Lịch sử bị bóp méo, luật pháp bị bẻ cong Đỗ Thị Thu Hiền - Đỗ Thanh Hải Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao 28/11/2025 15:48 GMT+7 Vừa qua, Viện Nghiên cứu Tân Hoa xã (thuộc Hãng Thông tấn Tân Hoa, Trung Quốc) công bố báo cáo dài 33 trang với tiêu đề 'Cơ sở lịch sử và pháp lý của chủ quyền lãnh thổ và các quyền trên biển của Trung Quốc ở Biển Đông'. Viện này khẳng định đây là báo cáo "đánh giá lịch sử - pháp lý toàn diện", giúp củng cố lập trường của Trung Quốc trên Biển Đông. Tuy nhiên, đằng sau lớp vỏ bọc "khoa học", văn bản này đơn thuần là một sản phẩm chính trị, chứa đựng nhiều ngụy biện lịch sử và cách diễn giải và áp dụng luật pháp tùy tiện. Bài viết tập trung thảo luận cách tiếp cận và các luận điểm chính của báo cáo trên, đánh giá phương pháp, lập luận pháp lý và cứ liệu lịch sử đã sử dụng. Mặc dù đã cố "gạn đục khơi trong" nhưng trong 33 trang tài liệu hầu như không có gì mới ngoài lập luận về trật tự thế giới sau Thế chiến 2. Hầu hết nội dung của "cái gọi là báo cáo" đi theo lối mòn, lặp lại những luận điệu xưa cũ để cố tình biện minh cho nhận thức sai trái về chủ quyền. Trong bối cảnh tranh chấp Biển Đông diễn biến phức tạp trên cả thực địa và truyền thông, việc bảo vệ tính khách quan của lịch sử và tính chính trực của luật pháp quốc tế càng trở nên cấp thiết. Các công trình Trung Quốc xây dựng trái phép tại bãi Ga Ven (Trường Sa) của Việt NamẢNH: MAI THANH HẢI Ngộ nhận về trật tự thế giới hậu Thế chiến 2 Luận điểm cho rằng trật tự quốc tế hậu Thế chiến 2 đã "rõ ràng khẳng định" Nam Hải Chư Đảo thuộc về Trung Quốc là một cách diễn giải sai lệch Tuyên bố Cairo (1943), Tuyên bố Potsdam (1945), hay Hiệp ước San Francisco (1951). Thực tế, không có văn bản pháp lý quốc tế nào nêu rõ quần đảo Trường Sa hoặc Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Nansha Qundao và Xisha Qundao) là lãnh thổ mặc nhiên của Trung Quốc. Tuyên bố Cairo và Potsdam chỉ nhấn mạnh việc Nhật Bản phải trả lại "những lãnh thổ mà nước này đã chiếm từ Trung Quốc", bao gồm Đài Loan, Mãn Châu và Bành Hồ, không hề liệt kê hay ám chỉ đến Trường Sa hay Hoàng Sa. Việc Trung Quốc viện dẫn Tuyên bố Cairo hay Potsdam như bằng chứng về chủ quyền lãnh thổ là ngụy biện về phạm vi hiệu lực, bởi các tuyên bố này không có giá trị ràng buộc pháp lý như một hiệp định đa phương (không được ký kết và phê chuẩn bởi các bên tranh chấp sau này), và càng không thể thay thế quy trình phân định chủ quyền theo luật quốc tế hiện đại. Cũng theo lập luận, có thể suy diễn việc nhắc đến trả lại Đài Loan, Mãn Châu và Bành Hồ cho Trung Quốc mà không nhắc đến Hoàng Sa và Trường Sa cho thấy hai lãnh thổ này không thuộc về Trung Quốc. Thêm vào đó, Trung Quốc không được mời tham dự Hội nghị San Francisco 1951, nơi các điều khoản chính thức về lãnh thổ sau chiến tranh được đàm phán và ký kết. Hiệp ước San Francisco chỉ quy định Nhật Bản từ bỏ các yêu sách đối với Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng không xác lập việc chuyển giao chủ quyền các quần đảo này cho bất kỳ quốc gia nào. Chính khoảng trống pháp lý này đã tạo điều kiện để các bên liên quan đưa ra yêu sách của riêng mình, vì vậy cần được xem xét và phân xử dựa trên chuẩn mực luật pháp quốc tế, chứ không thể giải thích đơn phương. Tại Hội nghị San Francisco, đại biểu VN đã khẳng định chủ quyền đối Hoàng Sa, Trường Sa, và không có ý kiến nào phản đối. Cùng trong dòng quan điểm này, lập luận về "công nhận quốc tế" dựa trên việc các nước sử dụng bản đồ có tên Trung Quốc hoặc quân đội Mỹ hỗ trợ tàu Trung Quốc thăm dò đảo là không đủ để chứng minh tính pháp lý của chủ quyền. Trong luật quốc tế, công nhận chủ quyền lãnh thổ không thể suy diễn từ hành vi ngẫu nhiên hay thực dụng, mà phải là hành vi rõ ràng, liên tục, và không bị phản đối, điều đã không hề tồn tại ở Biển Đông trong giai đoạn từ 1950 đến nay, khi các quốc gia như VN, sau đó là Philippines, Malaysia... đều có phản ứng hoặc chiếm hữu thực tế trên thực địa. Các công trình do Trung Quốc xây dựng trái phép trên bãi đá Gạc MaẢNH: MAI THANH HẢI "Đổi trắng, thay đen" Trong Chương 2 của báo cáo, Tân Hoa xã cáo buộc một số quốc gia đã "leo thang tranh chấp Biển Đông", "chiếm đóng trái phép các đảo, đá", và "khai thác tài nguyên trái phép" trong vùng biển thuộc cái gọi là "chủ quyền lịch sử" của Trung Quốc. Tuy nhiên, lập luận này vừa bỏ qua tính chất tranh chấp pháp lý của khu vực, vừa lờ đi thực tiễn lịch sử và pháp lý quốc tế, đặc biệt là hoạt động chiếm hữu và quản lý liên tục và hợp pháp của VN tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trái với những gì báo cáo mô tả, VN đã thiết lập và duy trì sự hiện diện hành chính, quân sự và dân sự tại Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục, hòa bình từ thế kỷ 17, dưới thời các chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn và triều đình nhà Nguyễn, được tiếp nối bởi các chính quyền hiện đại. Trong giai đoạn Pháp bảo hộ, chính quyền Đông Dương (đại diện cho VN) tiếp tục thực hiện các hoạt động quản lý như dựng bia chủ quyền, xây dựng hải đăng, và duy trì lực lượng thường trực. Hành vi này được ghi nhận trong các tài liệu hành chính, bản đồ và tư liệu quốc tế. Sau Thế chiến 2, người Pháp đại diện cho chính quyền Đông Dương cử người tiếp quản các đảo khi quân Nhật rút. Sau 1954, người VN tiếp tục quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tổ chức bầu cử tại đây, xây dựng cơ sở hạ tầng và duy trì đội đồn trú. Đặc biệt, trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 chống lại sự xâm lược của lực lượng Trung Quốc thể hiện rõ quan điểm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc VN lúc bấy giờ. Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam VN và sau đó là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN đều tuyên bố tiếp nối và khẳng định lại chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa và Trường Sa, phần lãnh thổ không thể tách rời của VN. Mặt khác, các hoạt động thăm dò và khai thác tài nguyên biển của VN đều nằm trong Vùng Đặc quyền kinh tế (EEZ) và Thềm lục địa 200 hải lý, được xác lập theo đúng quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982 mà cả VN và Trung Quốc đều là thành viên. Do đó, việc Trung Quốc sử dụng yêu sách "Đường 9 đoạn" phi pháp để phản đối các hoạt động này là hành vi vi phạm luật pháp quốc tế. Các hành vi tương tự đã bị Phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016 bác bỏ. Những cáo buộc cho rằng VN "khiêu khích", "vi phạm" hay "hợp tác với bên ngoài để gây rối" không chỉ thiếu căn cứ mà còn thể hiện "sự thiếu trách nhiệm" trong bối cảnh tranh chấp phức tạp. Trên thực tế, cần nhìn nhận một cách khách quan rằng chính sự mở rộng hiện diện quân sự và cải tạo đảo quy mô lớn của Trung Quốc mới là yếu tố gây bất ổn nghiêm trọng tại Biển Đông, chứ không phải những hành động bảo vệ chủ quyền hợp pháp của VN trong phạm vi luật pháp quốc tế cho phép. Biên đội tàu hải tuần của Trung Quốc tuần tra quanh bãi Chữ Thập, chặn các tàu không phải của Trung QuốcẢNH: MAI THANH HẢI Ngụy biện pháp lý, bóp méo sử liệu Trong Chương 3 và 4 của báo cáo Tân Hoa xã, Trung Quốc khẳng định rằng họ có chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên "phát hiện sớm", "đặt tên", "quản lý hành chính" và "quyền lịch sử" từ thời "cổ đại". Tuy nhiên, lập luận này không đáp ứng được tiêu chuẩn pháp lý quốc tế hiện hành về thụ đắc lãnh thổ, đồng thời mắc phải nhiều lỗi suy diễn lịch sử và ngụy biện pháp lý. Trước hết, luật pháp quốc tế hiện đại không công nhận hành vi "phát hiện" đơn thuần là cơ sở độc lập để thiết lập chủ quyền, trừ khi hoạt động này đi kèm với chiếm hữu thực tế, liên tục, hòa bình và có yếu tố quản lý nhà nước rõ ràng. Các tư liệu Trung Quốc viện dẫn như bản đồ cổ, nhật ký hành trình hay tên gọi dân gian không chứng minh được hành vi kiểm soát hành chính thực tế, và càng không thể hiện yếu tố "effectivités" theo chuẩn mực mà Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) đã áp dụng trong nhiều án lệ (ví dụ: Minquiers and Ecrehos, 1953; Pedra Branca, 2008). Đặc biệt, khái niệm "quyền lịch sử" (historic rights) mà Trung Quốc sử dụng để biện minh cho yêu sách bao trùm Biển Đông đã bị Tòa Trọng tài năm 2016 bác bỏ. Phán quyết nêu rõ Trung Quốc không có quyền lịch sử hợp pháp đối với các vùng biển nằm ngoài phạm vi lãnh hải 12 hải lý được xác lập bởi UNCLOS, và "đường 9 đoạn" không phù hợp với bất kỳ chế độ pháp lý nào do UNCLOS quy định. Việc Trung Quốc tiếp tục sử dụng khái niệm này không chỉ vi phạm các nguyên tắc phân chia vùng biển quốc tế, mà còn gây bất ổn cho trật tự pháp lý hàng hải toàn cầu. Ngược lại, VN có đầy đủ cơ sở pháp lý vững chắc và bằng chứng lịch sử đáng tin cậy để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sử liệu cho thấy từ thế kỷ 17, các chúa Nguyễn đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải hoạt động thường xuyên tại khu vực này. Hành vi quản lý này được duy trì qua các triều đại phong kiến, thời kỳ thuộc địa Pháp, chính quyền miền nam VN và sau năm 1975 là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN. Tư liệu hành chính, bản đồ do chính quyền Đông Dương công bố, cùng các sắc lệnh, tuyên bố chủ quyền của chính phủ VN hiện đại đều phản ánh sự chiếm hữu liên tục, hòa bình, công khai và được quốc tế thừa nhận trong từng giai đoạn lịch sử. Trong khi Trung Quốc thiếu bằng chứng về kiểm soát thực tế trước thập niên 1970, thì việc sử dụng vũ lực để chiếm đóng hoàn toàn Hoàng Sa năm 1974 và một số thực thể tại Trường Sa năm 1988 càng khiến lập luận về "quyền lịch sử" thêm mâu thuẫn với nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế (Điều 2(4) - Hiến chương LHQ). "Quyền lịch sử" như Trung Quốc diễn giải không thể thay thế cho cơ sở pháp lý chủ quyền, và không đáp ứng yêu cầu về thụ đắc lãnh thổ hợp pháp. Chủ quyền không được sinh ra từ ký ức dân tộc hay tên gọi cổ truyền, mà phải được chứng minh bằng quản lý thực tiễn, phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế hiện hành, điều mà VN đã đáp ứng một cách đầy đủ, nhất quán và minh bạch. Tàu hộ vệ tên lửa 525 của hải quân Trung Quốc lao ra ngăn cản tàu không phải của Trung Quốc lại gần đá Chữ ThậpẢNH: MAI THANH HẢI Lệch lạc trong tiếp cận, phương pháp Mặc dù mang danh nghĩa "nghiên cứu lịch sử - pháp lý", báo cáo của Viện Tân Hoa xã không đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của một sản phẩm học thuật nghiêm túc. Trước hết, cách tiếp cận của báo cáo không tuân theo bất kỳ phương pháp nghiên cứu lịch sử hoặc pháp lý nào được công nhận trong giới hàn lâm quốc tế. Báo cáo không đưa ra hệ thống lý thuyết/tiêu chuẩn rõ ràng, không có khung khái niệm minh bạch, và thiếu hoàn toàn cơ sở phản biện hoặc kiểm chứng độc lập từ các nguồn sử liệu và lập luận khác. Cách chọn lọc cứ liệu lịch sử tùy tiện, chủ yếu là trích dẫn từ các văn bản do Trung Quốc xuất bản hoặc các tuyên bố chính thức của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, phản ánh tính phiến diện và tự quy chiếu, hoàn toàn không có sự đối thoại với các nghiên cứu quốc tế hoặc phản biện từ các học giả độc lập. Ví dụ, tài liệu sử dụng bản đồ cổ, nhật ký hành trình, sách địa chí nhà Minh - Thanh, nhưng không có hệ thống kiểm chứng liên quan đến hiệu lực pháp lý, mục đích sử dụng hay tính liên tục của các hành vi quản lý lãnh thổ. Ngoài ra, báo cáo trích dẫn chọn lọc và xuyên tạc các tài liệu quốc tế như Tuyên bố Cairo (1943), Potsdam (1945), hay Hiến chương Liên Hiệp Quốc, nhưng không hề đề cập đến các văn kiện nền tảng trong luật biển quốc tế hiện đại, có giá trị pháp lý ràng buộc như UNCLOS 1982 hay phán quyết của Tòa Trọng tài 2016. Việc bỏ qua hoặc làm ngơ các cơ sở luật pháp quan trọng như vậy là hành vi không trung thực học thuật, vốn bị loại trừ trong các chuẩn mực nghiên cứu quốc tế. Quan trọng hơn, báo cáo được trình bày dưới vỏ bọc nghiên cứu nhưng lại mang đậm màu sắc chính trị hóa, với ngôn ngữ tuyên truyền, từ việc sử dụng cụm từ như "truyền thông phương Tây bóp méo", "liên minh chống Trung Quốc", cho đến việc khẳng định chủ quyền như một tiền đề không cần chứng minh. Tất cả những điều đó cho thấy đây không phải là một công trình nghiên cứu khoa học mà là một sản phẩm tuyên truyền chính trị, được biên soạn nhằm hợp thức hóa dư luận nội bộ và định hướng truyền thông đối ngoại. Thậm chí, nếu xét trên khía cạnh kỹ thuật trình bày, báo cáo còn sơ sài, thiếu hệ thống tư duy, ngôn ngữ lặp lại, diễn đạt lủng củng và bình duyệt học thuật, cho thấy đây không phải là sản phẩm của một viện nghiên cứu độc lập mà là bản diễn văn chính trị đội lốt học thuật. Bản chất "ngụy khoa học" và "ngụy lịch sử" của báo cáo không chỉ phản ánh lối tiếp cận phi học thuật, mà còn cho thấy một mô hình sử dụng lịch sử như công cụ quyền lực, thay vì là đối tượng nghiên cứu trung thực. Tôn trọng chuẩn mực, trung thực với lịch sử là con đường đến hòa bình Báo cáo của Viện Tân Hoa xã về chủ quyền Biển Đông là một tài liệu không đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế và thiếu tính học thuật cần thiết cho một nghiên cứu nghiêm túc. Các luận điểm về lịch sử và "quyền lịch sử" được nêu ra không phù hợp với hệ thống luật pháp quốc tế hiện đại, và đã bị bác bỏ bởi các cơ quan tài phán độc lập. Các dẫn chiếu pháp lý trong tài liệu phần lớn thiếu độ tin cậy và tính chính danh. Chủ quyền không thể được xác lập thông qua việc diễn giải sai lệch lịch sử hay áp đặt bằng sức mạnh trên thực địa. Tính chính đáng chỉ có thể hình thành dựa trên sự tuân thủ luật pháp quốc tế, sự trung thực trong tiếp cận lịch sử và tính khách quan trong nghiên cứu khoa học. Muốn hướng tới một giải pháp hòa bình, công bằng và bền vững cho Biển Đông, điều tiên quyết là phải tôn trọng luật pháp, sự thật và chuẩn mực học thuật. https://thanhnien.vn/lich-su-bi-bop-meo-luat-phap-bi-be-cong-185251127104655415.htm
Đã nhờ chatGPT tóm tắt bài: Spoiler Nội dung chính của báo Bài báo phản biện lại một “báo cáo lịch sử-pháp lý” vừa được Tân Hoa xã công bố — báo cáo dài 33 trang, khẳng định cái mà họ gọi là “cơ sở lịch sử và pháp lý toàn diện” để Trung Quốc yêu sách chủ quyền trên Biển Đông. Tác giả bài báo — từ Viện Biển Đông (thuộc Học viện Ngoại giao Việt Nam) — khẳng định rằng báo cáo ấy không phải nghiên cứu nghiêm túc mà là “sản phẩm chính trị”: chứa nhiều ngụy biện lịch sử, diễn giải luật pháp một cách tùy tiện và phi logic. Những điểm sai sót, xuyên tạc mà bài báo chỉ ra Báo cáo Tân Hoa xã sử dụng luận điểm rằng sau Thế chiến 2, trật tự thế giới mới khẳng định “Nam Hải Chư Đảo → Trung Quốc”. Nhưng bài viết phản bác lại: các văn kiện như Tuyên bố Cairo (1943), Tuyên bố Potsdam (1945) hay Hiệp ước San Francisco (1951) không nêu rõ, và không liệt kê quần đảo Hoàng Sa / Trường Sa là thuộc lãnh thổ Trung Quốc — nghĩa là việc “kết luận” như vậy là ngụy biện. Họ cũng viện dẫn khái niệm “quyền lịch sử”, “phát hiện sớm”, “gọi tên”, “đặt tên”, “quản lý hành chính từ cổ đại”… để khẳng định chủ quyền. Nhưng theo tiêu chuẩn quốc tế hiện đại về thụ đắc lãnh thổ, việc “phát hiện” hay “gọi tên” không đủ — cần có “chiếm hữu thực tế, liên tục, hòa bình, với dấu hiệu quản lý nhà nước rõ ràng”. Báo cáo của Tân Hoa xã không đáp ứng tiêu chuẩn này. Những tư liệu mà Tân Hoa xã trích lại chủ yếu là từ các nguồn do Trung Quốc xuất bản — thiếu kiểm chứng độc lập, thiếu phản biện; gần như không tham khảo các nghiên cứu quốc tế hoặc các bằng chứng, chứng cứ công khai từ các bên khác. Ngoài ra, báo cáo bỏ qua các cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng như UNCLOS 1982 hay phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực năm 2016 — những văn kiện có giá trị ràng buộc rõ ràng trong luật biển hiện đại. ✅ Kết luận của bài báo / Quan điểm của tác giả Báo cáo của Tân Hoa xã không đáp ứng tiêu chuẩn học thuật quốc tế: nó mang tính tuyên truyền chính trị nhiều hơn là nghiên cứu lô-gic, khách quan. Theo tác giả, để bảo vệ công lý và hoà bình ở Biển Đông — cần tôn trọng lịch sử trung thực, luật pháp quốc tế, minh bạch và khách quan; không thể chấp nhận các luận điệu xuyên tạc, bóp méo lịch sử để biện minh cho yêu sách đơn phương.
Đường ra Thái Bình Dương bị Mỹ với đàn em nó bao vây , nên Việt Nam có thể coi là đối tượng thực tập nhẹ với nó. Trong tuyên truyền thì Đông Hải với Hoàng Hải lại chả phải nội hải với nó , lịch sử hồi xưa chúng ta đã từng đặt chân đồ , chẳng qua ko cắm cờ đủ lâu thôi Chừng nào mà chắc kèo đám đệ mẽo có đứa nào phản thực sự lúc đó hạm đội Đông Hải của nó mới all in . Giờ như chục năm trở lại đây lâu lâu chửi nhau thôi .
Pinnoy chả bị nó tẩn chả ai dám ho gì đó thôi. thằng Mỹ nó chơi trò giật dây cho xung đột tiếp thì cái gì chả xảy ra.
Có nắm đấm to, có vũ lực mạnh thì mới có hoà bình ổn định. Éo ai tôn trọng, nói chuyện công bằng với kẻ yếu cả. Có thì chỉ là xạo loz, lừa trẻ con thôi.