã hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống, thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua". Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạnh lùng. "Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?". Tôi bảo: "Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con". Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay là không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. "Thôi, về đi em". Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật... Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: "Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu". "Không có lửa, sao có khói, ¡n ốc, đánh lộn, giành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên". Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: "Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?" Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về. "Con ma nữ" đã uống hai mươi viên thuốc ngủ, may sao nhà biết được chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: "Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con". Tôi cuống quýt: "Bác bảo con làm sao được?". Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra". Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ. "Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng". Tôi thở dài: "Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thủy Sám". Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi... Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: "Sao con bỏ học?". Tôi nói: "Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng". Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: "Bạch thầy". Thầy tôi bảo: "Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn". Tôi nói: "Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An". Thầy lặng lẽ một lúc, rồi bảo tôi: "Tâm không an, có cầu cũng vô ích". Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. "Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?". Thầy nhìn vào mắt tôi: "Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình". Tôi lắc đầu: "Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi". Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian. Ðang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến. "Chú Ninh!". Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. "Bác lên chùa cầu cho em đi bình an. Có cái này, em nó gửi lại...". Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt. Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan. "Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Ðã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan... Người ta cứ bảo là em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi...". Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng. "Cứ khóc đi con" - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ". Tôi nức nở: "Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?" Thầy bảo: "Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?". Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống. Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian. Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ. [/spoil]
Tiểu ngạ quỷ bên cầu Nại Hà truyện ngắn của Trần Long ( Trung Quốc) Trang Hạ dịch [spoil] Ai cũng nói hễ chết không còn vương vấn. Bao nhiêu chuyện đời vẫn kể đấy thôi. Không mất không hết. Không tử không sinh... Tôi là một ngạ quỷ. Tôi là một tiểu ngạ quỷ lắm chuyện ở dưới Âm ty, hầu hạ dưới quyền Ty chủ cõi Luân hồi. Chúng tôi được coi là loài ti tiện nhất thấp bé nhất trong cõi đất trời, chỉ sống trong địa ngục tăm tối, đời đời kiếp kiếp. Công việc của tôi là đi tuần bên cầu qua (sông Lú), một việc nhàn hạ, bởi ngoài những bóng hồn lẻ quỷ đói đôi khi đi qua, thì không có gì xảy ra, sẽ chẳng có gì xảy ra. Tôi thường đờ đẫn ngồi bên cầu Nại Hà, đờ đẫn nhìn những hồn phách cô đơn, lẻ loi bay qua. Ngày ngày, tháng tháng, năm năm, ngày nối ngày, năm lại năm. Một ngày, Ty chủ cõi Luân hồi gọi tôi tới, nói tôi đã trung thành canh giữ, bởi tôi đã đi tuần cầu Nại Hà suốt 300 năm, chưa hề xảy ra sai sót. Bởi vậy nên cho tôi làm sứ giả đi câu hồn, cho tôi cơ hội lên chốn nhân gian. Cõi người thật sự rất tươi đẹp, thứ gì cũng có, so với chốn địa ngục tối đen u ám này thật như một giấc mộng. Nhưng chỉ tiếc mỗi lần tôi đi lên cõi nhân gian đều là nửa đêm, mà đều là đi lấy hồn phách con người. Thời gian lâu dần, tôi biết loại người như tôi, à không, phải nói là loài quỷ như tôi, làm loài người sợ hãi đau khổ nhất, bởi hễ chúng tôi xuất hiện, có nghĩa là một cuộc đời người kết thúc. Tôi chỉ có thể cười đau khổ, bởi con người tin vào số mệnh, nhưng lại sợ hãi số mệnh, rồi căm ghét lây sang cả chúng tôi. Thời gian trôi thật nhanh, một trăm năm lại đã trôi qua. Ty chủ cõi Luân hồi nói với tôi, ngươi đã có 400 năm đạo hạnh rồi, chờ khi ngươi tu đủ 500 năm đạo hạnh, ngươi có thể lên cõi người để đầu thai, hoặc tiếp tục tu hành nơi địa ngục, rồi đi làm một thần tiên. Khi đó tôi rất vui mừng, vui tới mức cười lên, có lẽ là lần đầu tiên tôi cười. Bạch Vô Thường đại ca lúc đó trêu tôi, nói tôi cười còn xấu hơn quỷ. Tôi nghĩ: Tôi chính là quỷ đây, mà Bạch Vô Thường cười còn xấu hơn tôi, loài người mà nhìn thấy anh ta cười, hẳn quá nửa sợ chết giấc. Trong một trăm năm cuối cùng này, tôi tiếp tục cố gắng làm trọn mọi việc Ty chủ giao cho. Nhưng sao tôi thấy 100 năm sao dài hơn cả 400 năm trước đây? Tôi rất hy vọng nó trôi nhanh, để một ngày, tôi sẽ được đầu thai... Một ngày, tôi đi bên cầu Nại Hà, trong bóng tối mơ hồ tiếng khóc thút thít rất mảnh. Tôi bước tới xem, thì ra là một quỷ nữ đang khóc phía đó. Tôi hỏi vì sao cô đến đây, cô ta bảo, cô ta vô ý đã làm tắt mất ngọn đèn lồng soi sáng đường luân hồi chuyển kiếp rồi. Những lúc vui vẻ, tôi cũng thường hay giúp đỡ người khác (quỷ khác), lúc đó tôi đang vui vẻ, nên tôi bảo, tôi có thể dẫn cô quay về phủ Luân Hồi. Quỷ nữ gạt nước mắt, cười với tôi, nói: “Cảm ơn anh!”. Trong sát na đó, ngực tôi như bị cái gì đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn... Tôi chưa bao giờ thấy một hồn quỷ cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra... Quay về phủ Luân Hồi, Ty chủ tra sổ ký lục của quỷ nữ, nói cô ta là vong chết oan, không được đầu thai chuyển kiếp, chỉ có thể vào giam trong Thành Chết Oan (Uổng Tử Thành) mà thôi. Cô ta khóc than, tôi phút chốc cũng thấy thương xót, hỏi Ty chủ liệu có cách gì cho cô ta đi đầu thai không? Ty chủ nổi trận lôi đình, mắng nhiếc tôi thậm tệ, mắng đến mức toàn thân tôi run lẩy bẩy, cô ta cũng sợ hãi không dám khóc nữa. Tôi cúi đầu nuốt giận dẫn quỷ nữ đến thành Uổng Tử, trên đường đi tôi không nói một lời. Đến thành Uổng Tử, tôi để cô ta đi vào, cô ta gật đầu, đi vào trong. Tôi nhìn theo cô ta đi khuất, lúc đó, cô ngoái lại, lại nói một câu: “Cảm ơn anh”. Bóng quỷ nữ tan ra trước cổng thành, chỉ còn lại tôi thẫn thờ đứng đấy. Ngày lại qua ngày, tôi thất kinh phát hiện ra tôi vẫn nhớ đến cô ta. Nên đôi khi tôi chạy tới thành Uổng Tử, lén nhìn cô. Tôi phát hiện cô ta thường vội vã chạy ra Lầu Nhớ Quê (Vọng Hương Đài) từ rất sớm, rồi ở đó đứng nhìn ra suốt một ngày, cuối cùng khóc lóc đi về. Tôi không hiểu vì sao, mỗi lần nhìn thấy cô ta khóc, tôi cũng rất muốn khóc... Mùa xuân đã lặng lẽ tàn, những bông liễu tan tác đã biến thành đầy trời tuyết bay. Khi chim nhạn trở về, chân trời những đám mây chiều tà sáng lên màu tuyệt diệu, xa như đôi mắt như nước chảy tiêu tan, gần như đã in vào sâu trong trái tim. Vô tình, có nỗi niềm cảm động mơ hồ dường như đang quấn quýt mãi trong lòng, chưa từng theo nhạn phương Nam bay về miền di cư. Tiết Thanh minh tảo mộ năm ấy, tôi đã tìm thấy mộ của cô ta. Một doi hoàng thổ, trước có cốc rượu, đĩa trái cây ba màu (tam sắc quả phẩm), hai người đang than khóc, một người lớn, một đứa trẻ con. Tôi thẫn thờ đứng nhìn hai người họ, một nỗi buồn và mất mát tôi chưa từng bao giờ cảm thấy đã đến quấn lấy tim tôi, tôi ở lại nơi đó rất lâu, đến tận nửa đêm. Uống một chén rượu nhân gian, rượu mạnh đắng cay, lòng tôi có dư vị không biết nên gọi là gì. Một lần, tôi vô tình hỏi Bạch Vô Thường đại ca, những người chết oan thì làm thế nào đầu thai được? Anh ta nói, cần có nhân quả. Tôi hỏi, nhân quả là gì? Anh bảo, nhân quả thực ra chính là sự trả giá, nếu có người gieo nhân ắt có người nhận quả, như có người tặng cơ may đầu thai thì người chết oan có thể trở lại cõi người. Anh còn nói, cơ hội đầu thai thì có quỷ nào ngu lắm cũng không bao giờ nhường. Ngày nối ngày trôi mãi mãi, Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, bảo tôi biết năm trăm năm đã qua. Ngài hỏi tôi chọn gì. Tôi nói tôi rất muốn được đi đầu thai, Ty chủ hỏi tôi thích đầu thai đi xứ nào, tôi trả lời tôi mong được cô ấy đi đầu thai. Ty chủ trợn mắt nhìn tôi - sứ giả câu hồn, Bạch Vô Thường đại ca còn kinh hãi hơn, lưỡi anh rơi xuống đất. Ty chủ phán, nếu tôi từ bỏ 500 năm đạo hạnh, tôi sẽ lại trở thành một tiểu ngạ quỷ đi tuần quanh sông Nại Hà. Tôi đáp: “Con xin vâng!” Nói xong, tôi lặng lẽ đi ra, lúc này lòng tôi yên tĩnh, dường như chưa có gì xảy ra... Ngày cô ấy ra đi, tôi lén lút trông theo, cho đến lúc quỷ nữ uống bát canh Mãnh Bà lãng quên tất cả, rồi bước lên Đài hoá kiếp (Chuyển Luân Đài). Xa quá, tôi không thể nhìn thấy cô ấy nữa, tôi không kìm được bước từ chỗ nấp ra, ngóng tới phương đó. Mãnh Bà giật mình ngạc nhiên nhìn tôi, bà thở dài, rồi lại tiếp tục nấu món canh lãng quên... Tôi lại biến thành tiểu ngạ quỷ, tôi vẫn giữ nhiệm vụ đi tuần bên sông Nại Hà, tôi hàng ngày vẫn đi đến chân cầu Nại Hà, tôi đi ngóng. Tôi tin tưởng, rồi một ngày nào đó, khi cái chết đến, cô ấy sẽ quay trở lại qua đây... Một vết nước mắt lăn qua giấc mơ. Ngày lại nối ngày lại một ngày qua. Tôi ở bên chân cầu ngóng đợi ngày lại ngày. Ngày trôi nhiều quá tôi không nhớ đã trôi bao ngày. Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, nói, tôi đã canh gác đủ 500 năm rồi, giờ tôi có thể tự quyết định con đường sau này. Ty chủ vừa dứt lời, tôi đã bàng hoàng, lại đã 500 năm rồi ư, suốt 500 năm nay tôi luôn đợi ở chân cầu cõi Chết nơi âm ty này, nhưng vì sao tôi không thấy cô ấy quay về đây... Ty chủ nhìn thấy tôi thần trí hoảng hốt mơ hồ, chỉ thở dài. Trong cơn mê man tôi lại bước chân ra đến bên chân cầu Nại Hà. Ở cây cầu cõi Chết này, tôi đã ngồi một nghìn năm nay. Ở bên cây cầu này, tôi đã chờ đợi suốt 500 năm nay. Năm trăm năm một cuộc bể dâu, ngay cả đá cũng lên xanh rêu. Nhưng tôi thì không thấy cô ấy quay lại... Sau này, Bạch Vô Thường nói cho tôi hay rằng, mỗi hồn lên trần gian đầu thai, có trời mới biết cô ấy đã đầu thai thành ai, là nam hay là nữ. Phút chốc tôi thấy mình rất ngu ngốc, quá ngốc. Nhưng vì sao lại có sự xếp đặt đó. Và trong khoảnh khắc đó mắt tôi duềnh lên những lệ... Trong sâu thẳm đêm tối, một con quỷ khóc than. Giờ đây tôi không biết mình còn chờ đợi gì nữa, quá khứ đã trở thành quá khứ, y như vết nước mắt lăn trong giấc mơ đêm qua, sáng nay tỉnh dậy nào biết tìm nơi đâu. Những nỗi niềm trong mộng, mơ màng như tiếng trống vỗ xa xôi, kinh hoảng như thế giới sụp đổ. Khi tỉnh mộng chợt chỉ còn sót lại những mảnh vỡ không thể nào ghép vừa nhau, như những chữ nghĩa viển vông, khó lòng nói được. Nhưng những lời thì thầm còn lấp ló đâu trong trí óc thì như mảnh sáng chớp điện, xé toạc màn đêm vĩnh hằng trong tâm trí. Không biết mộng thấy gì, cũng không mong đuổi theo phù vân trong mơ. Tôi biết, nếu không đau lòng, sẽ không phải rơi nước mắt. Lướt phím tơ khẽ ngâm, hát gì khúc bi ai, trong cõi hồng trần đã quá nhiều chuyện bi thương. Buồn tay giở bút mực, khó viết nổi câu cười, những hoan lạc vui vầy thế gian nào ai biết? Và tôi như bông hoa dại trong gió sương, tôi biết vì ai mà nở. Lại như ngọn cỏ dại cô đơn giữa hoang vu, tôi biết xanh vì ai? Tôi một lần nữa vứt bỏ cơ hội được đầu thai, tôi sợ phải gặp lại chốn vạn dặm bụi trần từng mê hoặc tôi... Tôi sợ phải nhìn thấy nụ cười duyên dáng làm tôi vĩnh viễn không thể nào quên... Ty chủ thấy tôi thì than, loại quỷ còn giằng giữ nghiệp chướng cõi trần như tôi có tu cũng chẳng thể thành thần tiên. Tôi lại ngồi bên chân cầu Nại Hà, tôi làm một tiểu ngạ quỷ, tôi chờ đợi một người có lẽ chưa từng bao giờ tồn tại. Lại ngồi đầu cầu bên này, tôi nhìn những hồn ma quỷ đi qua cầu, mặt chúng dường như đều vẽ nên một câu chuyện, trong những đôi mắt trống rỗng của chúng, phảng phất kể lại một khoảnh khắc nào của dĩ vãng. Nhìn chúng nhớn nhác, tôi thầm mừng vui bởi tôi còn tri giác, còn cảm nhận, tôi dần dần hiểu, cõi nhân gian đã mang cho tất cả mọi người vô số dấu hỏi, mà câu trả lời biết tìm nơi đâu? Địa ngục này ư? Tôi nghĩ không phải, bởi trong tim tôi, cũng vẫn còn quá nhiều chất ngất những câu hỏi. Tôi một lần nữa lại quay về với cuộc tồn tại không vui sướng, không hy vọng, không đau buồn, cuộc tồn tại của một hồn quỷ. ........................................................ Buồn tay lướt dây đàn, vốn định hát bâng quơ trường ca, ai ngờ tiếng đàn não nề, đỗ quyên rỉ máu, người mong về cội. Thời thanh xuân nào biết đến sầu thương, phổ chi lời thơ mang buồn... Nào ai hay giữa bạt ngàn thanh âm bỗng hai tim gặp gỡ, để một đời sầu nhớ! Dây đàn rung cùng tiếng trái tim, hận tay vụng khó đàn lên nỗi lòng, để cho nửa khúc vụng lời, cả điệu bi ai. Chìm nổi ngàn kiếp, trong nỗi nhớ chỉ còn ngàn điều hụt hẫng. Ngoái lại ngày cũ, người với việc thiếu gì thị phi phải trái. Hy vọng biết bao mọi nỗi nhớ về hội tụ, ai ngờ lại thành chiếc thuyền vô hướng không người chèo lái băng giữa hoang vu. Thời gian cứ ngày nối ngày trôi qua, tôi ngày nối ngày đi lại bên cầu, tuy rằng tôi đã không còn gì để mong mỏi, nhưng mỗi lần đi qua tôi lại không kìm lòng được ngóng sang, nhìn xem trên cầu liệu có xuất hiện hình bóng tôi nhớ nhung. Cứ mỗi lần như thế, tôi đều tự mắng mình thậm ngốc, tự mắng thầm mình vài câu, nhưng, chỉ cần đi tới đấy, tôi lại làm cái việc ngu xuẩn ấy. Thậm chí tôi còn ngớ ngẩn đến mức đi ra thành Uổng Tử, nhìn xem liệu có vong nào đang khóc trên Vọng hương đài chăng. Trong những ngày sau này, tôi bắt đầu có chút hối hận, hối hận vì sao lúc cô ấy ra đi tôi không bước lên nói với cô ấy một câu; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi tôi không trốn đi để khỏi phải nhìn cô ấy lần cuối; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi... Thế gian hạnh phúc bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ sắc màu thế giới; Thế gian bi ai bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ bóng tối của thế giới. Ma thuật của thời gian đã chồng màu sắc lên đen và trắng, xé toạc chúng ra, phủ bụi lên... còn lại đầy trời bay những mảnh giấy vụn, cho tôi đuổi theo với, cho tôi ghép lại... Để quên. Để không thể quên. Để quên mà không thể. Tất cả. Trên những đoá hoa tươi nở trong mưa mùa xuân, giữa những cánh hoa rụng bay tan tác trong gió thu, hãy để những gì tươi đẹp sau cùng ngân lên khúc ca tình yêu lưu luyến không rời dưới tia nắng. Hỡi những cánh hoa không chịu lìa xa, sao giống trái tim tôi nát tan vụn vỡ. Hỡi thiên nhiên, người làm những cơn gió xuân dịu dàng gọi thức linh hồn hoa, sao người nỡ để những cơn mưa thu bịt bùng giết chết đời hoa, vì sao trên thế gian này có khởi đầu tức là có kết thúc... Li biệt vẫn luôn vội vã thế, vẫy tay nhé, vầng mây bên trời xa vẫn cũ. Người qua vội vã, chỉ giây lát ngoái lại người mới chợt hiểu. Mà lúc đó đã là cuối cuộc vui, nhạc tàn người tan, vẫy tay chào nhau, nhìn nhau như sắp lìa xa nhau. Có tiếng người đi trong gió thu, những nếp áo vấn quanh mềm mại, những tiếng dịu êm bên tai, như sợi diều gió, diều càng bay càng vời xa. Sợi dây đã đứt từ lâu, và cánh diều giờ biết lưu lạc phương nào. Tôi không ngờ rằng tất cả đã kết thúc, tôi còn giữ chặt sợi dây, tôi chờ cánh diều quay lại, quay lại. Biệt ly vội vàng quá, vẫy tay chào nhau, còn ghi nhớ hơi thở em, còn nhớ đến tóc dài em, còn đôi khi tìm hình bóng em... Khi mùa thu quay trở lại, tôi không biết phải tất cả đã như bông hoa bị mưa dập nát bị gió cuốn đi, tan tác, mai một, mất đi không dấu vết. Khó lòng gặp nhau, sao dễ lìa nhau, mà hoa như tuyết dễ tàn... Rất lâu về sau, rất lâu, rất lâu... Hôm đó, tôi gặp được Địa Tạng Vương Bồ Tát. Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị Phật tối cao của chốn địa ngục, cũng là người hiền hoà thiện lương nhất. Huệ nhãn của Địa Tạng Vương Bồ Tát thoáng chốc nhìn thấu nỗi do dự mê hoảng đau đớn tích tụ nghìn năm trong lòng tôi. Bồ Tát kinh hãi bởi, một hồn quỷ như tôi sao lại có tâm sự. Bồ Tát thở dài: “Chúng sinh nơi bể khổ, quay đầu lại là bờ”. Nhưng tôi đã không hiểu lời của Ngài. Tôi mang tất cả những nỗi lòng dồn nén của tôi kể cho Bồ Tát nghe. Bồ Tát hỏi tôi: “Cái gì là Duyên?” Tôi không trả lời nổi. Bồ Tát lại hỏi tôi: “Cái gì là Tình?” Tôi hoàn toàn không rõ. Cuối cùng, Bồ Tát hỏi tôi: “Ngươi muốn gì?”. Không ghìm giữ nổi bản thân, tôi khóc ròng đau đớn van xin Bồ Tát cho tôi được một lần làm người, xin Bồ Tát hãy cho tôi và cô ấy kết một đoạn trần duyên. Bồ Tát đồng ý, đồng ý cho tôi đổi nghìn năm tu đạo hạnh lấy một cơ duyên được cùng cô ấy làm người trong một kiếp luân hồi. Cuối cùng, Bồ Tát nói: “Vạn sự tuỳ Duyên, đừng Chấp nữa!” Hôm đó, tôi cuối cùng đã được chuyển thế làm người rồi. Nhà tôi là danh gia vọng tộc trong vùng, tôi vừa sinh ra đã là Thiếu gia. Thời gian trôi, tôi lớn lên, tôi phải lòng cô gái nhà hàng xóm. Nhà cô ấy là nô bộc cho nhà tôi, từ nhỏ cô ấy đã hầu hạ trong nhà tôi, ngày nhỏ chúng tôi thường cùng chơi đùa với nhau, nhưng lớn lên chúng tôi dần lạnh nhạt với nhau. Nhưng tôi nhận ra, tôi càng ngày càng thích cô ấy. Và tôi nghĩ, cô ấy hẳn cũng phải thích tôi. Năm cô 18 tuổi, cha mẹ không ngăn cản được ý tôi, đành sang nhà cô ấy cầu thân, gia đình cô tất nhiên nhận lời ngay. Hôm đó, tôi chạm mặt cô ấy ở cửa, tôi vui vẻ định nói với cô vài câu, ai ngờ được, tôi chỉ thấy trong mắt cô tràn ngập căm hờn. Trái tim tôi phút chốc ngưng đọng lại, tôi nôn nao quay về, mơ hồ dự cảm một điều gì đó sẽ xảy ra. Quả nhiên, ngày tôi đón dâu về, cô ấy đã bỏ trốn cùng một người con trai trong làng. Cha tôi nổi trận lôi đình, sai đám gia đinh đông đúc trong nhà đuổi theo, tôi hoang mang cũng chạy theo đám người. Không mấy lâu chúng tôi bắt được đôi trai gái, tôi kinh ngạc, mê hoảng, khiếp sợ, không biết nên nói gì, chỉ biết đứng đực ra nhìn cô. Cô ấy cũng nhìn tôi, con ngươi trong đôi mắt trong như một vực xoáy đầy hận thù nuốt chửng tôi. Trong lúc bối rối hoang mang, trái tim tôi co thắt lại: “Cô ấy hận thù tôi!” Trước mắt tôi tối sầm... Chờ lúc tôi tỉnh lại, gia đinh nói cho tôi biết cô ấy đã cùng chàng trai kia chạy trốn, cuối cùng cả hai nhảy xuống vực sâu tự sát... Tôi vừa nghe thấy tin đó, cả thế giới dường như không còn tồn tại nữa, thời gian, không gian như hoá thành hư không... Người yêu dấu ngày xưa nay chỉ còn lại nét mặt xám tối. Viên thuỷ tinh quá khứ đã vụn thành cát lỏng trong tay tôi, bị những ngọn gió thời gian và không gian thổi bay tung, bay mất dần, tan vào trong gió. Gió ơi gió về đâu? Sao không mang tôi đi theo, nhưng gió đã lấy trái tim tôi đi xa, làm ơn đừng vứt bỏ tôi ở lại một mình, gào thét ở tận cùng thế giới, thét gào vô tận. Đêm đen sẽ đến, sự sống sẽ tiêu tàn, vì sao tương tư nhau mà không thể quay lưng nhau, vì sao tương tư nhau mà không thể oà lên nhau? Chờ đến lúc tôi tỉnh dậy một lần nữa, tôi phát hiện mình đã ở bên cầu Nại Hà, Bạch Vô Thường đang đứng bên cạnh nhìn tôi. Chờ khi tôi định thần, Bạch Vô Thường nói cho tôi biết, sau khi ngất đi không lâu, hồn tôi đã lìa khỏi xác... Anh ta còn nói cho tôi biết, người con gái vì tình mà tự vẫn kia, chính là hồn quỷ nữ năm nào tôi đau khổ chờ đợi, giờ đã phải đi vào thành Uổng Tử rồi! Đầu óc tôi mụ mị, tất cả mọi ký ức đều dội tới, tôi không biết phải làm gì... Bạch Vô Thường dắt tay tôi đến trước Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát mỉm cười im lặng. Tôi không nén được hỏi ngài: “Vì sao cô ấy hận thù tôi?”. Bồ Tát nói, đấy là nhân quả. Tôi hỏi, nhân quả là gì. Bồ Tát nói: “Hữu duyên chính là nhân quả. Ngươi đã từng cho cô ấy một kiếp luân hồi, cô ấy cả đời hầu hạ ngươi, đó chính là nhân quả. Ngươi cho cô ấy một kiếp luân hồi, là bởi vì cô ấy đã bị chết oan vì ngươi. Cô ấy vì ngươi mà chết, cho nên cô ấy đòi ngươi đền cô ấy một kiếp luân hồi. Con người thường bảo là có Tiền sinh Hậu thế (kiếp trước thế nào thì kiếp sau nhận báo ứng thế), nhưng thực ra làm gì có trước và sau, chỉ có kiếp này ở đây thôi! Có đến có đi, nhưng trước sau không có sinh không có tử”. Tôi cảm thấy tất cả là một sai lầm lớn, vào một thời điểm đặc biệt, gặp một người đặc biệt, xảy ra một điều gì đặc biệt. Dường như có thể thấy sẵn một kết quả, nhưng thế sự đâu phải thế. Tôi đã sai lầm. Tôi đã bỏ lỡ mất một ngàn năm của tôi. Tôi đã bỏ lỡ mất hai kiếp đầu thai đáng lẽ được hạnh phúc làm người của tôi. Trong khoảnh khắc đó tôi ngộ được hai chữ luân hồi, con người còn phải luân hồi, là bởi con người có vô vàn sai lầm, vô vàn ân hận, vô vàn mất mát, nên phải đi tới kiếp sau để đền bù. Nhưng nếu cứ luân hồi mãi mãi, con người làm sao nhớ được kiếp trước đã làm gì, trong một cõi nhân gian hẹp hòi, để chỉ đường cho kiếp sau đi hoá giải? Luân hồi là lời kinh của Phật, để chúng sinh mê muội hiểu rằng ngoái đầu là bờ, nhưng những người còn Chấp thì sao hiểu ý nghĩa lời Phật, ngoảnh lại những việc mình đã làm họ lại hối tiếc. Còn tôi, chí ít, tôi đã không hối tiếc. Giờ đây, tôi đã hiểu lời Phật nhắc tôi, nhưng tôi vẫn không đáp lời Phật, tôi cũng không muốn đi ngẫm ngợi lời Bồ Tát. Bởi tôi đã nếm trải được hạnh phúc, nếm trải được đau thương, đã từng hạnh phúc, đã từng đau thương. Đã có được một giấc mộng một nghìn năm, đã có nợ kiếp trước duyên kiếp này, đã có tất cả, tôi đã mãn nguyện rồi. Tôi, cuối cùng, đã vứt bỏ mọi cơ hội tiếp tục luân hồi hay tu đạo hạnh, tôi tình nguyện vĩnh viễn quẩn quanh ở cái kiếp tiểu ngạ quỷ mà tôi đã ảo mộng suốt nghìn năm, vĩnh viễn làm một tiểu ngạ quỷ bên chân cầu Nại Hà. Bởi tôi tin tưởng, lại sẽ có một ngày, tôi sẽ gặp lại cô ấy, một cô gái vĩnh viễn không đổi thay... ......................................... Người có tâm, tất ngẫm ngợi nhiều chuyện, cũng sẽ quên nhiều chuyện. Tôi không biết một con quỷ dưới địa ngục thì có tâm hay không. Ngày ngày tháng tháng trôi, tôi thấy tôi ngày lại ngày càng trở nên lãnh đạm, rất nhiều những chuyện trong quá khứ đều trở nên mờ nhạt, tôi đã dần dà lãng quên đi những xúc động, những thương xót, những lúc đau đớn, quên rồi, dường như quên tất cả rồi... Trí óc đã quên rất nhiều, cần có thứ gì đó mới mẻ lấp đầy, cho nên, tôi bắt đầu chăm chú nghiền ngẫm những lời nói của Bồ Tát năm ấy, dường như tôi hiểu ra đôi chân lý. Cõi phù sinh đều là khổ ải, vạn vật chỉ có hình tướng mà chẳng có gốc căn (vạn tượng bản vô). Đó là lời Bồ Tát, tôi tin rằng Bồ Tát đúng, nhưng tôi vẫn không thể hiểu, vì sao đã có Cõi Người mười dặm hồng trần, thì tại sao nó lại chỉ là Hư Không? Chả lẽ cõi người chỉ là một trò chơi mà Thần Phật dùng để giày vò con người thôi ư? Làm cho con người không chịu đựng nổi biển khổ nữa đành quay đầu về Cõi Phật? Thần Phật ti tiện nham hiểm như thế, thì đáng cho xuống địa ngục! Nhưng, tôi dứt khoát không tin rằng Thần Phật đang đùa giỡn với người đời, bởi Phật luôn là đấng từ bi nhất. Và tất cả tất cả những điều này, nên giải thích thế nào? Tôi vùi đầu vào kinh kệ, một lòng niệm giáo lý nhà Phật, tôi muốn biết, tất cả, vì sao lại xảy ra? Tôi còn nhớ được đôi chút chuyện ngày xưa trên trần gian, giờ hồi tưởng đến, tôi không đành ngoái lại. Nếu tôi có thể hiểu được nhân quả của chuyện cũ, tôi tin rằng, những đau khổ trên thế gian này sẽ dần tiêu tan đi. Tôi đã trải qua ngàn năm mơ hồ và đợi chờ, tôi muôn giúp đỡ những linh hồn đang còn mê man như tôi, những người đang còn đau khổ như tôi, như thể giúp chính tôi được giải thoát. Mải mê tìm kiếm, đông qua đã bao năm, không biết không hay, tôi lại đã vùi đầu vào kinh kệ 300 năm. Ty chủ đã gọi tôi qua, khen tôi đắc Đại Đạo, cho tôi làm phán quan bên ngài, tôi tạ ơn và từ chối. Bạch Vô Thường đại ca lại kinh ngạc tới mức để rơi lưỡi xuống đất, nói tôi sao đã xem nhẹ được danh vọng, thật đã "tứ đại giai không" (mời tham khảo một bài viết khá thú vị ở đây), (thoát được những lệ thuộc thể phách hư ảo cõi nhân gian như không hình người, không bản ngã, không súc sanh, không dài lâu.) có thể viên mãn đắc đạo như thần tiên (bạch nhật phi thăng). Tôi chẳng nói gì, trong lòng tôi mắng thầm: Tôi cũng chẳng phải sư, Không cái gì mà Không, coi thường danh lợi gì đâu, chẳng qua là trong lòng tôi đang rối bời mà thôi. Nhưng cũng không rõ từ bao giờ, những người quanh tôi, à không nên gọi là quỷ quanh tôi, bắt đầu kính trọng tôi, Bồ Tát cũng thường gọi tôi đi nghe ngài giảng kinh thuyết pháp. Thực ra tôi chỉ hiểu rõ một điều, cho dù hiểu rồi, tôi vẫn thấy không phải tất cả những lẽ Phật đều đúng, bởi tôi tin cõi mang mang đất trời tự nó đã có chân lý, chân lý là gì? Tôi cảm thấy đó chính là đừng để chúng sinh phải khổ đau nữa. Bồ Tát nói phải cắt đứt mọi dục vọng, nhưng tôi lại thấy đó đâu phải là Lẽ Phải, một cuộc sống đã tắt mọi dục vọng thì còn gì để sống? Nhưng tôi không dám nói ra mồm, tôi chỉ mơ hồ trong sâu thẳm, rồi cật lực tìm đáp án giữa những trang kinh. Đọc hàng nghìn vạn trang sách Kinh, đọc Phật gia, đọc Đạo gia, tôi chỉ thấu đáo nửa chừng, rồi cảm thấy tuy những lời đó có lý, nhưng đều đâu phải thứ tôi cần tìm. Nhất là "Nam Hoa Kinh" của Trang Tử, tôi hoàn toàn bị lý lẽ "Bướm bay múa - Hồ điệp phi vũ" của ông ta làm quay cuồng đầu óc, bị đánh lạc hướng, ngập tràn trang giấy, không rõ nên nói sao. Càng làm tôi mơ hồ hơn là mỗi lần Bồ Tát hỏi tôi Thiền cơ. Tôi hoặc tuỳ tiện đáp lời, hoặc trầm ngâm không nói. Bồ Tát thì phảng phất nụ cười, tôi không thể hiểu ý ngài ra sao, hoang hoải rồi trọn ngày. Rồi lại thế 200 năm, tôi kinh ngạc vì tính nhẫn nại của chính mình, sao tôi vẫn có thể cứ đọc mãi sách kinh, cho dù tâm tôi không ở trang sách mà vẫn đọc nổi. Tôi vốn chỉ là một tiểu ngạ quỷ ti tiện, vốn làm gì đủ tư cách học, cũng chẳng biết học về làm cái gì, nhưng Bồ Tát nói, tu luyện pháp lực chính là gốc rễ cho việc trừ ma giữ gìn đạo. Tôi không hiểu, nếu Phật pháp đã là vô biên, thì vì sao còn tồn tại tà ma ngoại đạo. Nhưng Bồ Tát nói, có những kẻ bản tính ngoan cố độc ác, không thể giáo hoá. Tôi ngoan ngoãn nghe lời ngài. Có một ngày, tôi đang vật vờ tại địa phủ, bước chân lỡ đãng đưa tôi đến nơi Mãnh Bà đang nấu canh Lãng Quên. Mãnh Bà ngủ gật. Tôi bước tới gọi bà dậy, Mãnh Bà hốt hoảng thức giấc, hoảng loạn ngó trước nhìn sau, hồi lâu mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi lấy làm lạ, sao bà lo âu thế, bà nói, nếu có quỷ nào không uống bát canh của bà đã đi đầu thai, thì bà mang tội lớn. Tôi hỏi bà, vì sao hồn quỷ phải uống canh Lãng quên rồi mới được đi đầu thai? Bà trả lời, để ký ức của hồn đó không bao giờ được nối tiếp. Để mỗi kiếp nó đều có muôn vàn những nuối tiếc, cứ thế đến ngày nó mệt mỏi chán ghét những đau đớn dằn vặt, nó từ bỏ không luân hồi nữa, nó sẽ một lòng theo đại đạo. ................................................ Chương Ba: Trong cõi phù vân Trời mờ sáng, khóm núi phủ một dải mây u ám, tôi dật dờ giữa đám mây mù. Trong tim tôi tràn ngập cảm giác không thể nói ra, bình yên và hỗn loạn, kiên quyết mà lưỡng lự. Có lẽ đây là lần tôi ra đi vĩnh viễn, cảm giác trào lên đâu đó trong tim, để tôi thấy nỗi hoang mang và cô độc tột cùng. Ra đi thật dễ dàng, cũng chả cần nói chia tay, cũng chả cần vẫy tay, nhưng rời khỏi nơi đã gắn gốc rễ, thành cụm bèo phiêu dạt trong gió lạnh lẽo trở thành khoảnh khắc không ai quên được. Chim di cư còn biết chốn bay về, lá rụng từ cây còn biết về cội, giây lát ấy, tôi rốt cuộc hiểu ra cảm giác của những người bạt xứ chết nơi đất khách, cuộc đời đã trôi chảy hết, vạn sự đã dĩ vãng, nắm xương còn mòn mỏi hóng về quê cũ. (Du đãng là một tính từ, du là đi từ nơi này sang nơi khác, đãng là vẩn vơ trôi. Lúc nãy đã băn khoăn xem dùng từ gì thay vào "người du đãng", như du lãng, lãng du, phiêu bạt, phiêu lãng, tuy nhiên phát hiện ra tất cả những tính từ đó đều là từ Hán Việt. Nên tránh dịch một từ Hán Việt này ra một từ... Hán Việt khác (quan điểm của tôi như thế) nên tôi tạm để từ du đãng để bao giờ có thời gian sửa vào nghĩ sau. Ở trong tiếng Việt, du đãng là danh từ, nên mới dịch thành vagabond như bạn biết. Cảm ơn bạn.) (P/S: Nghĩ là thử dịch thành người bạt xứ xem sao) Tôi không biết tôi sẽ sống bao lâu, có lẽ 100 năm, có thể 1.000 năm, có thể 10.000 năm. Một vạn năm rất dài, dài tới mức tôi không biết dài bao lâu, nhưng khi kết thúc, cũng không biết vạn năm đó kết thúc ở một ngày nào, rồi liệu có người nào mang nắm xương tàn của tôi về lại chốn mà hôm nay tôi ra đi. Nắng xuyên qua mây mù, rọi vạn dặm nhân gian rỡ ràng. Tôi đứng trong ánh nắng cảm giác được nỗi nhẹ nhõm chưa từng nếm trải, từng sợi nắng từng sợi ấm áp hắt vào buồng tim tôi, ánh sáng quyến rũ như xuyên suốt thân thể tôi đang trong veo như một đám mây. Một hồn quỷ thì làm sao nhìn thấy được nắng trời, hạnh phúc làm sao khi tôi được Bồ Tát truyền giáo Pháp môn tu Tiên, tôi lãnh ngộ được ân sủng từ thiên nhiên. Tôi vô tình nhớ tới Bồ Tát, trong tim tôi ngài là bậc tối cao nhân từ, tôi kính trọng ngài, tôi yêu ngài. Nhưng cùng lúc đó tôi nhớ đến nỗi tuyệt vọng của Tần phán quan, gương mặt gỗ đá tuyệt vọng trong oán hận, những mảnh hồn sót lại nhầy nhụa và tấm lụa áo bay phấp phới, và lúc đó gương mặt Bồ Tát lạnh lùng như băng, đôi con ngươi sâu thẳm... Tôi chưa biết từ bao giờ bắt đầu có một sợi tơ ai oán với Bồ Tát, cũng không rõ tôi đã thương xót Tần phán quan từ bao giờ. Không quên nổi nụ cười nhân ái như cha của Bồ Tát. Không quên nổi ánh mắt vô thần khi sấm sét giáng tới của Tần phán quan. Không quên nổi khúc hát ai oán của linh hồn đơn côi nơi ngục tăm tối. Đầu óc hỗn loạn, như có vô số người đang cãi cọ trong tôi, kéo tôi về nhiều hướng... Tôi không biết tôi nên ngả về đâu, về ai. Tôi ngơ ngẩn ngồi bên đường, nhìn người qua lại, mỗi người đều một vẻ mặt vội vã, vội vàng tới, vội vàng đi. Tôi hâm mộ họ, họ biết họ nên đi đâu, còn tôi thì chả biết đi đâu, cũng không ai nói cho tôi biết, tôi nên đi về đâu. Ngày của người trôi sao nhanh, chớp mắt, mặt trời đã tắt đi tà huy của mình, đêm lại tối rồi, bốn phía người đi thưa dần, đôi khi có người ngang qua, mặt có nỗi thèm mau về ngôi nhà nhỏ. Nhà, tốt biết bao. Trong nhà có thể vợ đã nấu xong cơm, chờ người chồng về sum vầy, con cái chờ bố mang quà về... Mà những người vội vã qua đường này, có lẽ cũng đang nhớ bữa cơm thịnh soạn chờ ở nhà và người vợ dịu dàng, đám con ngoan, mở cửa về con cái sẽ sà vào lòng, vợ mỉm cười êm ái... Nhà, tôi không có nhà, cũng không biết ở đâu có nhà của tôi. Đột nhiên, tôi nghĩ đến ngôi nhà một nghìn năm trước tôi đã đầu thai, ở đó có cha tôi, có mẹ, có cô ấy... tôi như người chết đuối vớ được cọc, người đi đường ban đêm nhìn thấy một tia sáng đèn, tôi không kìm được nỗi cảm động: "Tôi phải về nhà!" Vào giây cuối cùng khi đêm tới, trong ngọn khói leo lét, đèn nến thắp lên đây đó, tôi hoá thành làn gió, bay về phương xa, nơi xa là nhà tôi, cách xa đã nghìn năm. Loáng thoáng nhớ vị trí nhà nghìn năm trước, ở bên núi. Tôi khôi phục vóc tướng, bước lên đường núi. Đường núi quanh co, bên núi có thị trấn nhỏ, gọi là "Đào Nguyên Hương", tôi từng sống ở đây. Đi trên đường núi, bốn bề xanh ngắt điệp trùng, chim hót vượn kêu, hoa dại phả vào tôi hương vị nhân gian. Được sống trong đời sống này thật hạnh phúc, tôi nghĩ. Tôi lục lọi tìm ký ức những gì còn nhớ về cuộc sống trần gian ngày xưa, xuân hoa thu nguyệt hạ đỗ quyên, tuyết hoa trắng trời mùa đông. Hoa đào trước cổng vườn cũ, không rõ hôm nay tôi về có nở hoa rực đầy cành như ngày xưa? Cây liễu bên hồ trước làng liệu còn bầy trẻ con đùa nghịch? Những quán rượu dọc đường bay hương thơm liệu còn nhộn nhịp như ngày cũ? Những ngôi nhà cổ còn che người qua cơn mưa gió? Những bạn bầy thanh mai trúc mã thơ trẻ xưa liệu còn đầu thai về đất cũ này? Nghĩ rồi chân bước chậm dần, quê càng gần lòng càng âu lo, cách biệt ngàn năm thời gian, cố hương, vẫn là cố hương của tôi chứ? Thị trấn ngày càng gần, tim tôi càng thắc thỏm, cảm xúc hỗn tạp, không biết nên bắt đầu từ đâu. Trong tâm trạng hoang mang, tôi một lần nữa đặt chân lên quê cũ. Ấn tượng về khu vườn xưa đã mất, tất cả xa lạ, những con phố xa lạ, những cái cây xa lạ, những người mãi mãi là người lạ. Tất cả vừa như vẫn có gì quen thuộc, màu viên đá lát đường như xưa, dáng cây vẫn yểu điệu như xưa, gương mặt người dường như ta từng gặp, chỉ có điều không biết nói từ đâu. Quanh quẩn mãi, tôi mới tìm được nền nhà nghìn năm trước, nơi tôi đã từng sống với cha mẹ và người thân. Nhà đã không còn, nền đất đã biến thành rừng hoa đào, giữa rừng chỉ còn sót lại một hòn thạch sư lở lói cho tôi biết đây vốn là nhà tôi, đây, là nhà tôi, ngôi nhà một nghìn năm trước, ngôi nhà đã không còn tồn tại. Chậm rãi đi giữa rừng đào, cẩn trọng soi xét kỹ dưới chân mình đất nào là nền nhà cũ, đâu là phòng, tôi không ngờ tôi có trí nhớ tốt thế, nhớ được bao nhiêu chuyện xưa cũ. Nhè nhẹ ngẩng đầu nhìn về xa xăm rừng đào, đôi mắt ầng ậng mây mù, mơ hồ như rừng không còn nữa, tôi đang đứng giữa nhà tôi, lầu gác vòm mái, hiển hiện trong mắt. Trong nhà giữa như vọng đến tiếng mẹ gọi tôi về ăn cơm, thư phòng dường như có tiếng cha mắng tôi trốn học. Tiểu viện tường đông, đầu tường như mọc chút rêu xanh, đó là âm thanh gì? Cô ấy ở bên tường gọi tôi, đòi tôi gấp cho cô ấy một cành hoa đào, bắt một con chim sẻ nhỏ... Một cánh hoa rụng xuống, ngả lên những vân sóng tầng tầng giữa dòng, từng vòng sóng từng vầng loang ra, trong làn ánh sáng xao động, phòng ốc, đình viện chìm đi không dấu vết, cha mẹ, gia nhân, những lứa bạn bè quen thân hoá thành hư ảo theo sóng nước. Chỉ có hoa đào như cũ, những cánh hoa bay trong gió như mơ như ảo, như khói như mưa, như khóc như than, trái tim tôi như những làn khói bay xa, phiêu dạt theo cánh hoa, phiêu bạt... Đêm tối, tôi mang bầu rượu, ngồi bên hòn đá thạch sư, nói chuyện cả đêm với đá. Tôi kể với đá quá khứ của tôi, nói với nó chuyện kiếp trước của tôi, nói với đá về cha mẹ tôi xưa, nói với đá về sự vô tri của tôi, nói với đá sự đau đớn của tôi, nói với đá sự buồn bã của tôi, nói với đá những khao khát của tôi, nói với đá sự hoảng loạn của tôi... Cuối cùng tôi đắp ba doi đất vàng bên hòn thạch sư, làm thành mộ của cha mẹ tôi và người tôi yêu, dùng chỗ rượu còn sót lại, tế cúng linh hồn đã xa xưa của họ. Rượu thấm vào đất, thoáng đã khô ngay, tôi hy vọng nhờ rượu này có thể rửa đi những đau thương và bất hạnh mà tôi đã mang đến cho họ nghìn năm trước, có thể rửa đi những tiếng than vì sự bất hiếu của tôi, những oán hận vì tôi ngỗ ngược. Nhưng tôi không biết rượu có khả năng đó thật không, đi giải những vết thương suốt ngàn năm, đi bù đắp những tiếc nuối đã ngàn năm. Tôi quyết định ở lại sống nơi quê nhà, sau khi từ bỏ địa phủ, tôi hồn phách rã rời, không còn muốn bước chân ra đi nữa, tôi muốn có một cái nhà, đây đã là nhà tôi ở kiếp trước, cũng sẽ là nhà tôi ở kiếp này. Tôi vốn định ở lâu trong rừng hoa đào, nhưng rừng đào ven thị trấn. Vốn cô độc trong địa phủ, tôi không thể sống chung với hàng xóm, hàng xóm luôn thấy tôi cổ quái, tránh né tôi, tôi rất buồn, tôi muốn sống như họ, nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu. Vì thế tôi đành dọn ra rìa núi ngoài thị trấn, tự lợp cho mình một gian cỏ. Mặt trời mọc rồi lặn, năm nối năm, ngày trôi qua rất nhanh, tôi cũng tập tành dần thói quen người trần gian, tôi tự cày lấy vài mẫu đất cằn cỗi, trồng vài loại rau, nuôi vài con gà con vịt. Cuộc sống tuy thanh đạm, nhưng so với cuộc sống u ám nơi âm ty, tôi cảm thấy rất mãn nguyện. Đôi khi tôi cũng xuống núi vào thị trấn, bán vài thức rau mình trồng, vài con gà vịt mình nuôi, rồi vào quán quen nhắm vài cốc rượu nhỏ. (Dịch đến đây nhớ rượu, tớ phải chạy ra tủ lạnh lấy chai vang thôi, sorry cả nhà). (P/S: Cũng may, bao lâu rồi đâu hề dịch truyện yêu đương ) (Dịch truyện này khó nhất trong mọi truyện tôi từng dịch. Quá nhiều cổ văn, Tống từ, thi ca, đăng đối, chỉ là tạm dịch nhanh, mong mọi người góp ý. Dịch xong chương 1 chỉ muốn truyện kết thúc ở đây là hay nhất. Dịch xong chương 2 cũng thấy truyện nên dừng lại ở đây là nhân văn nhất. Giờ dịch lọ mọ ngồi dịch chương Ba, hy vọng chiều sang chương 4. 1 Entry ko đủ để đăng cả truyện dài nên ngắt ra, mời mọi người vào đọc phần đầu ở đây). ............................. Dần dà, tôi quên mình là quỷ, quên mình đang đi tìm đại đạo, tôi dường như cảm thấy mình là người, là một kẻ phàm phu nhàn rỗi. Một ngày, núi yên tĩnh xuất hiện một người khách không mời mà tới. Hôm đó, tôi vừa cho gà vịt ăn xong, chuẩn bị nghỉ ngơi, uống ấm trà. Một đạo sĩ bước tới trước mặt tôi, định hoá duyên (xin đồ khất thực). Tôi bèn đưa chút cơm rau và trà nước cho ông. Khi đưa tay ra nhận, mặt đạo sĩ biến sắc, trở nên rất khủng khiếp, mắt chòng chọc nhìn thẳng vào mặt tôi. Rồi không nói không rằng, quay người chạy mất. Tôi cảm thấy thật kỳ quặc, nhưng không ngờ một tai hoạ từ trên trời giáng xuống... Sáng hôm sau, tôi còn chưa cơm nước gì, thì thấy đạo sĩ kia dẫn một đoàn người lên núi, có cả đạo sĩ, hoà thượng, rất nhiều dân làng. Nhóm người vừa nhìn thấy tôi đã cuống lên, rồi toả ra bao vây tôi, hoà thượng niệm kinh liên tục, niệm những gì mà tôi nghe không hiểu. Những đạo sĩ thì ném bùa chú tới tấp, cầm chuông rung lắc loạn xạ, thoáng chốc sân nhà tôi náo loạn gà vịt bay chó chạy, ruộng rau bị dẫm nát tan hoang. Tôi chịu không nổi phản đối, các người đang làm cái gì đấy! Ai ngờ đạo sĩ kia hắt một thứ đen sì vào người tôi, một mùi tanh nồng nặc lên mũi, thì ra là một chậu máu! Tôi nổi cơn thịnh nộ, tiến tới, vung tay lên một quyền, đạo sĩ bị đánh bay văng ra vài trượng, thổ ra máu tươi, nằm úp trên đất phều phào. Tôi sững lại, giờ mới nhớ ra công phu tôi tu luyện suốt ngàn năm đâu phải sức người thường chịu nổi, may quá tôi chỉ ra một đòn nhẹ, nếu không đạo sĩ kia chết ngắc. Đám người hỗn loạn kêu oai oái, một đạo sĩ mắng chửi: "Đồ súc sinh quỷ đói, lại còn không sợ máu chó đen!" Tôi mắng lại: "Ngươi mới nói nhảm, ta không phải ác quỷ, ta là... ta là..." Tôi sững sờ. Tôi là quỷ, tôi chính là quỷ đây. Đạo sĩ quát: "Ngạ quỷ nhà ngươi, vì sao không ở địa ngục, chạy lên trần gian hại người! Quyết không tha cho ngươi!" Tôi giận dữ, tôi nào hại người. Tôi hét lên: "Tôi chưa hề hại người!" Đạo sĩ hét lớn: "Ác quỷ không hại người, lên trốn trần gian làm gì! Xảo trá!" Tôi giận đùng đùng, tôi chỉ muốn về sống ở quê hương tôi, chỉ muốn có một mái nhà. Chẳng lẽ như thế là sai lầm ư? Ai ngăn cấm quỷ về dương gian! Ai! Tôi không hại ai, tôi chưa bao giờ hại ai. Tôi chỉ sống trên mảnh đất của tôi thôi!!! Tim tôi ngày càng kích động, lời mắng mỏ của đạo sĩ làm tôi không kiềm chế nổi nữa, tiếng niệm kinh, tiếng chuông, những tiền giấy bay tới tấp đầy trời, những gậy gộc gạch đá đập lên người làm tôi bức bối. Một luồng sức mạnh tiềm ẩn trong thân tôi bạo phát, tôi ngửa đầu lên trời gào thét, một luồng âm khí từ ngực tôi vụt thoát, tức khắc biến thành một quầng vần vụ xanh lè và hoá thành cơn lốc dữ dội, thổi bay đất đá, mái nhà bị san phẳng, ruộng vườn tơ tướp, cây cối bật nhào rễ... Mấy hoà thượng đạo sĩ bị thổi bay, những người còn lại sợ hãi kinh khủng, cuống cuồng bỏ chạy xuống núi. Hôm sau, tôi vào thị trấn định mua vài thứ cất lại nóc nhà. Ai ngờ vừa vào trấn, những người gặp tôi mặt thảy đều xanh lè, hoảng hốt bỏ chạy. Người người tán loạn sợ hãi, cả những lính gác cổng thành đều không rõ nấp vào đâu trốn. Tôi cũng không hiểu xảy ra điều gì, cho đến khi tôi tới quán mì quen thuộc của ông Vương định ăn chút lót dạ, tôi mới hiểu ra. Ông Vương nhìn thấy tôi đi vào, sợ run lên cầm cập, vội vàng bảo: "Đừng đến nữa, đừng có đến nữa..." Tôi nghi hoặc nhìn, ông ta nói vấp váp: "Anh là quỷ thật ư?". Óc tôi oà ra một tiếng, tôi hiểu rồi, tôi hiểu hết, người, không bao giờ đón nhận quỷ, cũng sẽ không bao giờ cho phép quỷ chia sẻ cõi sống cùng họ. Tôi không biết trong lòng tôi là cảm xúc gì nữa, là bi thương, là bi phẫn, là buồn bã, tôi ngơ ngẩn quay người đi ra khỏi quán nhỏ, nhìn phố không người, hàng quán xô lệch. Tôi muốn gào, tôi muốn gọi, tôi muốn khóc... Tôi, nơi quán rượu trống hoác, cầm hồ rượu, vứt xuống một đồng xu, tôi đi khỏi thị trấn không ngoái đầu. Giữa rừng đào, tôi uống một hơi cạn nửa hồ rượu, còn lại nửa bình rưới lên đất. Tôi vốn định năm nay mùa hoa đào nở, tôi sẽ xây những nấm mồ thật cho họ, nhưng xây rồi nào để làm chi, mà tôi cũng chẳng còn thể nào ở lại nơi này. Tôi vốn tưởng đây là quê nhà, nhưng không phải, nghìn năm trước là, nghìn năm sau không! Bãi bể ruộng dâu, thiên địa vô tình, ai ngờ nhân gian lạnh lùng thế, những người bạn ta từng quen thân, lại nghĩ ta không phải đồng loại mà vứt bỏ ta, những người qua đường từng đi bên cạnh, giờ trốn tránh ta, như ta là hồng thuỷ, ta là thuốc độc... Lần này tôi không có nước mắt, nhưng trong tim tôi đau như là nhỏ nước mắt, đau tới mức tôi không thể thở... "Lang tang..." chiếc hồ rượu vỡ tan dưới chân, như mảnh vườn tan nát của đời tôi, giấc mơ tan nát của tôi. ....................... Chương Bốn: Tình về chốn nào Ngọn cả lả bóng tà dương, lả ngoài bóng tà dương, nước lạnh mây vàng, nếu có ruột cũng đau đớn đứt ruột, nữa là tôi không có ruột. Những ngày trên cõi thế, tôi như con trùng bám trên lá khô trôi dật dờ, vật vờ mãi không hết ngày, những cơn sóng triều của nhân gian lôi tôi đi, tôi muốn phản kháng, nhưng hết sức, cũng không kháng cự nổi. Tôi không biết bờ bên kia của tôi là phía nào, tôi chỉ biết nhìn xa vời triều lên triều xuống, kệ dòng trôi dạt. Tôi là quỷ, là thứ con người ghê sợ nhất, cho dù tôi dùng nỗi niềm nào đi khao khát những dịu dàng êm ái, nhưng cũng không bao giờ có được một trái tim ấm áp, bởi vì tôi là quỷ. Dần dà tôi quy thuận số mệnh của mình, ban ngày, tôi nấp trong góc tối, nhìn ra những tấp nập nhiều màu của người sống, ban đêm, tôi lẩn vào dòng người, thử đi nếm những niềm vui cõi hồng trần. Tôi tưởng tôi đã rèn một chiếc mai, cõng nó lên, sống cẩu thả tạm bợ qua ngày, giữa xã hội của con người. Bình minh, những tia nắng sớm uể oải chiếu vào từ cửa sổ, trời đã sáng rồi... Tim tôi bỗng trở nên lo âu luống cuống, tôi không thích bình minh và nắng trời. Sự mát mẻ của bình minh và tia nắng ấm làm da tôi có cảm giác hỗn loạn, một hơi ấm từ ngoài thấm vào làn da còn lạnh lẽo, làm tôi cảm giác ngứa ngáy và tê tái bứt rứt khó tả. Trên da như có nghìn con côn trùng đang bò, muốn bắt chúng không được. Tâm trạng càng lúc càng cồn cào... Lại qua một đêm ngập trong rượu. Với người đời, một ngày vừa mới bắt đầu, với tôi, một cuộc vui sống vừa kết thúc. Tôi không ngăn được tôi căm ghét cả thế giới này, mọi sức mạnh thần linh trên đời. Tôi thích đêm đen, vì tôi là ngạ quỷ, giữa tiếng câm lặng yên tịch, trái tim tôi từ tốn lại, màn đen kịt của đêm che phủ lên tất cả những gì tôi không muốn để người đời thấy. Tôi thả lỏng người trong bóng đêm, tôi lúc này mới thực sự là tôi. Tôi không cần để ý xung quanh, không cần canh cánh bên lòng mọi sự, cho dù bên tôi ẩn chứa những ác mộng của đêm đen tôi cũng không bận lòng. Bởi tôi với ác mộng là một, đều thuộc về bóng tối... Trong màu đêm vô tận, tình cảm của tôi chảy lan, theo nước triều lên xuống, tất cả đã là vật ngoài ta, đã không còn liên quan gì đến tôi... Quan trọng nhất là trong màn trời tối đen, tôi được phục sinh. Tôi rất cô độc. Tôi khao khát được đến gần, khao khát được quan tâm. Hy vọng có một người bên tôi, lúc nào cũng bên tôi. Đó, sẽ là những giây phút hạnh phúc nhất. Hiện thực thì vô cùng u ám, tôi không còn cơ hội nào cất tiếng nói với con người, kể chuyện tâm sự. Đôi khi, tôi phát hiện một cơ hội nhỏ nhoi, nhưng cũng chỉ là một chấm sáng vụt tắt. Lâu dần, tôi bắt đầu buồn phiền, bắt đầu oán trách. Cuối cùng, tôi cũng chẳng được thần linh nào đoái hoài, có thể ngay cả thần phật cũng đã vứt bỏ tôi rồi, bắt tôi phải sống trong đêm tăm tối. Những lúc lên đèn, người như một đàn ong huyên náo trong tổ ong, tôi thèm được hưởng sự huyên náo thoải mái ấy, nhưng tôi dường như không sống trong cõi người, tuy tôi nhìn được họ, nhưng tôi mãi mãi không thể tới gần. Xuân đi xuân lại, thu về thu qua. Những mầm non từng vươn nở trong gió xuân, những chiếc lá đã mọc lên giữa đêm hè, những khúc biệt ly lưu luyến bay múa giữa gió thu, những bùn hoá dưới tan tác tuyết đông, rồi như phép lạ xuất hiện ở đầu cành, lại một màn xanh tươm óng toàn thân cây. Cỏ cây như đều hớn hở sinh sôi, có sinh có tử, có đến có đi, kẻ tới hôm nay tiếp kẻ vừa lìa ngày qua. Nhìn những sinh linh mạnh mẽ ấy, tim tôi như dây đàn bị ai lướt một khúc nhạc, nặng lòng và cuống quýt. Cây cỏ cũng có thể vậy, tôi tuy là một hồn quỷ, nhưng tôi đã sống qua hai nghìn năm rồi, tôi cũng đã từng tu luyện đại đạo rồi. Giữa bao la chúng sinh, tôi cũng điềm nhiên có một số mệnh như ai. Tôi đã bỏ địa ngục rồi, không thể quay về đấy nữa, và tôi cũng không muốn quay về, tôi đã tới cõi mười dặm hồng trần này rồi, thì tôi sẽ sống như một "người" trong nhân gian, tôi không muốn làm một "quỷ" chỉ có quyền sống dưới địa ngục. Tôi phiêu dạt tứ xứ, lưu biệt lãng đãng, tôi lại tìm một nơi mới cho tôi trồng lên số mệnh mình. Tôi muốn tìm một người bầu bạn, bên mình suốt đời. Quên đã bao mùa nhạn bay về phương Bắc, quên đã bao mùa én con rời tổ. Bạc những vết bụi hoàng thổ con đường cũ dưới chân tôi, bạc những ngọn khói liễu heo hắt bên mình. Giữa đất trời chỉ có mỗi một tôi đi... Nhớ chớm thu năm ấy... Ngoài quan tái cảnh vật không còn giống như Giang Nam, Trung Nguyên, trời cao mây nhạt, mênh mang chân trời, có khúc ca vọng tới: "Trời xanh xanh, cỏ mênh mang, gió thổi cỏ ngả xuống, hiện lưng cừu đàn." Tôi đi lang thang trong thảo nguyên, nhìn núi Hạc Lan uy nghi xa xa, những mạch núi gân guốc dưới nắng mặt trời. Trên thảo nguyên không có đường đi, chỉ có những người du mục đôi khi ngang qua đuổi một đám bò cừu. Lòng tôi nhẹ nhõm, có lẽ bởi phong cảnh rộng rãi ngoài biên ải đã giúp tôi thở rộng lồng ngực, hít vào ngọn gió xua mây mù trong tim tôi. Tôi rất muốn chào hỏi người chăn cừu, trò chuyện với họ, nhưng tôi lại sợ người ta phát hiện ra tôi là ai, tôi do dự mãi. Tôi chỉ nhìn theo họ lùa những đàn súc vật đi xa dần... Có một ngày, tôi ngồi trên một gò cỏ nhỏ, yên lặng ngắm đám mây màu uyển chuyển cuối trời. Màu mây biến đổi diệu kỳ, lúc là ngọn núi, lúc thành cái mũ, lúc là con ngựa, một chú dê... Dê? Tôi đột nhiên phát hiện, không biết từ lúc nào một đàn dê đã chạy tới bên tôi, dê rất đáng yêu, chỉ cúi đầu yên lặng gặm cỏ... Tôi ôm một chú dê vào lòng, vuốt ve lông dê, lúc đó, một chú chó chăn dê chạy đến chỗ tôi, dừng lại trước mặt tôi, nhìn tôi, tôi nhìn nó. Một lúc sau, con chó chăn dê lười biếng nằm xuống chân tôi, tôi đưa tay xoa đầu nó, mũi nó ngửi hít áo quần tôi, thè lưỡi liếm tay tôi. Một bóng người chạy tới, là một con người, tôi bắt đầu tự dưng lo lắng, không biết nên bỏ đi hay nên... Người đó đã chạy đến trước mặt tôi, con chó dưới chân tôi đứng dậy, nhiệt tình chạy tới bên chân chủ, vẫy đuôi rối rít. Người đó chăm chú nhìn tôi, tôi cũng nhìn người đó, là một cô bé, chừng mười lăm mười sáu tuổi. Tôi luống cuống đứng dậy, tôi sợ họ nghĩ mình là kẻ trộm, sợ họ ghét mình, sợ nói chuyện với họ. Tôi ngốc nghếch cười với cô bé, nhưng vì quá lo âu, tôi cứ ôm khư khư con dê trong lòng không thả ra. Cô gái quỳ xuống, đỡ lấy con dê trong tay tôi, ôm nó vào lòng. Rồi bảo tôi, anh có đói không? Tôi không ngờ cô gái nói với tôi câu đó, tôi há miệng trợn mắt không trả lời được. Cô gái ấy đi xuống sườn đồi, nhìn tôi đờ đẫn không phản ứng, quay lại nói thêm: "Đi với em đi!" Rồi cô ấy cười rạng rỡ... Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một nụ cười đẹp như thế... Không, tôi đã từng nhìn thấy, tôi đã từng gặp... Tôi quay lại một nghìn năm trước, bên chân cầu Nại Hà, một nụ cười không có gì xinh đẹp hơn... Trái tim tôi buốt nhói một ý nghĩ "lẽ nào là cô ấy?" Tôi không biết nên làm gì, nên nói gì, chỉ thấy chân mình đã bước, theo cô ấy. Dưới sườn núi là một lều Mông Cổ, tôi đứng ngoài lều, lưỡng lự. Cô ấy mở rèm cửa, lại cười với tôi, rồi vẫy tay cho tôi. Trong lều Mông Cổ, trên bếp lửa đang đun nồi thịt dê, một người đàn ông cao to kêu tôi ngồi xuống. Cô cười vui đưa cho tôi bát sữa ngựa. Tôi chẳng biết nói gì, vụng về lúng túng, thôi thì họ đưa gì tôi ăn nấy, nghe họ nói chuyện tôi biết tên cô gái là Hốt Lan, người đàn ông cao lớn là cha cô. Tôi chăm chú ăn thịt dê, uống sữa ngựa, bố cô nhìn tôi ăn bèn cười ha hả, còn cô nhìn tôi tủm tỉm, tôi cũng cười theo ngô nghê. Ăn hết, tôi quẹt mồm, lúc này Hốt Lan mới mủm mỉm và nghiêm túc nói: “Anh ăn thức ăn nhà tôi, anh trở thành nô lệ cho nhà tôi, đây là luật lệ của thảo nguyên!”. Tôi lại đờ đẫn cả người, mồm há hốc, nhưng thấy cô ấy nói rất nghiêm túc, tôi chỉ còn biết vâng. Lúc này cô cười lên một tràng giòn giã lanh lảnh như chuông bạc, bố cô cũng cười phá lên sảng khoái, chỉ có tôi ngồi đó, mồm vẫn tiếp tục há hốc. Bố cô hỏi tôi: “Anh là người ở đâu?” Tôi ngơ ngẩn lắc đầu, ông ta lại hỏi: “Anh mấy tuổi?” Tôi không dám nói tôi 2000 tuổi, vì thế, tôi thờ thẫn lắc đầu. Bố cô nhìn tôi dò xét: “Thằng này bị dở hơi chăng!”. Cô cứ cười tủm tỉm mãi, rồi bảo bố: “Người này thú vị ghê, bố giữ nó lại nhé!” Bố cô đánh giá tôi, không nói gì. Tôi nhìn cô, tôi nhìn qua đôi con ngươi nâu xanh trong vắt, tôi dường như thấy cả quá khứ xa thăm thẳm, những biệt ly cũ, những nhớ nhung xưa, những sầu đau xưa, tất cả tất cả xưa xa… Tôi không kìm được nước mắt chảy ròng ròng xuống má, tôi dập đầu lên nền đất, van xin: “Xin hãy giữ tôi ở lại đây, cho dù bắt tôi làm nô lệ cho ông, xin ông hãy cho tôi ở lại!” Tôi thành tâm khẩn cầu, như năm đó tôi khóc ròng đau đớn van xin Bồ Tát. Hai cha con người Mông Cổ kinh ngạc vì phản ứng của tôi, nhưng thấy tôi thành tâm và đầy nước mắt trên mặt, cả những lời nói khẩn cầu không thể giả tạo, họ tỏ vẻ thương hại. Cuối cùng cha cô giữ tôi lại. ......................... Trong tim tôi có niềm vui không lời, tôi lén nhìn cô gái, muốn biết cô nghĩ gì, mắt cô vẫn trong sáng, nhưng dường như trong sâu thẳm tâm hồn có chút nghi ngại. Tôi không dám nhìn cô lần nữa, những ngọn triều trong hồn tôi đã phản chiếu lại một đôi mắt trong ký ức nhìn tôi căm hận ai oán, tôi sợ hãi đôi mắt ấy, tôi sợ hãi ánh nhìn ấy. Tôi sợ hãi số mệnh… Tôi tự nhủ: Cho dù cô coi tôi là gì, đời này kiếp này tôi nguyện làm nô lệ cho cô một đời một kiếp, cho dù tôi là nô bộc, nhưng chỉ cần được ở bên nhau, được nhìn thấy nhau, cũng đủ… Từ đó, tôi ở lại, ngày ngày tôi ở bên cô, cưỡi ngựa, chăn dê… Ngày nối ngày qua, tôi ngày ngày cầu xin, cầu cho cô mãi mãi vui tươi, cầu cho cô mãi mãi không bao giờ ghét bỏ tôi, mãi mãi để cho tôi theo cô, mãi mãi làm nô bộc của cô… Tuy cô ấy chưa bao giờ coi tôi là nô lệ, nhưng tôi là một ngạ quỷ, một ngạ quỷ chỉ có thể làm nô bộc… Tôi đã từng nghe người nói, những cây cỏ đá núi cũng có linh hồn, nếu nó cứ một lòng một dạ cầu nguyện làm người, rồi sau sẽ được biến thành người thật. Tôi tuy đã có hình người,nhưng tôi vẫn ngày đêm mơ được làm người, không rõ bao nhiêu đêm mộng say, tôi mơ thấy tôi biến thành người thật sự. Cứ thế qua vài năm, cô đã lớn, mỗi ngày nhìn thấy cô, tôi như mê mẩn tâm thần, nhưng tôi cố gắng kìm nén tình yêu dành cho cô ấy, khao khát với cô ấy. Tôi vĩnh viễn ghi nhớ những ảo mộng đau đớn khắc cốt ghi tâm của kiếp trước, đôi mắt oan khuất của một người con gái tình nguyện chết đi. “Chỉ sợ tình thắm thiết, tan vỡ mộng mỹ nhân” tôi hiểu rõ lẽ đời này. Tôi tình nguyện làm một cái cây cho cô ngồi bóng mắt, tôi tình nguyện làm lưng ngựa cho cô tuỳ ý vung roi cưỡi, tôi tình nguyện làm đốc dao cho cô phòng thân, tôi tình nguyện làm vò đựng trà sữa cho cô uống. Tôi không muốn hé nỗi lòng với cô ấy, không muốn hoang tưởng được ôm cô vào giấc ngủ, bên nhau cười xem hoa nở, hoa rụng… Tôi đã không còn tin đời mình có hạnh phúc, không muốn biết tôi và cô liệu có duyên, nếu những giấc mơ tươi đẹp đó có thể vì tôi mà tan vỡ, tôi nguyện mãi mãi im lặng… Rồi sau, cha cô mất. Trước lúc chết, ông hứa gả cô cho một chàng trai trẻ của bộ tộc khác. Ngày đón dâu, cô ấy trang điểm rất đẹp, làn da mịn trắng hơn cả sữa ngựa, tóc nhóng nhánh hơn ngọc trai, những phấn hồng trên gò má hồng hơn những mây chiều, ánh sáng trong đôi mắt cô ấy đẹp hơn mọi ngôi sao lạnh lẽo bên trời. Tôi đăm đăm nhìn cô ấy, giá như cô ấy là cô dâu của tôi, nếu như là của tôi… Tôi chỉ thấy mình rơi dần vào địa ngục, chìm sâu dưới bóng đêm vô tận, những bùn lầy tăm tối nuốt chửng tôi, tất cả đã như một kết thúc. Tôi đăm đăm nhìn cô ấy, tôi thấy cô rực rỡ thế, sáng rạng như thế, tôi thấy đôi mắt long lanh màu hổ phách, trong mắt cô những câu hỏi khôn cùng, tôi không cách nào hiểu nổi những gì trong mắt, bởi những lời trong đôi mắt nói nhiều quá, quá nhiều. Đám rước dâu đi xa dần, tôi đứng lại một mình giữa thảo nguyên bao la, tôi đứng rất lâu, tôi không biết giờ tôi nên làm gì, tôi không biết, trái tim tôi đã bị móc mất, tôi đã mất tất cả. Đêm tối xuống thảo nguyên, tôi ngửa mặt nhìn trời cao, trên tấm màn lông ngỗng bao la phủ vòm trời kia, gương mặt cô ấy hiện ra xinh đẹp và rạng rỡ mỉm cười, rồi lại biến mất. Trong một giây khắc đó ánh sáng bỗng chói loà vạn trượng, mắt tôi nhìn thấy những ánh sao như mưa rơi tới tấp, cả thế giới đã ngừng lại, tôi không biết nụ cười đã mất đi ấy là những hồi ức từ tiền kiếp hay chính là tương lai của cõi này. Đứng một mình giữa đêm khuya, chợt phát hiện thấy chính mình đã lệ rơi xuống ướt đẫm mặt mày… Tôi thấy kiếp người đau khổ quá, tôi không dám thổ lộ cùng con người, không dám đi dọ tìm, sợ tất cả sẽ kết thúc. Ai biết được thế gian này cái gì có khởi đầu thì đều có kết thúc, mà đến lúc kết thúc tôi mới hiểu, đáng lẽ tôi phải nắm lấy cơ hội sớm hơn, nhưng, làm sao tôi biết được điều đó? Đêm trên thảo nguyên rất yên tĩnh, tĩnh tới mức cho tôi nghe thấy tiếng tim đập, cũng không thể ngủ, tôi ôm lấy cái chăn cô ấy vẫn đắp, thở mùi thơm cô ấy còn để lại mơ hồ, trong tim tôi không hề đau đớn, không hề hối hận, tôi chỉ nhớ lại những ánh mắt của cô ấy, những cái nhìn trong veo như nước… Khi sắp li biệt, thường có muôn ngàn lời muốn nói. Nhưng ra đi thì vẫn phải ra đi. Ngày em đi, gió sẽ thổi hết những hơi thở em để lại, nhật nguyệt sẽ mang nốt những chuyện cũ của em, làn mây trắng sẽ xoá đi những vết thương ngày xưa của em, và đám sao sẽ che giấu cái khoảnh khắc em vẫy tay sau cùng. Tôi vĩnh viễn ghi nhớ khoảnh khắc ấy, như khoảnh khắc lần đầu tiên tôi nhìn thấy em… Đột ngột, một đôi tay vạch tấm cửa ra, ánh trăng dát bạc toả khắp lều, trong lều là tôi, kinh ngạc vạn lần, ngoài lều là cô ấy, gương mặt đã hút hồn tôi bao cơn mê! Tôi không dám tin vào mắt mình, cho mãi tới khi cô ấy chạy vào trong lều, chầm chậm ngồi xuống cạnh tôi. Tôi nhận ra mình vẫn còn ôm chặt tấm chăn của cô ấy, thoáng chốc tôi đỏ mặt xấu hổ ghê gớm, không biết phải giải thích thế nào, tôi vừa ngước lên, nhìn cô ấy, cô ấy cũng nhìn tôi, như trên sườn núi nào gặp tôi. Tôi không nói lên lời. Cô ấy sát tới, nhè nhẹ đỡ cái chăn trong tay tôi, rồi nhè nhẹ nói: “Ôm em đi…” Tôi không chống cự, không thể chống cự, không muốn chống cự, run rẩy đưa tay ôm lấy eo cô ấy. Cô ấy rúc vào lòng tôi, khóc nghẹn lời... Tôi ôm chặt cô, cô cũng ôm chặt tôi, bấu chặt cánh tay tôi, chúng tôi cùng khóc. Chúng tôi ôm nhau rất lâu, cho đến lúc nước mắt khô đi... Đêm đó, cô ấy thành vợ tôi. Tôi rất vui, rất hạnh phúc, dường như một nghìn năm luân hồi đã chuộc lại cho tôi tất cả, số phận u ám trầm uất đã rời tôi, tôi thấy giây phút này, đến địa phủ cũng nên gội trong ánh mặt trời. Tôi cảm tạ thần phật anh minh, cảm tạ lòng nhân từ của trời đất, thoát khỏi bể khổ, tôi thành tâm cầu nguyện đất trời. Chúng tôi đến một đồng cỏ thật xa để dựng lều, ngày trôi qua thật hạnh phúc, thứ hạnh phúc yên bình như nước. Chúng tôi vẫn như thuở trước, cùng nhau cưỡi ngựa, cùng nhau chăn dê. Đêm xuống, cô ấy dựa vào lòng tôi, thủ thỉ những tâm sự của mình. Tôi thường lơ mơ ngủ quên, rồi cô ấy nổi giận lay tôi dậy, rồi cô ấy lại thủ thỉ tiếp những câu chuyện mãi mãi không kết thúc, mãi mãi... Những ngày vui sướng qua mau, trời đất như cố ý nhạo tôi, cho tôi nếm một chút hạnh phúc, rồi bắt tôi cõng nỗi đau vĩnh hằng... Cô ấy ốm, ngày càng tiều tuỵ, thuốc gì cũng không khỏi, thân thể cô ngày càng yếu ớt, còn như chiếc lá thu trước cơn gió, tôi nghĩ mọi cách, thậm chí đi đánh tuỳ tùng của Tây Vương Mẫu Côn Lôn bị thương, ăn cắp tinh của Tuyết Liên. Nhưng cô ấy không khoẻ lại. Tôi nhìn hai gò má cô ấy ngày càng gầy xanh xao, nhìn đôi mắt đen quyến luyến, tôi không kìm được lệ. Cô ấy cười thê thiết: "Ở bên anh, thực sự rất hạnh phúc, em không hối hận..." Trong sát na đó, tôi chợt hiểu ra! Tôi là quỷ, quỷ hút mất tinh khí của người! Là tôi đã hại cô ấy, tôi là một con quỷ hại người! Tôi khóc không thành tiếng, cô ấy ôm chặt lấy tay tôi, nước mắt nhoà cái nhìn của hai chúng tôi... Khi đôi tay cô ấy chậm rãi trượt xuống khỏi tay tôi, tôi không còn nhớ gì nữa, tôi chỉ nghe thấy cô ấy nói câu cuối cùng: "Đừng bỏ em...". Nỗi đau ngập tràn thân thể tôi, căng tức rồi bùng nổ ra, biến thành đầy trời cát bay lấp hết thảo nguyên... Trong bão cát, tôi gạt đi dòng lệ cuối cùng, cô đơn đi về phía thế gian mênh mang. Luân hồi, Nhân quả, Tình duyên, Yêu đương, Thương đau, Mê hoảng trong giờ phút này đều hoá thành sao băng rơi, vạch qua chân trời, rơi vào trong cõi xa sâu vô đáy. Thế giới là một màn đen kịt, là trái tim tôi, trong tim loé lên một ánh sao băng huy hoàng ngắn ngủi, thế giới đã sáng lên trong khoảnh khắc đó, thứ ánh sáng không bao giờ tắt nổi... Cô ấy vì tôi đã lại chết đi một lần nữa, nhưng tôi không hối hận, bởi chúng tôi đã từng được hạnh phúc, quen nhau kề nhau, không rời không lìa, những ngày ôm ấp bên nhau không sợ li tan. Tôi sẽ lại chờ cô ấy, chờ cô ấy lại quay lại trần thế này, tôi tin lần sau tới, tôi sẽ tìm được cô ấy, tìm được cách ở bên cô. Tôi tin, rồi sẽ có một ngày, cô ấy sẽ quay lại. Vạn thế luân hồi, nghìn ảnh hợp tan, mây về lại bên trời, trăng mém góc rừng, không rõ gió vô định về đâu, là về, hay là đang ra đi? Trái tim vừa nhói, lệ đã một hàng... P/S: Tôi gõ xong những dòng cuối cùng của truyện, rời quán cafe internet, hít một hơi thật dài trong lồng ngực nhẹ nhõm. Phố đã muộn, đang đi bộ ra bến xe bus thì nghe thấy tiếng khóc thút thít. Là một cô gái bên đường. Cô bảo đã đánh mất túi xách, giờ không có tiền đi xe về nhà. Tôi cho cô mượn máy di động để gọi về nhà, rồi cùng đứng đợi xe bus. Cô ấy gạt nước mắt, cười với tôi, nói: "Cảm ơn anh!" Trong sát na đó, ngực tôi như bị cái gì đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn... Tôi chưa bao giờ thấy một cô gái cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra... ~ Hết ~ Trang Hạ dịch [/spoil]
góp 1 bài vậy Ngắn thôi, cũng à do văn mình diễn ra ko copy nên có thể sẽ hơi ủng củng 1 chút ^^ Có 1 làng nhỏ sống trong thung ũng nọ, cuộc sống rất hạnh phúc, êm đềm dù cho con người nơi đây sống khá là khép kín. 1 ngày nọ, 1 chàng trai bỗng bước đến chân núi, chàng nhìn ra phái xa, và thấy những điều chàng chưa bao h được thấy, thế giới bên ngoài kia, hóa ra ại đẹp đẽ đến như vậy. Chàng quyết định trèo lên cao để ngắm nhìn cho rõ, thế giới trải rộng trong tầm mắt, chàng cứ thế quyết định trèo lên cao, lên cao nữa. Thế giới quá rộng lớn, rồi chàng gặp 1 đoàn mạo hiểm, họ rủ chàng đi với họ, và chàng sẽ được nhìn ngắm cả thế giới này, những nơi mà chỉ có thể nghe chứ khó có cơ hội đặt chân tới. Bạn sẽ như những người dân àng, cả đời với hạnh phcus êm đềm bình dị, hay vươn ên nhưng gian khổ thậm chí cô đơn? Và bạn có sẵn sàng ra đi, dấn thân vào những cuộc phiêu lưu mà chưa biết kết quả không? Nếu à chàng trai, bạn sẽ làm thế nào?
Cô con dâu : “Nấu nhạt tý thì bà chê nhạt nhẽo, giờ nấu mặn chút bà lại bảo nuốt không vô, rốt cuộc bà muốn sao đây?” Mẹ nhìn thấy con trai vừa về đến nhà, một câu không rằng bèn gắp thức ăn bỏ vào miệng nhai. Cô ta hằn hộc nhìn chồng. Anh gắp thử một miếng ăn, nhả ra ngay tức thì. Con trai nói : “Anh không phải đã dặn em rồi sao, mẹ bị bệnh không thể ăn quá mặn !” “OK ! Mẹ là của anh, sau này do anh nấu nhé !” Con dâu giận dỗi đi thẳng vào phòng. Con trai chỉ còn cách thở dài, và quay sang nói với mẹ : “Mẹ, đừng ăn nữa, con đi nấu mì cho mẹ ăn.” Mẹ nói : “Không phải con có chuyện muốn nói với mẹ sao, có thì giờ hẵn nói, đừng để trong lòng !” Con trai nói : “Mẹ à, tháng sau con được thăng chức, con sẽ rất là bận … còn phần vợ con, cô ta nói muốn ra ngoài kiếm việc làm, cho nên ……” Ngay lập tức mẹ hiểu ý con trai muốn nói gì : “Con trai ơi, đừng gửi mẹ vào viện dưỡng lão nhé con !” Giọng nói nức nghẹn như khẩn cầu van xin . Con trai trầm tư nghĩ ngợi một hồi lâu, trong đầu anh ta như đang cố tìm một lý do tốt hơn để thuyết phục mẹ : “Mẹ à, thật ra viện dưỡng lão không phải là một nơi không tốt, mẹ biết rồi đấy, khi vợ con kiếm được công việc, nhất định sẽ không còn thời gian chăm sóc mẹ chu đáo nữa đâu. Trong viện dưỡng lão vừa có cái ăn, vừa có chỗ ở, lại có người chăm sóc, không phải tốt hơn nhiều so với ở nhà hay sao ?” Tắm xong, ăn tạm một tô mì gói, con trai bèn đi vào phòng sách. Anh thờ người đứng trước cửa sổ, có vẻ do dự. Ngày ấy mẹ còn trẻ đã ở góa, ngặm đắng nuốt cay nuôi anh khôn lớn nên người, và còn gửi anh ra nước ngoài du học. Nhưng, bà chưa bao giờ dùng tuổi thanh xuân của mình đã một đời hy sinh vì anh đem ra uy hiếp mặc cả về sự hiếu thảo của anh, ngược lại là vợ đã đem hôn nhân ra uy hiếp anh ! Không lẽ phải cho mẹ vào viện dưỡng lão thật sao ? Anh tự hỏi bản thân, anh ta có chút không nhẫn tâm. “Có thể cùng cậu đi hết cuộc đời là vợ cậu, không nhẽ là mẹ cậu sao ?” Con trai của bác Tài thường hay nhắc khẽ anh như thế. “Mẹ cậu đã lớn tuổi như thế, tốt số thì có thể sống thêm vài năm, Tại sao không tranh thủ thời gian đó sống thật hiếu thảo với bà cơ chứ ? Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn phụng dưỡng mà người còn đâu!” Bà con họ hàng thường hay khuyên nhủ anh như vậy. Con trai không muốn suy nghĩ thêm nữa, sợ mình sẽ vì thế mà thay đổi quyết định. Ánh mặt trời tắt dần những tia nắng chói chang và khuất dần sau ngọn đồi, trả lại bầu trời một màn đêm u tịch. Một ngôi nhà quý tộc dành cho người già được xây dựng ở vùng ngoại ô trên đồi núi. Đúng thật, tiền càng chi ra nhiều, con trai càng cảm thấy an lòng. Khi con trai dắt mẹ bước vào đại sảnh, một chiếc ti vi 42 inch mới tinh đang chiếu một bộ phim hài, nhưng người xem nơi ấy không hề nở một nụ cười. Những người già mặc cùng một kiểu áo, tóc tai đều na ná nhau đang ngồi cô quạnh trên chiếc ghế sofa, thần sắc đờ đẫn đến u buồn. Có người thì đang ngồi lẩm bẩm một mình, có người thì đang chầm chậm cúi người xuống muốn nhặt lấy một mẫu bánh vụn đang nằm trên sàn nhà. Con trai biết mẹ thích nơi tươi sáng, vì thế đã chọn cho bà một căn phòng đầy đủ ánh sáng. Từ cửa sổ nhìn ra ngoài, dưới bóng râm là một vườn cỏ thơm ngát. Mấy cô y tá đang đẩy những người già ngồi trên xe lăn, cùng họ tản bộ dưới ánh hoàng hôn, bốn bề tĩnh lặng khiến cho người cảm thấy xót lòng. Dù hoàng hôn có đẹp bao nhiêu, ánh chiều tà rồi cũng dần buông xuống, anh ngậm ngùi tiếc nuối. “Mẹ ơi, con … con phải đi rồi !” Mẹ chỉ biết gậc đầu. Khi anh đi khỏi, đôi tay gầy guộc của mẹ giơ lên vẫy chào anh, miệng không còn một chiếc răng, đôi môi khô tái nhợt muốn lên tiếng gọi với anh, nhưng gọi không thành tiếng, lộ ra một ánh mắt ngập ngừng đậm vẻ u sầu. Lúc này con trai chợt nhận ra mái tóc của mẹ đã bạc dần, đôi mắt sâu thẳm và khuôn mặt xuất hiện nhiều vết chân chim. Mẹ quả thật đã già đi rồi ! Anh chợt hồi tưởng lại một số chuyện ngày xưa. Năm đó anh mới 6 tuổi, mẹ có công chuyện phải về quê, không tiện dắt anh theo, nên đành phải gửi tạm nhà bác Tài vài hôm. Lúc mẹ sắp rời khỏi, anh sợ hãi ôm chặt lấy chân mẹ không chịu buông, khóc thật thê lương và kêu gào trong nước mắt : “Mẹ, mẹ ơi, đừng bỏ con mà đi ! Mẹ đừng có đi mẹ ơi !” Cuối cùng mẹ cũng không bỏ lại anh một mình …… Anh vội rời khỏi phòng, tiện tay đóng cửa phòng lại, không dám ngoáy đầu nhìn lại, anh sợ, sợ cái ký ức ấy hiện về như bóng ma cứ lờn vờn bám lấy anh. Anh về đến nhà, nhìn thấy vợ và mẹ vợ đang hăng tiết vứt bỏ tất cả những vật dụng trong phòng của mẹ với khuôn mặt khoái chí vui mừng. Một chiếc huy chương ----- đó là chiến lợi phẩm đoạt giải nhất trong cuộc thi viết văn hồi tiểu học của anh với chủ đề “MẸ CỦA TÔI” ; Một quyển từ điển Anh – Việt ----- đó là món quà đầu tiên mẹ đã dành dụm tiền chi tiêu cả tháng trời để mua tặng anh ! Và còn nữa, chai dầu gió mẹ phải xoa trước khi đi ngủ, không có anh xoa dầu cho bà, gửi bà đến viện dưỡng lão thì còn ý nghĩa gì nữa kia chứ ? “Đủ rồi, đừng vứt nữa !” Con trai tức giận. “Rác nhiều như thế, không đem vứt đi, thì sao có thể chứa được đồ của tôi.” Mẹ vợ thở hổn hển nói. “Thì đúng rồi đấy ! Anh mau mau đem cái giường cũ nát của mẹ anh khiêng ra ngoài đi, ngày mai tôi sẽ mua cho mẹ tôi một chiếc giường mới !” Một đống ảnh lúc ấu thơ chợt hiện ra trong mắt anh, đó là những tấm ảnh mẹ đã dẫn anh đi sở thú chụp lưu niệm. “Tất cả đều là tài sản của mẹ tôi, một thứ cũng không được bỏ !” “Anh tỏ thái độ gì vậy hả ? Dám lớn tiếng với mẹ tôi ư, tôi bắt anh phải xin lỗi mẹ tôi ngay lập tức !” “Tôi cưới cô là có nghĩa vụ yêu thương mẹ cô? tại sao? Cô lấy tôi thì không thể yêu thương mẹ tôi được sao ?” Cơn mưa sau đêm tối mang một chút hơi lạnh lẽo, đường phố vắng lặng đìu hiu, xe cộ và người đi trên đường thưa thớt dần. Một chiếc xe hơi đang chạy vượt đèn đỏ và phóng qua những biển cấm nguy hiểm, không ngừng tăng tốc phóng nhanh trên đường. Chiếc xe hơi ấy chạy thẳng đến viện dưỡng lão được nằm trên lưng chừng đồi núi, anh ngừng xe và phóng nhanh lên lầu, mở cửa phòng ngủ của mẹ. Anh đứng nhìn bất động, mẹ đang lấy tay xoa đôi chân phong thấp của mình âm thầm khóc trong đêm. Bà nhìn thấy con trai đang cầm trên tay chai dầu gió, cảm thấy an ủi và nói : “Mẹ quên lấy đi, cũng may con mang đến cho mẹ !” Anh bước vội đến bên mẹ và quỳ xuống. “Tối rồi, tự mình mẹ có thể xoa được mà, ngày mai con còn phải đi làm, hãy về nhà đi !” Anh ngập ngừng một hồi lâu, nhưng cuối cùng không nhịn được khóc và nói : “Mẹ ơi, con xin lỗi, xin.......... lỗi........"
Chẳng bao lâu, khi có một bé trai bụ bẫm ra đời, bé Quyên như một người thừa trong căn nhà nhỏ đầy tiếng cười và tiếng khóc. Chị tôi ốm nặng rồi qua đời khi bé Quyên vừa tròn một tháng tuổi. Bé bị mù bẩm sinh. Anh rể tôi vừa làm cha vừa làm bà vú. Nhìn cảnh gà trống nuôi con, ai cũng ái ngại, khuyên anh nên đi thêm bước nữa để có người chăm sóc bé Quyên. Những lúc ấy anh chỉ lặng lẽ cố giấu tiếng thở dài não nuột, trong thâm tâm anh nghĩ: "Tìm được người vợ cho mình thì dễ chứ tìm được một người mẹ tốt cho con mình thì khó lắm”. Nhưng rồi thời gian cũng qua đi, khi vòng khăn tang trắng trên đầu đã được quấn thành tro, anh tôi đi cưới một người đàn bà khác. Ban đầu người vợ mới của anh tôi rất yêu thương bé Quyên, chăm sóc nó như một người mẹ thực sự. Nhưng chẳng được bao lâu, khi có một đứa bé trai bụ bẫm ra đời thì bé Quyên như một người thừa trong căn nhà nhỏ đầy tiếng cười và tiếng khóc. Khi chị tôi qua đời, anh tôi đi bước nữa, cô bé trở thành người thừa lúc nào không hay Anh tôi suốt ngày bận bịu với “cục cưng nối dõi” của mình, không ai còn để ý đến con bé mù đó nữa. Bé Quyên chưa biết buồn, nó lủi thủi chơi một mình ở góc vườn hay một xó xỉnh nào đó. Nó bị người mẹ kế cấm không được đến gần em bé, làm bạn với nó chỉ có chú chó con mà ba nó mới xin về. Có một hôm, con bé đang chơi thì chợt nghe tiếng thét của thằng em, nó quên lời cấm, hối hả vào nhà định dỗ em. Nhưng khi tay nó vừa chạm vào chiếc nôi thì người mẹ kế từ ngoài chạy vào giáng cho nó một cái tát nảy lửa. - Đồ quỷ, mày làm gì con trai tao thế? Mày định giết nó hả? Đã mù rồi còn ác ! Muốn đi theo con mẹ mày phải không? Phải không? Cứ mỗi tiếng “phải không” là người mẹ kế lại dúi đầu con bé vào tường. Bé Quyên vừa đau vừa hoảng sợ, nó quỳ phục dưới đất nức nở van xin: - Má ơi, xin đừng đánh con, con không hại em, không phải, không phải mà. Nhưng người mẹ kế không tin lời nó nói. Và hôm đó, con bé được một trận đòn để nhớ đời. Cũng từ hôm đó, bé Quyên biết buồn, nó thường hay khóc một mình. Một thời gian sau, thằng bé tập tễnh biết đi. Nó lớn nhanh như Gióng và hồn nhiên như một chú chim chích. Người mẹ kế “cảnh giác”, “kiểm soát” chặt chẽ không cho thằng bé chơi với Quyên nhưng không làm sao ngăn cấm được trẻ thơ đang ở độ tuổi “tò mò” nên người mẹ kế đành phải quay sang gắt gỏng, cau có với con bé. Bé Quyên không sợ bị đánh đòn, vì nó đã quá quen thuộc. Nó chỉ sợ không được trò chuyện cùng em bé, hai chị em nó thường dắt nhau ra góc vườn, nơi có một khóm hoa mẫu đơn cao phủ kín, trốn chơi ở đó. Người mẹ kế lâu dần không hấy bé Quyên hại con mình nên thả “tự do” cho hai đứa nhỏ. Anh tôi mỗi khi đi làm về đều có quà bánh cho cậu con trai. Vì thế cứ chiều đến, cậu bé thường hay dắt chị ra đầu ngõ đợi ba về. Thoáng thấy bóng anh tôi, cậu bé ào tới reo lên tíu tít: - A! Ba đã về. Anh tôi nhấc bổng cậu bé, vờn lên đầu nựng: - Hà, hà! Con trai cưng của ba ngoan quá. Nào cho ba thơm một cái đi nào. Cậu bé sung sướng cười như nắc nẻ. Bé Quyên bị bỏ quên, lẳng lặng lảng đi chỗ khác. Đôi vai gầy của nó rung lên, hình như nó khóc. Ngày tiếp ngày, cảnh tượng ấy diễn ra đều đặn. Con bé càng trở nên ít nói và gầy đi như một chiếc lá khô. Anh tôi vẫn vô tình không thấy. Đến một hôm anh tôi đi làm về bỗng dưng lên cơn sốt. Bé Quyên hốt hoảng lần đường sang gọi ông Năm – người thầy thuốc ở nhà bên cạnh. Lúc về nó đến bên bố, giọng thảng thốt lo lắng: - Ba ơi! Ba có làm sao không ? Đừng chết nghe ba! Ông Năm tìm đôi kính rồi sẽ mang thuốc sang cho ba ngay thôi mà. Con bé có vẻ bồn chồn lại hỏi: - Nhưng mà sao ông Năm không đi liền mà còn phải đi tìm kính làm gì vậy hở ba? - Thì để cho ông nhìn thấy đường mà – Anh tôi mệt nhọc trả lời cho qua chuyện. Không ngờ bé Quyên chộp lấy đôi bàn tay anh, giọng nó vừa run vừa hớn hở: - Ba ơi! Con cũng cần có một đôi kính như của ông Năm vậy. Ba mua cho con nghe ba? - Còn cần cái đó để làm gì ? – Anh tôi ngạc nhiên hỏi. Bé Quyên sợ ba từ chối, oà khóc: - Ba ơi, con có nhìn thấy gì đâu. Con muốn được sáng mắt để nhìn thấy ba, nhìn thấy em tí thôi mà. Anh tôi nghe như có một cái gì trỗi dậy, nhói lên trong lồng ngực, không biết giải thích sao cho con bé hiểu được. Anh đành giấu người trong tấm chăn, nước mắt giàn giụa... Cảm ơn con đã đến trong cuộc đời này Hôm sau trước cửa nhà chỉ có mình cậu bé đứng đợi ba về. Anh tôi không thấy bé Quyên, nét mặt biến sắc: "Chị con đâu?”. Cậu bé phụng phịu chỉ tay về phía khóm hoa mẫu đơn góc vườn. Anh tôi bế con trai đến đặt bên bé Quyên, âu yếm hôn lên hai mái đầu thơ dại, giọng anh trìu mến lạ: - Hai đứa con yêu quý của ba! Bé Quyên bỗng quàng lấy cổ anh tôi, mếu máo. - Ba ơi! Con đã có ba rồi. Con không cần đôi kính mắt nữa. Anh tôi sững sờ ôm con vào lòng. Anh khóc, khóc nức nở, khóc như chưa bao giờ được khóc. Anh thấy như lương tâm đang hỉ tội. Anh biết vì sao bé Quyên không cần có đôi kính mắt nữa, mặc dù mới hôm qua đây nó thiết tha nài nỉ. Con bé chưa ý thức được nỗi bất hạnh của cuộc đời, trước mắt nó là một màn đên dày đặc. Nhưng nó đã ý thức được cuộc sống, đã nhìn thấy tình yêu thương quý hơn tất cả. Và với nó, tình thương còn quý hơn ánh sáng. Anh tôi không gờ được rằng khi đã trở thành một kĩ sư nổi tiếng, anh lại được một bài học ở chính đứa con gái mù bé bỏng của mình, một bài học giản đơn về cách cư xử, nhưng đó là đạo lí của con người . Nhìn bé Quyên qua làn nước mắt, anh tôi nói: - Chính ba mới thật là một kẻ mù. Cám ơn con! Cám ơn con đã cho ba ánh sáng
Đừng ôm lấy gánh nặng một mình. Hãy để niềm vui được nhân lên và nỗi buồn vợi bớt đi khi suy nghĩ lạc quan và san sẻ với những ai bạn tin tưởng nhé! 1. Con lừa và con la Trong một chuyến đi, người chăn gia súc có một con lừa và một con la, cả hai đương nhiên đều chở đồ khỏe. Trong suốt đoạn đường ở đồng bằng, con lừa có thể thồ đồ đạc một cách dễ dàng, nhưng khi bắt đầu đến đoạn đường núi, nó cảm thấy quá sức và không thể chịu được nữa. Con lừa khẩn khoản nhờ bạn đồng hành của mình - con la - thồ bớt một chút đồ. Việc này rất đơn giản, nhưng con la không thèm để ý đến lời nài xin đó. Con lừa ngã quỵ mà chết chẳng bao lâu sau đó. Giữa nơi xa lạ, hoang vu, người chăn gia súc đành chất tất cả đồ đạc mà con lừa mang lên mình con la. Nó rên rỉ bên dưới đống đồ to, nặng: “Mình đang bị đối xử như chính cách mình đã làm. Giá mình chịu giúp lừa một chút thôi, thì giờ đã không phải mang lấy tất cả gánh nặng này”. 2. Chiếc hộp màu đen và chiếc hộp màu vàng Chúa trời cho tôi hai chiếc hộp, một đen một vàng, bảo tôi giữ lấy chúng. Ngài dặn: “Hãy đặt tất cả nỗi buồn của con vào hộp màu đen và tất cả niềm vui vào cái màu vàng”. Tôi lưu ý mỗi lời chúa dạy và đặt niềm vui, nỗi buồn của mình vào trong hai chiếc hộp. Nhưng chiếc hộp màu vàng thì ngày càng nặng hơn, còn chiếc hộp màu đên thì vẫn nhẹ như ban đầu. Vốn tính tò mò, tôi mở chiếc hộp màu đen ra xem và phát hiện dưới đáy hộp có một lỗ hổng lớn, từ đó nỗi buồn rơi đi hết. Tôi chỉ cho Chúa xem cái lỗ và trầm ngâm: “Con tự hỏi nỗi buồn của con đã biến đi đâu...”. Ngài cười nhân từ “chúng đều ở chỗ ta”. Tôi hỏi: “Sao ngài lại cho con một chiếc hộp vàng với một chiếc hộp đen có lỗ hổng ạ?”. - “Chiếc hộp màu vàng là để con chất đầy những niềm vui, còn chiếc màu đen là để con quẳng nỗi buồn đi”.
Tại sao đàn ông không thể dễ dàng nói lời yêu như phụ nữ? Tại sao cứ xong “chuyện ấy” là anh ấy quay lưng lại ngủ? Và còn không ít câu hỏi "tại sao" phụ nữ đặt ra với nam giới sẽ được giải đáp trong phạm vi bài viết này. 1. Cứ động đến nói yêu là anh ấy cứng lưỡi 1. Cứ động đến nói yêu là anh ấy cứng lưỡi Phụ nữ không gặp vấn đề gì nếu phải nói 3 tiếng “em yêu anh”. Nhưng với đàn ông, thốt ra câu này cực khó. Tất cả đều do não bộ, đó là nhận xét của Scott Haltzman, tác giả cuốn “Bí mật của người phụ nữ hạnh phúc trong hôn nhân” (The Secrets of Happily Married Women). Phụ nữ giỏi hơn nam giới trong việc diễn tả cảm xúc bằng lời, nguyên nhân là so với nam giới, họ có phần đường rãnh giữa hai bán cầu não phát triển hơn, nhờ đó họ có thể kết hợp thông tin từ não trái (nơi ngôn ngữ được xử lý) với bán cầu não phải (thiên về trực giác) tốt hơn. Đàn ông gặp khó khăn trong việc điều khiển não phải “nói chuyện” với não trái, nên khó lòng tiếp cận cả ngôn ngữ và cảm xúc cùng một lúc. Vì lẽ đó, họ không dễ diễn đạt tình yêu bằng lời mà tránh được cảm thấy khiên cưỡng, giả tạo. Song điều này không có nghĩa người đàn ông của bạn sẽ không bộc lộ cảm xúc, anh ấy chỉ làm theo một cách khác thôi. Khi đàn ông nấu ăn cho bạn, massage cho bạn, thì có nghĩa là anh ấy đang bộc lộ rằng rất yêu bạn đấy. 2. Anh ấy không chỉ ngồi nghe Nếu bạn có chuyện cần kể lể với bạn thân, cô ấy sẽ gác lại tất cả chỉ để nghe bạn nói, rồi cô ấy hỏi “cậu có ổn không?”. Còn anh ấy, sẽ nghe bạn phàn nàn rồi cố giải thích lý do tại sao mà mọi chuyện tệ thế. Có sự khác biệt trong cách xử lý stress của đàn ông và đàn bà. Đối với phụ nữ, nói chuyện có thể kích thích sản sinh chất serotonin giúp não giải tỏa, cô ấy chỉ đơn giản là nói cũng sẽ thấy khá hơn nhiều. Còn đàn ông, cơn stress tác động đến trung tâm hành động của não, và anh ấy có xu hướng tập trung vào thực hiện hành động để cải tạo tình hình. Song nếu bạn nói với nửa kia rằng “giải pháp chính là chỉ lắng nghe thôi”, thì anh ấy có thể thư giãn, không cần phải đi tìm kiếm giải pháp nữa và tập trung hoàn toàn vào việc lắng nghe bạn, có khi còn biết cảm thông nữa”. 3. Sao anh ấy thấy giày cao gót sexy? Một nghiên cứu đã cho thấy, những đôi chân dài hơn khoảng 5% so với chiều dài trung bình là hấp dẫn nhất. Và với hầu hết phụ nữ, một đôi giày cao 1.5 - 3 inch (1 inch = 2,54 cm) sẽ giúp đôi chân họ đạt đến độ dài lý tưởng này. Sức hấp dẫn của chân dài có thể do tiến hóa, bởi đôi chân dài liên quan đến sức khỏe tốt. 4. Sao anh ấy vẫn ngó nghiêng phụ nữ khác? Một người đàn ông hay ngắm phụ nữ khác không có nghĩa anh ấy không yêu cô gái của mình. Đó đơn giản là do cấu tạo sinh học. Bộ não đàn ông được hình thành để ngắm nhìn vóc dáng phụ nữ, đấy cũng là lý do tại sao những tấm hình gợi cảm có ảnh hưởng đến họ rất nhiều. Một lưu ý thú vị là, ở những nơi công cộng như bãi tắm hay bể bơi, các nghiên cứu đã cho thấy phụ nữ còn “ngó nghiêng” nhiều hơn đàn ông. Có điều, họ được tạo hóa ban cho chu vi khoảng nhìn lớn hơn nên ít bị bắt quả tang hơn, trong khi đàn ông cứ phải ngoái cổ theo mà nhìn và rơi vào trạng thái gần như bị thôi miên vậy. 5. Sao anh ấy ngủ ngay sau “chuyện ấy” Sau khi tới đỉnh, cả đàn ông và đàn bà đều giải phóng các chất oxytocin, prolactin, gama amino butyric acid (GABA) và endorphins. Mỗi chất này đều tham gia gây cảm giác muốn “quay lưng lại ngủ”. Song nếu cả hai giới đều giải phóng cùng các hormone cực khoái, tại sao đàn ông lại dễ ngủ hơn? Có vẻ như vì phụ nữ không thường xuyên đạt cực khoái, vì thế không thường xuyên giải phóng các hormone khiến mi mắt cụp xuống này. DânTrí
nick mới reg, dự là spam để đủ bài tham gia box nào đó, nhưng chỉ đơn giản là copy bài và post vào đây mà không nghiên cứu kỹ, kiến nghị mod nên cho "nghỉ dưỡng" một thời gian để chủ thớt ngâm cứu gamevn cho tới nơi tới chốn !
Nhớ, mình chỉ có một trái tim thôi, nên hãy thật yêu quý và giữ gìn nhé! Mỗi người sinh ra đều mang trong mình một trái tim. Ai cũng vậy thôi. Vậy mà lớn lên, trái tim điều khiển mỗi người theo mỗi hướng khác nhau, kẻ ác, người hiền. Cũng như ai, tớ cũng có một trái tim thôi nhé. Tớ lớn lên theo nhịp đập của trái tim mình, lúc bình lặng, yên ả, lúc thì dồn dập, mạnh mẽ. Khẽ thôi, bật mí cho cậu điều này, cũng như máy vi tính, tim tớ chứa rất nhiều thư mục đấy. Cậu muốn biết không? Thư mục đầu tiên tên là quê hương. Khắc vào tim tớ hình ảnh cánh đồng, ruộng lúa, con đò… có cả những điệu hò, những lời ru êm ả. Có con cua, con ốc, có bầy gà con nữa đấy. À, đó là quê gốc của tớ và những dấu ấn trong hai năm tớ về quê học. Còn quê hương hiện tại của tớ thì không thơ mộng như thế nhưng đầy ắp kỷ niệm đáng nhớ với bạn bè tớ và cả mối tình đầu lúc ấy chưa chính thức, và hiện tại đó là nơi tớ thường xuyên về vì mối tình đầu của tớ đang sống và làm việc ở đó. Quê hương mình ngày ấy, bây giờ và mãi mãi. Mai này, dù tớ, và cậu, hay bất cứ ai có đi đến nơi xa xôi nào đó, xin một chút, một chút thôi, hãy thật nhớ hai từ “quê hương”. Thư mục tên gia đình. Gia đình với ba mẹ, ông bà, anh chị em. Hình ảnh ba vất vả mưu sinh cho cuộc sống hằng ngày. Hình ảnh mẹ lo lắng khi tớ bị sốt vào lúc khuya. Hình ảnh tớ đánh nhau với em trai chỉ vì em ấy chọc con cún bông của tớ - con cún mà bạn trai tớ tặng trong ngày sinh nhật... Tớ sẽ không quên đâu cậu, bởi đó là gia đình... Gia đình, đâu nhất thiết phải là người thân ruột thịt. Gia đình cũng là những con người cùng thương yêu và đùm bọc lẫn nhau. Gia đình là khi tớ bật khóc khi em bé ở làng trẻ SOS gọi tớ là “chị hai”. Nhớ, gia đình là nơi cho mình nương tựa, là tất cả yêu thương là che chở lẫn nhau bởi tình cảm chân thành và thiêng liêng nhất, nhe cậu. Có một thư mục mang tên bạn bè. Lúc tớ vui, cũng như khi tớ buồn, bên cạnh tớ luôn luôn có những người bạn tốt. Tớ nhớ, khi tớ cùng lũ bạn thả diều trên bãi ruộng mùa khô, cùng lội và nghịch nước năm cuối cấp hai. Tớ nhớ, lúc tớ và lũ bạn lấm la lấm lét trốn tiết để về sớm. Tớ hiểu, không phải nhiều bạn là tốt, tốt nhất là nên nhận biết rõ, ai là bạn tốt của mình. Nhớ điều này nhé cậu, những người bạn tốt sẽ luôn ở cạnh khi cậu khó khăn, hay khi cậu vấp ngã. Thế nên, dù cuộc sống có đưa đẩy, có bạc bẽo, dù con người có phũ phàng, tớ hứa, và cậu cũng hứa đi nhé, mình sẽ là bạn tốt của nhiều người dù nhiều người không xem tớ là bạn tốt. Còn một thư mục rất ư nặng, tên là cuộc sống. Kể từ khi nhận thức được mình đang sống, thế nào là sống, thì cuộc sống cũng dạy tớ nhiều điều. Nó dạy tớ thế nào là vui, là buồn, thế nào là cười, là khóc. Cuộc sống cho tớ những lời khuyên khi tớ chán nản. Cho tớ niềm tin, ước mơ, và hi vọng. Vì tớ đã “lỡ” sống, nên tớ sẽ tập quen dần với những qui luật của tự nhiên. Không khó cũng chẳng dễ, chỉ cần tớ và cậu cố gắng và kiên trì, phấn đấu vì ước mơ của mình, cuộc sống sẽ luôn mỉm cười với mình đấy, tin nhe cậu! Thư mục cuối mà tim tớ chứa được có tên là tình yêu. Tớ đã yêu một người, và yêu hết lòng. Mối tình đầu không phải là đẹp, nhưng khó quên. Tình yêu dạy tớ thế nào là nỗi đau, là nghẹn ngào... dạy tớ cách nhường nhịn, cách cư xử, những bài học giúp tớ trưởng thành. Tim đau khi tớ chia tay mối tình đầu. Tim khóc khi nước mắt tớ trào ra. Tim mang nhiều vết thương, và đã có nhiều vết sẹo… Nhưng tớ biết, rồi tớ sẽ lại yêu, sẽ không ngần ngại và sợ sệt. Tớ lại yêu hết lòng cho một người mà tớ gửi gắm yêu thương. Cậu hãy cứ tin, tớ sẽ tìm được hạnh phúc của đời mình ở một người nào đó, một nơi nào đó mà bây giờ tớ cũng chưa rõ. Tớ muốn thay đổi chính mình, tớ muốn đổi màu cuộc sống. Tớ rất hay cài lại Windows trên máy tính. Thế nên lần này, tớ sẽ tìm phần mềm để cài lại tim mình, được không cậu? Cài lại tim, tớ giữ lại những tập tin có hình ảnh quê hương, gia đình, hình ảnh bạn bè và cuộc sống. Tớ biết, mỗi người chỉ có một trái tim, chỉ sống một lần, và chỉ có một cơ hội để yêu thương. Dù có thêm một lần được sống, thì những hình ảnh ấy mãi mãi là vô giá, và không bao giờ tìm lại được. Vậy nên, tớ giữ lại nhé. Những thư mục ấy, tớ giữ lại và đặt vào một nơi thật an toàn. Mong cậu và tớ đừng sơ ý mà xóa thư mục ấy, mình sẽ hối hận lắm đấy cậu. Cài lại trái tim, tớ không xóa hình ảnh những giọt nước mắt, những đau buồn, tổn thương và những kỉ niệm của tình yêu. Không xóa đâu cậu ạ, vì những kỉ niệm ấy đã dạy tớ lớn lên. Tớ sẽ không quên và cũng không thể khuyên cậu quên. Tớ sẽ làm nó thành một tập tin ẩn, không phải ẩn trong máy vi tính đâu nhé, mà là ẩn trong tim tớ. Tập tin ấy vẫn tồn tại, chỉ có điều nó sẽ ẩn đi một thời gian mà thôi. Mong một dịp tình cờ nào đó, mở tập tin đó ra, và tớ sẽ nhớ về nó như một kỉ niệm đẹp và đáng trân trọng. Thế nên, tớ sẽ giữ lại tất cả. Bây giờ, tớ đang tìm nhiều phần mềm để cài lại trái tim mình. Có những phần mềm trước đây, tớ sẽ giữ lại. Tớ cũng muốn cài thêm nhiều phần mềm mới, những phần mềm chứa đựng niềm hăng say học tập, mơ ước tương lai, chứa nhiều sự mới lạ và đổi thay. Giờ tớ mới nhận ra, vì tim tớ vẫn còn đập, nên tớ sẽ mãi tìm kiếm phần mềm và cài vào trái tim mình. Và việc ấy sẽ dừng lại khi tim tớ ngừng đập mà thôi. Cài lại trái tim… Tớ chỉ cậu cách cài vào mình thêm niềm tin, thêm lòng dũng cảm, và thêm mơ ước. Nếu cậu muốn, thì hãy cài lại theo cách tớ đã làm nhé. Đừng làm khác đấy. Nhớ, mình chỉ có một trái tim thôi, nên hãy thật yêu quý và giữ gìn nhé!
Sơn cười lên thành tiếng đầy chua chát. Sơn nguyền rủa bản thân ngày trước đã tàn nhẫn với giọt máu của chính mình, để giờ đây mọi thứ trở thành luật nhân quả giáng xuống cuộc đời anh. Sơn từng là một chàng trai đào hoa và vô trách nhiệm với tình yêu. Ngày còn trẻ, anh tán tỉnh nhiều cô và cũng nhận về mình nhiều sự “hiến dâng”. Nhưng tất cả chỉ như gió thổi mặt hồ. Với Sơn đó chỉ là những cuộc “vui chơi qua đường” chứ không phải là tình yêu. Sơn thường tặc lưỡi: “Mỡ đến miệng mèo, chả dại gì không hưởng”. Vả lại, anh chẳng hứa hẹn điều gì với họ, đấy là họ tự cho rằng có thể ràng buộc Sơn bằng việc đó mà thôi. Hơn một năm trước, Sơn đã từng đưa một đống tiền cho Dung – người con gái yêu anh và trao cho anh tất cả, để yêu cầu cô từ bỏ cái bào thai đang lớn dần trong bụng. Với Sơn việc “ăn bánh” phải “trả tiền” là hết nghĩa vụ. Rồi Sơn gặp và yêu Nghi. Chưa bao giờ Sơn có cảm giác cần người khác đến như thế. Ngày nào không có Nghi, Sơn như người phát điên, chẳng làm được việc gì. Lần đầu tiên Sơn hiểu thế nào là tình yêu. Những lần trước, dù có chọn một cô nào đó làm bạn gái đi chăng nữa Sơn cũng phải hẹn hò, gặp gỡ thậm chí là “yêu đương” vài cô một lúc. Lần này thì khác hẳn, xung quanh Sơn có rất nhiều cô đeo bám nhưng anh tuyệt nhiên không có ý muốn “bắt cá hai tay”. Lần đầu tiên Sơn cảm thấy lo sợ về cái quá khứ “oanh liệt” của mình sẽ khiến Nghi không chấp nhận anh. Sơn không còn để ý tới bất kì người con gái nào khác ngoài Nghi. Mọi việc xảy ra trong cuộc sống của cô đều là mối bận tâm của anh. Cô chỉ ho vài cái là tim anh thắt lại, Nghi chỉ ốm vài hôm là Sơn gần như phát điên lên vì lo lắng. Sơn tự nhủ với lòng mình: “Từ giờ trở đi anh sẽ là một người đàn ông tử tế để xứng với em và để được yêu em”. Sơn không giấu giếm Nghi điều gì, anh khai thật hết tất cả những lỗi lầm của mình. Nghi nói cô cần suy nghĩ. Hơn một tháng sau Nghi mới tìm gặp Sơn, cô nói sẽ chấp nhận anh vì anh của ngày hôm nay đã thay đổi và mọi thứ là quá khứ, khi mà chưa có cô. Sơn hạnh phúc tới chảy nước mắt khi được Nghi tha thứ. Một đám cưới rình rang được diễn ra, Sơn cảm thấy vỡ òa sung sướng vì cuối cùng anh cũng lấy được người con gái anh yêu. Cuộc sống của hai vợ chồng diễn ra thật ngọt ngào. Quá yêu thương vợ nên lúc nào Sơn cũng làm tốt vai trò của một người chồng. Nghi cũng là người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Cả Sơn và Nghi đều hài lòng với cuộc hôn nhân của mình và đang háo hức chờ đợi “quả ngọt” ra đời từ tình yêu của họ. Nhưng rồi hơn một năm qua đi không có gì thay đổi, trong thâm tâm của cả Sơn và Nghi đều có chút lo lắng. Nhưng cả hai đều sợ tổn thương đối phương nên chẳng ai dám nhắc tới chuyện đó. Năm thứ hai sau đám cưới lại qua đi, nỗi thèm khát có tiếng trẻ bi bô trong nhà càng lớn hơn bao giờ hết. Quyết định giải quyết vấn đề, vợ chồng Sơn đi khám. Cầm tớ kết quả trên tay, Sơn chẳng thể nào khóc nổi. Nghi không thể có con, đó là kết luận của bác sĩ. Biết chuyện, Nghi gào khóc, cô mắng mình là người đàn bà vô phúc mới không thể sinh con. Nghi yêu cầu Sơn ly dị để anh đi tìm hạnh phúc khác. Sơn ôm vợ vào lòng, cả hai cùng khóc lên nức nở. Sơn yêu vợ, yêu nhiều lắm, yêu hết tất cả mọi thứ, làm sao anh có thể bỏ mặc người vợ của mình mà đi tìm niềm vui khác. Nhưng khát khao, mong mỏi được có một đứa con sẽ mãi mãi là điều mà người đàn ông nào cũng muốn. Ngồi một mình trong căn phòng, Sơn cười lên thành tiếng đầy chua chát. Chính anh đã tạo nên nghiệp chướng này khi đã tự mình bỏ đi những giọt máu thiêng liêng, để giờ đây, luật nhân quả buộc anh phải trải qua nỗi đau đớn này. Sơn chỉ biết rằng, sẽ không bao giờ anh bỏ Nghi… Góc tâm sự .com