Văn hóa Nhật qua anime & manga

Thảo luận trong 'Reviews - Previews - News' bắt đầu bởi anime, 3/10/03.

  1. anime

    anime Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    22/4/03
    Bài viết:
    419
    Tui cũng biết đề tài văn hóa rất nhạy cảm & dễ rơi vào cảnh sớm nở tối tàn. Nhưng vì muốn học hỏi thêm kiến thức của mấy bạn tiếp cận anime & manga trước nên mình lập luôn. Nếu bạn thấy hay dở ra sao thì góp ý & góp sức với mình phát triển topic này nha. Cám ơn mọi người nhiều.

    RỪNG NHẬT BẢN.
    Diện tích nước Nhật tương đối nhỏ, nhưng dân cư đông đúc, và các ngành công nghiệp có thể nói là có kỹ thuật hiện đại vào bậc nhất. Điều này khiến người ta khó tin là rừng núi chiếm gần 70% diện tích đất đai của nước này. Nhưng sự thật là Nhật Bản là vùng đất có nhiều cây cối nên thường được gọi thân mật là “Vùng đất rừng nằm giữa Đại dương”. Cây cối đã đem lại nguồn sống cho người dân Nhật, và để đổi lại, con người cũng tạo điều kiện cho cây cối phát triển. Ngày nay, cuộc sống ở Nhật Bản vẫn gắn liền với rừng núi.

    Qua nhiều thế kỷ, người Nhật nhìn thiên nhiên với sự khâm phục & kính trọng. Đối với họ, rừng là nguồn tài nguyên dồi dào cung cấp nhiều thứ giá trị cho cuộc sống con người, đồng thời, nó cũng là nơi thâm sâu, u tối, nơi các thần linh và hồn ma trú ngụ. Do đó xung quanh các điện thờ luôn có rừng bao quanh, đi dưới tàn cây, bạn như lạc bước vào thế giới khác tĩnh mịch trầm lắng, tách biệt với thành phố ồn ào thường ngày.

    Khu rừng bao quanh đền Minh Trị : sau khi Hoàng đế Minh Trị băng hà (1852-1912), người ta quyết định xây dựng một ngôi đền để tôn vinh ông. Khu đất được chọn có diện tích khoảng 72 ha, thuộc khu đất của Hoàng tộc. Hầu hết là đất ruộng và đất bỏ hoang nên người ta đã phải trồng một khu rừng nhân tạo ở đây. Gồm các cây thường xuân có lá rộng như Shii (chinquapin), Kashi (cây sồi xanh), và Kusu (cây long não). Xen kẽ là các những cây có lá rộng như rụng theo mùa như Keyaki (zelkova) và Kunigi(Một loại sồi). Ngoài ra còn có người dân từ những vùng khác nhau đã đem những cây lá lớn trong rừng về dâng cúng cho đền thờ nữa.

    [​IMG]
    Khu rừng bao quanh đền Nikko Tosho-gu (tỉnh Tochigi) : đền này được xây dựng để ghi nhớ công trạng của Tokugawa Ieyasu, người thiết lập chế độ Mạc Phủ Tokugawa ở Edo (Tokyo), vào năm 1603 (xem Kenshin thì đã vào thời kỳ cuối của nhà Mạc rùi nhỉ).Ngôi đền tọa lạc dưới chân núi Nantai, từ lâu đã được tôn kính như một ngọn núi linh thiêng. Có một rừng cây tuyết tùng dày đặc trải dài từ sườn núi đến tận ngôi đền, nằm ngay phía sau cổng Yomei-mon.

    [​IMG]
    Khu rừng bao quanh đền Itsukushima (tỉnh Hiroshima) : đền nằm trên đảo Miyajima ở vịnh Hiroshima. Nhóm đền này đứng giữa biển khơi rất hiếm đền thờ kiểu này trên thế giới. Nhưng dù là giữa biển, vẫn có một khu rừng cổ - chủ yếu là sồi và linh san – che phủ các sườn núi Misen nằm phía sau đền.

    Ngoài những khu đền, rừng còn ngự trị khắp những thành thị, nông thôn, đảo nhỏ khác của Nhật nữa. Như đảo Yakushima (tỉnh Kagoshima) thì có biểu tượng riêng của đảo là cây Jomon sugi khoảng 7.200 tuổi.[​IMG]


    Các chương trình bảo vệ và phát triển rừng ở Nhật Bản rất phong phú nhưng đều theo một nguyên tắc chung là “Không có gì của rừng bị đưa ra ngoài và cũng không có gì ở ngoài được phép mang vào rừng cả”. Một chân lý đơn giản như vậy nhưng cũng phải qua hàng trăm năm trời mới được hiểu rõ, phát huy. Vậy thì bạn, tương lai của đất nước, bạn đã biết mình phải làm gì chưa ?t
     
  2. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    Trà Đạo

    1/Lịch sử Trà Đạo Nhật bản

    Từ Trung Hoa đại lục, trà du nhập vào nhiều nước, trong đó có Nhật Bản, nhưng Trà Đạo xuất hiện là từ nhu cầu tâm linh của người dân nước này. Theo cuốn “Nhật Bản những điều cần biết” thì: Sự khởi đầu của nghành sản xuất trà Nhật Bản là vào năm 1191, khi nhà sư EiSai gieo trong vườn chùa những hạt giống trà mà ông đã mang về từ Trung Quốc. Rồi sư EiSai đã khuyến khích nông dân, phật tử tại nhiều vùng khác nhau trồng trà. Cùng lúc, ông cũng tuyên truyền quảng bá những lợi ích về mặt y học của việc trồng trà. Thực ra vào thời đó, ở Nhật Bản cũng đã có cây trà hoang mọc rải rác nhiều nơi nhưng chất lượng kém nên không được dùng đến còn trà từ những hạt giống do nhà sư EiSai mang về được người Nhật gọi là: ‘Trà chính gốc”.

    Trong vòng 500 năm kể từ khi nhà sư EiSai mang giống trà từ Trung Quốc về trồng, trà chỉ thường dùng dưới dạng bột, tức là trà Matcha, 1 loại trà chủ yếu dùng trong Trà Đạo. Từ đó có thể nói Trà Đạo đã manh nha tại Nhật Bản vào những năm của thế kỉ XII. Nhưng sau đó hơn 400 năm tiếp theo, những thủ tục mới được dần hoàn thiện và phổ biến rộng rãi. Vào cuối thế kỉ XVI, Trà Đạo đã được Trà sư Sen no Rikyu hoàn thiện. Chính Sen no Rikyu là người đầu tiên làm 1 cuộc cải cách về phương tiện uống trà, các trà cụ quý hiếm đắt tiền đã được ông bỏ đi và thay vào đó là những ấm, chén, bình, nồi bình dân, để bất cứ người dân nào ở Nhật cũng có thể đến với Trà Đạo. Đến đầu thế kỉ XIX, tức là cuối thời kì Edo (1603-1868), văn hóa Trà Nhật đã thực sự phát triển rộng khắp, việc uống trà đã thực sự phổ biến trong mọi tầng lớp nhân dân với hàng loạt tiệm trà mọc lên như nấm.
    [​IMG]

    Trong lịch sử Trà Đạo Nhật Bản, người ta thường nhắc đến Sen no Rikyu và So Ami, đó là 2 bậc khai sáng ra Trà Đạo vào thế kỉ XVI. Đến thế kỉ XVII, thì người nối tiếp công việc và chấn hưng tinh thần Trà Đạo mạnh mẽ nhất, được người Nhật biết đến nhiều nhất phải kể đến trà sư Furuta Oribe. Ông là bậc thầy Trà Đạo vào thế kỉ này, đã đem sự tinh tế của Trà Đạo hòa vào mạch sống của quần chúng. Sự tinh tế và tính quần chúng trong Trà Đạo vào thời kỳ này đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống văn hóa, tinh thần và đời sống tâm linh sâu sắc của người Nhật sau này.

    2/Nghệ thuật Trà Đạo

    Nghi thức được bắt đầu cử hành tại một phòng trà đơn giản nhưng trang nhã gọi là “Trà Thất” (Tea House), chỗ đi vào phòng trà là một cửa thấp được che bằng rèm. Sở dĩ cửa được làm thấp, là để xóa đi rào cản sang hèn trong xã hội, ai cũng phải cúi mình cung kính bước vào phòng, và người chủ thì quỳ phía trước để nghênh tiếp và biểu lộ sự tôn kính với khách.

    Trong phòng trà, trên bốn bức tường người ta thường treo những bức thư pháp, những chiếc quạt giấy kiểu Nhật, những bức tranh thủy mặc, có cả những bình hoa được cắm tỉa để trang trí và cũng là một vật để biểu hiện sự chào đón của chủ đối với khách. Tất cả được trang trí hài hòa, đẹp mắt trên bốn bức tường tạo cảm giác êm ả, ấm cúng cho người thưởng thức trà.

    [​IMG]

    Phòng trà không có ghế ngồi mà chỉ có chiếc bàn thấp, có chiều cao độ khoảng 30 cm. Người uống trà phải xếp bằng trên “Tọa cụ”, đây là loại nệm ngồi mà những người tọa thiền thường sử dụng. Trên bàn trà được đặt 1 lư đốt trầm bằng gốm đỏ, 1 cái đèn giấy kiểu Nhật chỉ đủ tỏa ánh sáng vừa đủ cho bàn trà. “Trà cụ” được bày ra trên bàn gồm có: Ấm, chén, bình đựng trà, bình chuyên, bình hãm trà, bếp lò than, nồi châm trà, gáo pha trà, đồ gạt trà.
    [​IMG]

    Trước hết, phải đun nước bằng bếp lò than, bằng kinh nghiệm những Trà nhân sau khi nhận biết nước trong nồi đun vừa đủ độ nóng thích hợp để pha trà (khoảng 60OC), bằng động tác thuần thục họ mới bắt đầu tráng ấm chén, rồi bỏ trà vào ấm. Tiếp theo,họ mới nhẹ nhàng dùng 1 chiếc gáo bằng gỗ múc nước trong nồi đun chế vào ấm trà. Sau khi hãm trà trong vài phút để trà được hòa vào nước mà vẫn giữ nguyên phẩm chất và hương vị của nó, họ cẩn thận rót vào bình chuyên, rồi từ bình chuyên mới châm trà vào chén. Việc cuối cùng là đặt những chén trà lên bàn, mời khách dùng trà với 1 cung cách lễ phép kiểu Nhật.

    Khách uống trà phải dùng hai tay nâng bát trà, đưa bát trà từ trái qua phải một vòng, và nhất định trong vòng ba ngụm phải uống hết. Ngụm cuối cùng nên có kèm theo một tiếng “khà” nho nhỏ để biểu thị sự tán thưởng khen ngợi.

    Toàn bộ nghi thức Chanoyu cổ truyền cần từ 3-4 tiếng, gồm bốn giai đoạn. Bước đầu tiên được gọi là “Hoài thạch”. Sau khi những người khách đã an vị, chủ nhà sẽ mời khách dùng một ít thức ăn điểm tâm ( thường là bánh). Bước thứ hai là “Trung lập”. Khách sau khi dùng món điểm tâm xong sẽ đi xuống Trà đình và ngồi nghỉ tại đó. Sau đó là “Ngự tòa nhập”, lúc này khách sẽ được dâng trà đặc. Và cuối cùng là dùng “trà loãng”. Ngày nay có rất nhiều cuộc trà, và người ta đã đơn giản hóa nó đến mức chỉ còn bước cuối cùng. Hơi tiếc cho chúng ta, phải không? Hy vọng 1 ngày nào đó ta được dự một nghi thức Chanoyu đúng phong cách cổ truyền^^.

    Nghệ thuật Trà Đạo có 4 đức tính cao quý là: “Hòa, Kính, Thanh, Tịch”
    +Hòa: Hòa là hòa đồng, hòa điệu và hòa nhã. Đến với nghệ thuật Trà Đạo cần thể hiện sự hòa nhã, lễ độ, trong buổi uống trà nên cùng nhau hòa điệu để chia sẻ cảm thông với nhau, đối với cảnh vật xung quanh chúng ta nên hòa đồng.
    +Kính: Đức tính “Kính” trong Trà Đạo thể hiện qua hành vi kính trọng, lễ kính. Nó sẽ làm con người biết nhún nhường nhau, từ đó nết hạnh sẽ nảy nở trong lòng mọi người.
    +Thanh: Thanh trong Trà Đạo được hiểu là trong sạch. Một ly nước cáu bẩn nhiều để lâu ngày chất bẩn lắng xuống, nó sẽ trong sạch. Điều này cũng giống như con người nếu lắng tâm yên tĩnh nhiều ngày, tâm hồn sẽ trở nên thanh tịnh.
    +Tịch: Tịch có nghĩa là sự vắng lặng, tĩnh lặng. Chính sự tĩnh lặng mới khiến tâm trong sáng (“Thanh”) từ đó là động cơ để phát khởi 2 đức tính:”Kính” và Hòa”

    Nghệ thuật Trà Đạo còn có 7 quy tắc:
    +Trà cần đậm nhạt vừa miệng
    +Lửa to nhỏ vừa phải
    +Tùy theo thời tiết bốn mùa mà để cho độ nóng của trà thích ứng theo
    +Hoa cắm trong phòng phải tươi mới
    +Người đến thưởng trà phải đến sớm ( thông thường là khoảng 20-30 phút so với thời gian được mời)
    +Bất luận trời mưa hay nắng cũng phải mang áo mưa theo
    +Quan tâm chu đáo đến khách, kể cả khách của khách

    Từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, xuyên suốt cả buổi lễ là một tinh thần đầm ấm hòa hoãn và thân mật, đem lễ nghi để đãi khách, đó là phong cách của dân tộc Nhật Bản

    (Bài này có tham khảo của Keno veno ở accvn.net)

    3/Trà trong đời sống của người dân Nhật Bản.

    So với nhiều nước Á Đông, Nhật Bản được xem là 1 trong những nước tiêu thụ sản lượng trà lớn nhất trong khu vực. Người Nhật uống rất nhiều trà vào nhiều buổi trong 1 ngày.Họ có thói quen dùng 1 chén trà vào mỗi buổi sáng sau khi thức dậy cho tỉnh ngủ, 1 chén trà trước khi bắt tay vào công việc, vài ba chén trà vào buổi chiều, và ít nhất là 1 chén trà sau mỗi bữa ăn. Ngoài ra trong đời sống hằng ngày của người Nhật, việc dùng trà cũng đã trở thành tập tục trong giao tiếp đối đãi nhau.

    Trong tiếng Nhật, trà được phiên âm là “Cha”. Trà xanh gọi là “Ocha”, và trà đỏ gọi là “Kocha”. Ở Nhật có rất nhiều loại trà xanh, nó được trồng tập trung tại những khu vực có khí hậu ấm, trong đó trà của tỉnh Shizuoka chiếm đến 1 nửa tổng sản lượng trà của toàn nước Nhật. Tại Nhật Bản, trà thành phẩm dùng để làm thức uống phổ biến cơ bản cũng chỉ có 3 loại: Trà Gyokuro (Trà cao cấp), trà Sencha (Trà trung cấp), và trà Bancha (Trà thứ cấp). Bên cạnh đó, người Nhật còn chế biến ra 1 loại trà bột có tên là Matcha chủ yếu chỉ để dùng trong Trà Đạo.
    [​IMG]
    Khi uống loại trà bột Matcha này, người ta cho bột trà sẵn trong ly, đổ nước vào xoong, dùng 1 dụng cụ bằng tre khuấy lên cho đều.

    Việc hái trà được thực hiện vào đầu tháng 5, loại trà hái vào thời điểm này được gọi là Ichibancha ( nghĩa là “Trà nhất”), loại trà hái vào cuối tháng 6, gọi là Nibancha (nghĩa là “Trà nhì”), loại trà hái cuối mùa vào cuối tháng 7, gọi là Sanbancha (nghĩa là :Trà ba”). Theo chuyên môn thì càng vào đầu mùa, thành phần trà có nhiều axit amin nên có vị thanh. Khi trà về cuối vụ nó có nhiều tanin nên sẽ bị vị chát.

    Để có 1 tách trà ngọn, nhất là đối với người sành điệu trong việc thưởng thức trà Nhật, người ta ít khi dùng loại nước có nhiều thành phần khoáng chất như muối,sắt,canxi... để pha trà mà dùng loại nước “mềm”, tức là loại nước được lấy ra từ những dòng suối trong vắt từ nơi khe núi chảy ra.

    Khi uống trà đỏ (Trà Kocha) người Nhật ít khi uống riêng nó mà thường pha thêm các chất như đường, sữa, chanh, rượu brandy...tạo thành 1 loại trà hỗn hợp có đặc vị riêng. Ngược lại, đối với trà xanh (Trà Ocha), người Nhật chỉ uống riêng mà không dùng với bất kỳ thức uống nào kèm theo. Đó là để giữ cho hương vị thơm ngon của trà được thuần khiết, cũng như bảo đảm màu xanh hấp dẫn của trà.

    Ngày nay, người Nhật cũng đã có thêm nhiều cách pha trà như Đại Bao Trà (đó là loại trà được bọc trong túi giấy như trà Lipton), Tốc Dục Trà (trà pha nhanh, chỉ cần bỏ trà vào nước sôi là uống được ngay), Băng Trà (trà lạnh), Hương Liệu Trà (trà ướp tẩm hương),Trung Dược Trà ( trà được trộn với thuốc Bắc)...Tuy nhiên những cách pha trà này đều không đặc biệt như Trà Đạo. Tại Nhật Trà Đạo đã đi vào đời sống tinh thần của mỗi người dân, gắn bó hòa quyện với nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp khác.
     
    Mê truyện thích bài này.
  3. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    Hoa Đạo

    Người Nhật yêu hoa và trà đến mức sùng kính, coi chúng như những thứ đạo giáo thiêng
    liêng. Có thể nói, Ikebana hay nghệ thuật cắm hoa đã trở thành 1 nghệ thuật truyền thống của Nhật Bản với cái tên Hoa Đạo. Hoa Đạo ra đời vào đầu thế kỷ XV. Khởi thủy là việc dâng hoa viếng người quá cố, sau đó trở thành nghi lễ trong Phật giáo rồi được dùng để trang trí nội thất, thưởng ngoạn vẻ đẹp đối với con người trong sinh hoạt

    Đối lập hẳn với các hình thức cắm hoa trang trí đơn thuần phổ biến ở các nước phương Tây , nghệ thuật Ikebana tìm cách tạo ra sự hài hòa của các đường nét , nhịp điệu và màu sắc. Trong khi người phương Tây thường nhấn mạnh đến số lượng và màu sắc của hoa , chủ yếu quan tâm đến vẻ đẹp của những bông hoa thì người Nhật lại quan tâm chính tới đường nét của bình hoa và phát triển nghệ thuật này để bao gồm cả những lọ cắm hoa, cuống hoa, lá, cành và tất nhiên là hoa.

    Cấu trúc tổng thể của một bình hoa cắm theo kiểu Nhật Bản dựa vào 3 đường chính tượng trưng cho Thiên , Địa , Nhân. Nguyên lý chủ đạo là Thiên (bông hoa chủ được cắm chính giữa tượng trưng cho bầu trời). Nguyên lý tùy thuộc là Địa (bông hoa tượng trưng cho mặt đất). Nguyên lý điều hòa là Nhân (bông hoa tượng trưng cho con người). Cần chăm chút hoa trên 3 phương diện là: Chân , Hành , Thảo. “Chân” là vẻ đẹp trang nghiêm của hoa. “Hành” tả vẻ uyển nhã của hoa trong buổi xế chiều. “Thảo” tả vẻ đẹp duyên dáng trong khuê phòng của hoa . Khi cắm hoa , tránh sự đối xứng vì vậy phải thường cắm theo số lẻ (3,5,7,9), các bông hoa ở thế so le , nhằm tạo những tam giác ko cân. Làm sao cho hoa phô bày tất cả vẻ đẹp, đồng thời gợi trí tượng tưởng nên thơ của con người, điều đó đòi hỏi trình độ thẩm mỹ, trình độ kỹ xảo cao.

    Có thể kể ra một số lối cắm hoa:

    1/Cắm hoa cổ điển

    Cội nguồn của nghệ thuật Ikebana là nghi lễ dâng hoa trong các chùa chiền từ thế kỉ thứ VI . Trong cách cắm hoa hầu như còn thô sơ , cả hoa và cành đều được bố trí hướng lên trời như thể hiện lòng trung thành .
    Một phong cách cắm hoa phức tạp hơn có tên gọi là Rikka ( hoa đứng) xuất hiện vào thế kỉ XV .
    [​IMG][​IMG]
    Phong cách cắm hoa Rikka , tìm cách thể hiện vẻ tráng lệ của thiên nhiên , quy ước rằng hoa phải được cắm theo Sumeru , ngọn núi huyền thoại của thế giới nhà Phật và tượng trưng cho toàn vũ trụ . Phong cách cắm hoa này đòi hỏi nhiều tính tượng trưng . Chẳng hạn, những cành thông tượng trưng cho núi và đá , hoa cúc tượng trưng dòng sông hoặc con suối . Phong cách Rikka đạt tới thời hoàng kim vào thế kỉ XVII . Ngày nay nó được coi là một kiểu cắm hoa không còn hợp thời . Một thời được coi là kiểu cắm hoa thích hợp cho nghi lễ và trong dịp hội hè , phông cách Rikka mất chỗ đứng trong dân chúng và đến nay hiếm khi còn được sử dụng .

    2/Cắm hoa tự nhiên

    Thay đổi cơ bản nhất trong lịch sử Ikebana xảy ra vào thế kỉ XV , thời Muromachi khi tướng quan Ashikaga Yoshimasa cai trị đất nước . Tất cả những ngôi nhà lớn nhỏ của ông cho xây đều thể hiện tình yêu của ông đối với tính đơn giản . Những ngôi nhà nhỏ xinh đều có toko no ma, hay là hốc tường để đặt các vật mỹ nghệ hay để cắm hoa .
    Đây là 1 toko no ma
    [​IMG]

    Các luật lệ cắm hoa thời đó được đơn giản hóa sao cho mọi tầng lớp nhân dân đều có thể thưởng thức nghệ thuật này .

    Cuối thế kỉ XVI có một bước phát triển quan trọng khác , khi một kiểu cắm hoa mộc mạc đơn giản hơn được gọi là Nageire ( nguyên nghĩa là ném hay quăng vào) hay còn gọi là lối cắm hoa theo Tự nhiên phái.
    [​IMG]
    Theo phong cách này , nhiệm vụ của chúng ta chỉ là lựa hoa xong là hết, và để cho hoa tự giãy bày thân thể. Bày hoa lên “Sàng gian” ko nên đặt vào chính giữa vì nó sẽ chia sàng gian ra làm 2 phần bằng nhau. Hoa bày lên sàng gian như 1 ông hoàng ngự trên ngôi báu và khách của Tự nhiên phái khi bước chân vào phòng phải cúi đầu chào hoa trước khi chào chủ nhân. Khi hoa tàn người ta ủy thác hoa cho các dòng sông, hoặc trân trọng đem hoa đi chôn, đôi khi xây cả đài kỷ niệm hoa nữa.

    3/Ikebana hiện đại

    Trong những năm 90 của thế kỉ trước , ngay sau cải cách Minh Trị , mở ra thời kì hiện đại hóa và Tây hóa Nhật Bản , phong cách cắm hoa mới gọi là moribana ( hoa dàn trải ) phát triển .
    [​IMG]
    Phong cách này xuất hiện một phần do các hoa từ châu Âu được đưa vào Nhật Bản , một phần do sự Tây hóa lối sống Nhật . Phong cách moribana mở ra con đường tự do cho nghệ thuật cắm hoa , tìm cách thu nhỏ lại một phong cảnh hay một mảnh vườn . Đó là phong cách cắm hoa có thể được thưởng thức ở bất kì đâu và thích hợp cho cả khung cảnh trang trọng lẫn thân tình.

    (Tham khảo cuốn Hoa Đạo,accvn và Nghệ thuật Ikebana)

    He,cảm ơn mod đã khen:)).Tôi chỉ muốn đóng góp cho topic văn hoá của anime đỡ vắng vẻ thôi mà:)>-.t
     
    Mê truyện thích bài này.
  4. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    Nhẫn-Những sắc thái biểu cảm.

    Người Nhật Bản có lệ rất hay là khi mua nhẫn có mặt đá và mặt ngọc để tặng nhau, thường căn cứ vào tháng sinh của người bạn để chọn màu sắc mặt nhẫn. Nếu người bạn sinh vào:

    +Tháng 1: Chọn nhẫn màu thạch lựu, tượng trưng cho sự trung thành và trinh tiết.

    +Tháng 2: Màu tím thủy tinh, tượng trưng cho sự thành thật và hòa thuận.

    +Tháng 3: Đá màu đỏ sẫm, tượng trưng cho sự thông minh và dũng cảm.

    +Tháng 4: Kim cương, tượng trưng cho sự trong trắng.

    +Tháng 5: Đá màu cánh trả, tượng trưng cho hạnh phúc và tình yêu.

    +Tháng 6: Trân châu, tượng trưng cho sự trường thọ, giàu có và may mắn.

    +Tháng 7: Hồng ngọc, tượng trưng cho sự nhiệt tình và uy nghiêm.

    +Tháng 8: Mã não đỏ, tượng trưng cho hạnh phúc vợ chồng bền lâu.

    +Tháng 9: Ngọc thạch xanh lam, tượng trưng cho sự cao quý.

    +Tháng 10: Ngọc thạch màu trắng sữa, tượng trưng cho sự hòa thuận, yên ấm.

    +Tháng 11: Hoàng ngọc, tượng trưng cho sự nhân ái và hữu nghị.

    +Tháng 12: Đá màu xanh lá cây, tượng trưng cho vinh dự và thành côngt
     
  5. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    Lễ hội Nhật Bản.

    A

    Lễ hội Aizu:
    [​IMG]
    đây là lễ hội nổi bật nhất , đặc sắc nhất , lễ hội này diễn ra 4 lần trong 1 năm tại tỉnh Wakamatsu. Trong 4 lần lễ hội ấy thì lần tổ chức lớn nhất là lễ hội mùa thu 3 ngày (đuợc bắt đầu từ ngày 22/9 hàng năm) . Khi ấy , những người đàn ông sẽ cải trang thành các samurai và tổ chúc diễu hành qua các con đuờng lớn của thành phố, sau đó đám rước sẽ trở về cúng lễ tại lâu đài Tsuragajo. Ngoài ra , trong suốt lễ hội mùa đông diễn ra vào tháng 2 , bầu trời của thành phố sẽ đầy ắp những bông pháo hoa được bắn lên vào buổi tối.

    Lễ hội Ashinokami Ayu: lễ hội này được tổ chức vào ngày 1-5/8 hàng năm tại tỉnh Wakamatsu . Ayu là 1 địa danh nằm gần con sông Okawa thơ mộng . Nơi này là 1 trong những thắng cảnh du lịch nổi tiếng vào mùa xuân . Tại lễ hội này , mọi người sẽ có dịp thưởng thúc kawara-yaki (món thịt nướng chả) , và đuợc ngắm các vũ công xinh đẹp trong điệu vũ bon-odori , tất nhiên là ko thể thiếu đuợc màn bắn pháo hoa hằng đêm

    Lễ hội Ava odori: Đây là lễ hội múa dân gian ở Tokusima diễn ra vào giữa tháng 8 và lễ hội ở Nikko diễn ra vào giữa tháng 10.

    Lễ hội Aoi:
    [​IMG]
    Aoi Matsuri nổi danh là lễ hội cổ xưa nhất thế giới. Nó được tổ chức vào ngày 15 tháng Năm giữa lúc những bông anh đào cuối cùng sắp rụng và những bông diên vĩ đầu tiên sắp nở. Cao điểm của lễ hội là đám rước Hoàng gia, diễn ra với trang phục của thời kì Heian, với những chiếc xe bò của Nhật hoàng được sơn phết đẹp đẽ. Mọi người mặc những bộ Kimono gấm thêu có tay áo rộng thùng thình, những cái mũ đen ngộ nghĩnh ngự trên đầu những người tùy tùng, những bộ yên cương trang trí cầu kì, cùng cái lọng khổng lồ được trng trí bằng hoa đã làm cho Aoi Matsuri trở thành 1 cảnh tượng lóa mắt.

    B

    Lễ hội Bon:
    [​IMG]
    Mục đích của lễ Bon ,hay O-Bon,là việc dâng những lời cầu nguyện và thực hiện các nghi lễ múa hát trong tháng Đức Phật ,là tháng mà người ta cho là các hồn ma của người chết quay trở lại trái đất .Từ thế kỉ 14 đến nay,phong tục này đã trở thành 1 lễ hội ca múa và đèn lồng của mùa hè.
    Những chiếc đèn lồng và các ngọn nến được thả rơi trên các dòng sông (ngày nay bổ sung thêm pháo hoa) để hướng dẫn các linh hồn trở lại nơi cư ngụ của chúng ở thiên đường hay địa ngục.Tại các đền miếu và nghĩa địa ,nhưng ngọn đèn lập lòe mang 1 không khí lễ hội mê tín kì lạ và đầy cảm xúc.
    Tại các bãi đất trống trong làng ,người ta dựng lên các ngọn tháp.Ở đó những người đánh trống ,hoặc thêm 1 ban nhạc ,họ dựng sân khấu và nhảy múa suốt thâu đêm .Nắm tay nhau thành 1 vòng tròn quanh các ngọn tháp ,họ lập đi lập lại những cử động đơn giản hết giờ này đến giờ khác ,mê mệt như bị thôi miên.

    Lễ hội Bandai: Đây là 1 lễ hội vô cùng sống động, lễ hội này được tổ chức tại Inawashiro vào 2 ngày 25-26/8 hằng năm . Lễ hội đuợc bắt đầu bằng 1 buổi cầu nguyện cho linh hồn những nạn nhân của thảm hoạ núi lửa từng xảy ra vào năm 1888 . Ngoài ra, sẽ có 1 cuộc diễu hành bao gồm nghi thức sau: những ngọn đuốc nhỏ sẽ đuợc chuyền tay từ người này sang người khác để cùng nhau thắp sáng ngọn đuốc trung tâm rong tiếng trống và tiếng sáo trúc dặt dìu.

    C

    Lễ hội Chichibu: Diễn ra vào ban đêm tại tỉnh Saitama vào ngày 2-12. Trong buổi hoà nhạc dân gian , kịch rối Kabuki sẽ đuợc diễn trên những sân khấu đặc biệt, đó là các kiệu hoa lộng lẫy. Vào buổi chiều tối, 4 chiếc kiệu hoa sẽ đuợc thắp sáng. Nguời ta sẽ bắn lên trời đúng 18000 phát phaó hoa. Đuờng kính của 1 hình pháo hoa to nhất là 310m.

    D

    Lễ hội Daimonji:
    [​IMG]
    Mỗi năm khi lễ hội O_Bon vào tháng của các hồn ma lên đến đỉnh điểm vào đêm đốt lửa mừng và thắp đèn lồng trên toàn Nhật Bản, người dân Kyoto và các quận xung quanh im lặng theo dõi ngọn núi Nyoigatake. Vào tối ngày 16 tháng Tám ,ngọn lửa mừng được thắp lên và từ từ lan ra thành 1 chữ dai trên sườn núi .Chữ dai giống như 1 người đang dang tay dang chân ra. Những ngọn lửa mừng bao trùm trên 1 vùng khoảng 30.000 km2 . Rồi lửa bắt đầu được đốt lên tại các sườn đồi khác, cái nào cũng là chữ dai .Nó là sự kết thúc đẹp mắt tháng của lễ hội chào đón các hồn ma đến từ thế giới khác

    G

    Lễ hội Gion: Diễn ra vào ngày 17-7. Đây là 1 trong 3 lễ hội lớn nhất Nhật Bản . Lễ hội này đã được tổ chúc từ hơn 1100 năm nay. nguồn gốc của lễ hội này là để xua tan những ý nghĩ độc ác và những tệ nạn ra khỏi xã hội. Ngày 17/7 là cao điểm của lễ hội. Một tá những xe kiệu hoa lộng lẫy sẽ diểu hành trên đuờng phố. Những ngôi nhà cổ ở Kyoto sẽ treo các tấm mành che dát vàng bên cửa sổ , đây là những di sản quí giá nhất của cố đô.

    H

    Lễ hội Hina (Ngày hội các bé gái):
    [​IMG]
    Ngày 3/3 là ngày Tết dành cho các em bé gái, còn gọi là “Tết ngẫu nhân” ( ngẫu là những pho tượng hình người). Mục đích của ngày Tết này là cầu chúc cho hạnh phúc sẽ đến với các em trong tương lai. Vào ngày đó, gia đình có các em bé gái sẽ tiến hành một số nghi lễ phong tục. Họ sẽ mua về những bộ búp bê thật đẹp. Thường phải có đến trên 10 con búp bê, 2 con búp bê vua và hoàng hậu được bày ở hàng cao nhất. Búp bê thường được bày cùng với những đồ đạc và thức ăn đồ chơi cũng thanh tú và tinh xảo như những con búp bê vậy.
    Một loại kẹo đặc biệt cùng với sake nhẹ được mang ra để uống. Và các cô bé gái đóng vai chủ nhà tiếp đãi các chú bé trai và bạn bè đến chơi nhà cùng chiêm ngưỡng những con búp bê. Hina matsuri là ngày của chúng.

    Lễ hội Hanami (Ngày hội ngắm hoa anh đào):
    [​IMG]
    Khoảng từ tháng 3 đến tháng 4 là mùa hoa anh đào nở, và Nhật Bản đã chọn khoảng thời gian từ 15/3 đến 15/4 làm “ Tết anh đào”. Đến đầu tháng 4 hàng năm, tại Tokyo, chính phủ có cử hành lễ hội thưởng thức hoa anh đào, họ mời các quan chức, những người có tên tuổi trong xã hội Nhật và các vị khách quốc tế tới cùng tham dự, và đích thân Thủ tướng Nhật phải chủ trì lễ hội này. Do sự khác nhau về khí hậu giữa miền Nam và miền Bắc, nên ở Nhật hoa anh đào nở dần từ phía Nam lên phía Bắc, kết thúc ở 4 hòn đảo ở biển Bắc. Vì thế thời gian hoa anh đào nở kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7. Trong khoảng thời gian ấy, nhân dân trong nước khắp nơi nơi đều cử hành các hoạt động thưởng thức hoa anh đào truyền thống, hầu hết tất cả mọi người, từ người già cho tới các em nhỏ đều đến công viên hoặc một nơi nào đó để thưởng hoa. Tại công viên Thượng Dã ở Tokyo hàng năm có tới hàng chục vạn người tới để xem hoa anh đào. Mọi người tụ họp dưới gốc cây ngửa mặt lên trời ngắm hoa. uống rượu và nhảy múa náo nhiệt thâu đêm suốt sáng

    Lễ hội Hirosa (Lễ hội trồng lúa): Diễn ra vào ngày CN đầu tiên của tháng 6. Tại Nhật Bản, tháng 6 là tháng để bắt đầu 1 vụ mùa mới. Có rất nhiều lễ hội trồng lúa đã được tổ chúc tại Nhật Bản. Tại khu phố Mibu, các cô gái Satome sẽ hát những bài dân ca Nhật Bản về vụ mùa lúa và hi vọng rằng sẽ có 1 vụ mùa bội thu vào cuối tháng.

    Lễ hội Higashiyama Bon-odori: Lễ hội này được xem như là nơi tụ họp của các vũ công Bon-odori nổi tiếng nhất Nhật Bản . Llễ hội này đuợc tổ chức tại tỉnh Wakamatsu từ ngày 13-20/8 hằng năm . Nhửng pháo đài đầy màu sắc sẽ đuợc dưng lên cạnh bờ sông Yugawa , các vũ công sẽ nhảy múa suốt cả ngày đêm trong tiếng nhạc dặt dìu của 1 bài hát dân tộc, bài Aizu Bandai-san.

    Lễ hội Hanamatsu: Lễ hội đền Suwa ở Hanamatsu tại Shizuoka ko giống như các lễ hội đền khác. Nó bao gồm cả Hanamatsu Odakoage-1 cuộc thi chọi diều trên bãi biển Nakatajima. Có tới khoảng 60 đội chơi tham dự, họ điều khiển hết sức khéo léo những con diều khổng lồ và cố gắng xoay sở để cắt đứt dây diều đối phương bằng cách cọ đứt nó bằng dây diều của mình trong 1 không khí rất náo nhiệt và vui vẻ.

    Lễ hội Hakone Torii:
    [​IMG]
    Đây là lễ hội được tổ chức bởi những du lịch ở hồ Hakone. Lễ hội được bắt đầu bằng việc thả 1 cái cổng chào (Torii) giả bằng giấy trên 1 cái bè xuống mặt hồ để cầu được bình yên lúc đi du lịch. Nó cứ trôi bồng bềnh như thế cho đến ngày lễ hội và làm lóa mắt người xem bằng 1 cảnh tượng chói lọi khi người ta thắp sáng cái cổng chào có kích thước to như thật bằng hàng ngàn chiếc đèn lồng trang trí ở trên đó.

    Lễ hội Hanagasha Odori: Là 1 trong những lễ hội lớn nhất tại Tohoku, tổ chức ở Yamagata từ mùng 8 đến 16 tháng Tám. Vũ điêu Hanagasha (Cái nón vẽ hoa) tràn ngập những cô gái múa những chiếc nón trên đầu vòng xuống đầu gối thành 1 hình tròn trong giai điệu đều đều của tiếng nhạc cùng hàng ngàn giọng nói cùng hét lên thật đều: “ Yassho! Masako! Yassho! Masako! ”t
     
  6. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    K

    Lễ hội Karatsu Kunchi:
    [​IMG]
    Tháng 11 là tháng của lễ hội Karatsu Kunchi. Lễ hội này đuợc tổ chức hơn 300 năm nay. Những tác phẩm nghệ thuật thủ công khổng lồ đuợc làm tỉ mỉ , tinh xảo và đuợc mạ vàng hình sư tử , cá heo , cá vàng... sẽ đuợc diễu hành khắp thị trấn

    Lễ hội Kaze no bon: Diễn ra từ 20-8 đến 3-9. Bài hát Owara là bài dân ca nổi tiếng nhất của vùng Toyama. Nhịp điệu bài hát rất hay, tinh xảo và mọi nguời nhảy múa với những động tác khéo léo như đồng loạt vẫy tay tạo thành con sóng nhỏ. Nguời dân địa phương mặc những bộ áo kimono bằng cotton và nhảy múa khắp thị trấn

    Lễ hội Kurofune ( Lễ hội Tàu Ô): Được tổ chức vào ngày 17 tháng Năm, kỉ niệm ngày Đô đốc Perry đổ bộ lên Shimoda ở bán đảo Izu. Kuro nghĩa là “đen”, và fune nghĩa là “con tàu”.

    N

    Lễ hội Nebuta: Diễn ra từ mùng 3 đến mùng 5 tháng Tám tại Aomori. Nebuta matsuri là lễ hội mùa hè tại Nhật Bản. Lễ hội đựơc tổ chức để xua đi sự oi bức và buồn chán của mùa hè. Những vũ công sẽ hét lên "Rassena, Rassena , Rasse, Rasse..." và những chiếc đèn lồng khổng lồ sẽ diểu hành dọc trên đuờng phố

    Lễ hội Nada Fighting: Diễn ra vào ngày 14 tháng Mười tại Hyogo. Lễ hội này diễn ra như sau: 1 chiếc kiệu hoa Danjiri xuất hiện cùng với 1 cái trống to. Nguời ta vừa đánh trống vừa tổ chức khênh 3 bàn thờ nhỏ đến thánh đưòng. Những nguời đàn ông khênh 3 bàn thờ nhỏ này sẽ phải chạy và tông thẳng vào nhau. Nguời ta nghĩ rằng càng tông vào nhau nhiều thì thần linh sẽ càng vui và sẽ mang đến sự thịnh vuợng cho thị trấn.

    Lễ hội Namahage:
    [​IMG]
    Được tổ chức tại ngôi đền Akagami ở thành phố Oga. Sau khi cầu nguyện trước ngọn lửa mừng, các thanh niên chưa vợ khoác lên người những bộ quần áo làm bằng rơm cùng với những cái mặt nạ gớm ghiếc. Họ đi từng nhà gõ cửa và hỏi: “Ngào!Ngào! Đứa trẻ hư trong nhà đâu nào?” rồi được mời vào nhà, ăn bánh gạo và uống sake rồi lại kéo nhau sang nhà khác.

    O

    Lễ hội Okunchi:
    [​IMG]
    Diễn ra ở Nagasaki vào tháng Mười là một ngày hội nổi tiếng với điệu múa rồng có nguồn gốc từ Trung Quốc. Các xe diễu hành về những chiêc thuyền buồm thời Edo , các voi phun nước và những hình tượng khác đi diễu hành trong khắp thành phố .

    Lễ hội Onbashira: Lễ hội này đuợc tổ chức 6 năm 1 lần , vào năm Dần(cọp) và năm Thân (khỉ) theo lịch của Trung Hoa. Nguời ta đốn những cái cây to nhất từ đỉnh đồi để dựng thành 4 cái cột quanh 4 góc của thánh đường Sawa. Quang cảnh thú vị nhất của lễ hội là khi những người đàn ông ngồi trên những cái cây to để truợt xuống từ đỉnh đồi.

    Lễ hội O-Taeu: Lễ hội này được tổ chức tại thánh đuờng Isamushi thuộc tỉnh Takada vào ngày 12/7 hằng năm . Đây là 1 trong 3 lễ hội trồng lúa lớn nhất tại Nhật Bản đề cập đến 1 Tại lễ hội này , các cô thôn nữ sẽ múa điệu vũ "sa-otome" . Ngoài ra, sẽ có 1 đám rước diễu hành qua thành phố gồm những biểu tượng của cây lúa và những người đàn ông sẽ đội trên đầu những chiếc mũ được làm từ giấy trắng với những đường rua dài.

    S

    Lễ hội Segazu (Lễ hội năm mới):

    Bắt đầu từ 27-12 người Nhật Bản đã lo chuẩn bị đón Tết và gọi 3 ngày chuẩn bị này là “3 ngày trước Tết”. Họ làm các loại bánh để ăn trong những ngày Tết nhưng ngày 29 thì tuyệt đối ko ai làm bánh cả vì theo tiếng Nhật “chín” phát âm giống chữ “khổ”. Họ cho rằng hôm đó mà làm bánh thì sẽ là thứ “bánh khổ”. Ai ăn phải chiếc “bánh khổ” cả năm sẽ gặp toàn chuyện rủi ro. Vì vậy người Nhật Bản rất kiêng làm bánh vào ngày 29.

    Nhà nào nhà nấy đều lo dọn dẹp, dựng cổng chào kado-matsu (cổng gồm 3 cây tre trang hoàng thêm những cành thông nhỏ) trước nhà. Chắn ngang qua cổng là những sợi shimenawa (rơm bện với những giải băng giấy ngũ sắc dán xung quanh). Trong nhà, phòng nào cũng được trang trí thêm những vật trang sức bằng rơm rạ. Đồ trang trí phải bày biện trước 30 tết và tới mùng 7 tháng 1 mới dọn đi. Trong 7 ngày đó, người Nhật đi thăm viếng người thân, bạn bè. Ba ngày đầu, nhà nào cũng uống rượu sake ngọt, ăn bánh canh bột gạo và chúc nhau mạnh khỏe.

    Trước cửa nhà sẽ đặt một chiếc khay để đựng thiệp chúc mừng của hàng xóm, người quen, bạn bè. Ngoài ra người ta còn chúc miệng nhau những lời chúc tốt lành. Thường còn gửi cả thiệp mừng tân xuân cho người cao tuổi, thân thích, họ hàng kèm theo quà tặng (gọi là oto shidama) nếu họ ở xa.

    Mùng 2 tết là khai trương nếp sinh hoạt thường nhật của năm mới. Mọi thứ vào ngày hôm đó đều diễn ra lần đầu: quét dọn, làm lụng, vui chơi. Giấc ngủ đầu tiên trong năm mới gọi là hatsuyume. Ngày xưa, trước lúc ngủ, người ta thường đặt dưới gối bức vẽ những chiếc thuyền chở đầy vàng bạc, châu báu để đem lại may mắn cho năm mới.

    Mùng 7, cả nhà sẽ quây quần bên mâm cháo nấu bằng 7 thứ rau để trừ ma. Ngày nay, người Nhật thường dùng các thứ rau đậu dễ kiếm như: mùi tây(seri), rau hakobe, rau tề (nazuna), tía tô đốm trắng (hotokenoza), cải củ (suzuna), củ cải đen (suzuhiro), rau khúc (hahakogusa). Hồi trước gia đình nào cũng ăn mừng rất thịnh sọan, cắt đồ, gia vị vào nồi cháo chỉ chủ nhà mới được làm, còn kẻ dưới thì chỉ đứng nhìn, tay khoanh trước ngực rất mực cung kính. Hiện giờ lệ đó hầu như không còn nữa.

    Ngày nay, việc đón mừng năm mới của người Nhật không còn cầu kỳ, trang trọng như trước, một số nghi lễ được bỏ qua, đặc biệt ở các đô thị. Tuy nhiên nhiều điều vẫn được duy trì như đi chùa cầu an, khai bút đầu xuân.... và hiển nhiên, trong các ngày tết, phụ nữ Nhật sẽ mặc kimono truyền thống.

    Lễ hội Sanja:
    [​IMG]
    Lễ hội Sanja là lễ hội tiêu biểu của phố chợ Tokyo. Lễ hội này đã đuợc tổ chứv từ hơn 200 năm nay. người ta sẽ khênh trên vai 3 bàn thờ tổ chính và bắt đầu diểu hành từ thánh đuờng Sensou , sau đó 80 bàn thờ tổ khác cũng sẽ đuợc khênh diễu hành qua 44 quận của vùng Asakusa

    Lễ hội Shiraoi-no-Iomante: Đây là lễ hội săn bắn trọng thể của người Ainu, những cư dân bản địa của Nhật Bản mà giờ đây chỉ còn sinh sống ở Hokkaido.


    T

    Lễ hội Tana bana:
    [​IMG]
    Lễ hội Tana bana được tổ chức hàng năm vào ngày 7 tháng Bảy, một vài địa phương khác lại tổ chức vào ngày 7 tháng Tám. Lễ hội Tana bana có nguồn gốc từ truyền thuyết dân gian Trung Quốc về cuộc gặp gỡ thơ mộng mỗi năm một lần của hai vì sao trong dải Ngân hà là Ngưu Lang (Altair) và Chức Nữ (Vega). Trong lễ hội này người ta viết những ước mong của mình lên những băng giấy màu và treo chúng lên cành tre

    Lễ hội Tenjin: Trong lễ hội Tenjin, nguyên cũng là một nghi lễ tôn giáo , vô vàn những con thuyền nhỏ mang trống và búp bê hộ tống các thuyền diễu hành trang hoàng rực rỡ đi dọc theo các con sông của vùng Osaka .

    Lễ hội Toshogu: Đây là lễ hội tôn giáo phóng túng của Thần đạo. Ba bình đựng hài cốt được rước quanh rất nhiều lọ đựng hài cốt khác trong ngôi đền Toshogu quanh co bởi 1 đám rước của hàng ngàn người mặc trang phục của thời Tokugawa,theo sau là đám đông ăn mặc lòe loẹt nhiều màu giả trang thành khỉ , sư tử , samurai , người nuôi chim ưng và tiên nữ... Có đủ mọi thứ cho mọi người :các điệu múa tôn giáo ,các điệu múa đặc biệt khác được các nhà sư biểu diễn và thậm chí còn biểu diễn tài bắn cung.

    Lễ hội Tooku Ebisu : Diễn ra vào ngày 10 tháng 1 ở Osaka. Naniwa là 1 khu phố buôn bán sầm uất tại Osaka. Lễ mừng năm mới ở Naniwa thường bắt đầu bằng lễ hội này. Những thiếu nữ may mắn đuợc chọn sẽ ngồi trên kiệu diễu hành qua những con đuờng lớn và tung những thanh tre với lời nguyện cầu 1 năm mới buôn bán thành công tốt, thuận lợi cho mọi nguời

    U

    Lễ hội Ura-Bandai Hi no Yama:
    [​IMG]
    Đây là lễ hội lớn nhất tại Ura-bandai , nơi đuợc mệnh danh là vùng đất của sông hồ và núi lửa. lễ hội này đuợc tổ chức tại khu phố Kitashiobara vào ngày 21/7 hằng năm. Những vũ công sẽ khoác trên người bộ áo Yukata (áo kimono bằng cotton) và trình diễn vũ điệu "bon-odori" nổi tiếng. Những chiếc đèn lồng nhỏ với những ngọn nến lung linh sẽ được thả trôi lênh đênh theo dòng nước, mang theo ước vọng của mọi nguời về 1 cuộc sống an bình, hạnh phúc.

    Y

    Lễ hội Yuky (Lễ hội tuyết):
    [​IMG]
    Diễn ra ở Sapporo vào đầu tháng 2. Tại lễ hội này, nguời ta sẽ đặt 170 nguời tuyết lớn dọc theo những con đuờng chính của thành phố. Đây là lễ hội tuyết lớn nhất tại Nhật Bản . Người tuyết to nhất sẽ có chiều cao khoảng 15m. Vào buổi tối, các nguời tuyết đuợc thắp sáng bằng các bóng đèn diện và tạo nên những cảnh tượng đẹp tuyệt vờit
     
  7. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    Ẩm thực Nhật Bản

    -Người ta nói rằng người Nhật “ăn bằng mắt”. Thật vậy, thức ăn của người Nhật luôn được trình bày để làm vui mắt và kích thích sự thèm ăn. Họ dùng nhiều loại đĩa bát với đủ mọi hình dáng khác nhau từ trước khi người phương Tây vượt qua được cái giới hạn chặt chẽ của mình với các loại đĩa tròn .Về hương vị và trên hết là phong cách trình bày, nó phản ánh tính cách và văn hóa người Nhật. Trong bài này Seto cũng xin nói kĩ về Sushi- 1 món ăn đặc trưng của người Nhật, và được xem như 1 trong những biểu tượng của Đất nước mặt trời mọc.

    1/ Mì

    -Mặc dù gạo là nguồn tinh bột chính, nhưng người Nhật lại thích ăn mì hơn. Họ có rất nhiều loại mì khác nhau, từ loại udon to dày xù xù
    [​IMG]
    đến loại soba nhỏ xíu như tơ.
    [​IMG]
    Soba vẫn thỉnh thoảng được ăn nguội, dầm trong nước tương cùng vài cọng hành chẻ điểm xuyết trong tô. Ngoài ra trong những lễ hội ăn uống, còn có món mì nước độc nhất vô nhị. Mì nước được đổ vào máng tre để những người ăn đói ngấu dùng đũa vừa gắp vừa húp những sợi mì khi chúng chảy qua.

    2/ Rau củ

    -Rau củ Nhật Bản gần giống với rau củ châu Âu và châu Á. Chúng bao gồm loại lấy lá như rau chân vịt, lấy quả như cà tím, loại lấy hoa, lấy thân, lấy rễ. Có nhiều loại xa lạ với người phương Tây như fuki (khoai môn), daikon (1 loại củ cải) và thậm chí cả lá cây hoa cúc. Daikon xắt mỏng được coi là món ăn độc đáo của người Nhật, được ngâm chua hay để trang trí thức ăn.
    -Một loại củ chứa tinh bột khác thường và được yêu thích là konyakku. Người ta cho là nó xuất xứ từ Indonesia và ngày nay được trồng tại 1 số vùng ở Nhật Bản. Konyakku được ăn sống, luộc hay làm thành bột. Mặc dù giá khá cao nhưng nó rất được ưa thích.
    -Yam-1 một món ăn mà người Nhật gọi là “khoai tây núi”.
    [​IMG]
    Yam rất hay xuất hiện trong các bữa ăn, chúng thường được nướng trong lò hay hấp lên.

    3/ Cá
    -Ăn cá là niềm đam mê của người Nhật. Hầu hết người Nhật đều biết 1 thứ có thể gọi là thời gian biểu ăn cá: Khi nào thì ăn cá hồi sông, khi nào thì ăn cá hồi biển, khi nào thì ăn cá ngừ đại dương. Vì thế mà họ có rất nhiều món ăn chế biến từ cá. Những con cá nướng trên khay kim loại gọi là teppan, cá luộc trong nước tương, bánh cá và cá viên. Cá khô và cá ướp bonito (katshuo-bushi) thường dùng trong món súp miso (tương đậu nành sệt) và cá lạng thành miếng mỏng dùng để tô điểm cho món ăn. Món gia vị nổi tiếng nhất là món nước chấm đậm đặc làm từ cá luộc.
    -Người Nhật thích món cá sống, sasimi,
    [​IMG]
    một món cao lương mĩ vị đắt tiền được dùng như món khai vị, dùng với wasabi,
    [​IMG]
    một loại mù tạt hăng xè của Nhật Bản, cộng thêm cả những lát gừng thái mỏng nữa.
    *Một món rất thông dụng chính là Sushi (to be continued).

    4/ Hải sản khác
    -Ngoài cá, người Nhật còn ăn các loại hải sản khác nữa, trong đó có rong biển. Rong biển là nguồn cung cấp chính các khoáng chất và các nguyên tố vi lượng trong thực đơn hàng ngày của họ. Lươn cũng là 1 loại thức ăn đặc biệt. Kabayaki (lươn nướng) là món ăn khoái khẩu.
    [​IMG]
    Đầu tiên lươn được hấp chín rồi đêm nướng vàng và đặt trên mâm cơm. Người Nhật còn gọi tôm panda là tôm anh đào vì màu sắc hồng nhạt của nó.

    5/ Thịt
    -Thịt lợn được du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc qua ngả Triều Tiên, và những món thịt lợn ngon nhất vì thế đều ở phía nam. Họ có món sườn lợn (tonkatsu) và nhiều món khác, nhưng thường thì thịt lợn không xuất hiện trong thực đơn chính ở Nhật Bản.
    -Người Nhật chỉ ăn thịt bò như 1 món đặc biệt. Sukiyaki, những miếng thịt mỏng nấu với rau được ăn trước bữa tối là 1 món như vậy.
    [​IMG]
    Họ đã sáng chế món thịt bò kobe cho những khẩu vị đặc biệt của họ. Những con bò được vỗ béo và xoa bóp làm cho mỡ tản đều trong bắp thịt. Khi nấu chín, những hạt mỡ vón lại nằm rải rác khắp miếng thịt. Thịt bò kobe có lẽ là thứ thịt bò đắt nhất thế giới.
    -Thịt hươu là 1 trong những món khá khác thường của Nhật Bản. Người ta cho rằng loại hươu ngon nhất là ở Hokkaido, nơi hươu nai ăn những loại cỏ có tính thảo dược. Người Nhật cũng khoái khẩu món thịt ngựa. Giống như người Đức hay người Pháp, người Nhật thích hương vị và sớ thịt khác lạ của món thịt ngựa. Thỉnh thoảng họ còn ăn thịt ngựa sống như món sashimi.t
     
  8. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    6/ Trứng
    -Người Nhật có cách riêng của họ trong cách chế biến trứng. Chawan-mushi
    [​IMG]
    (nghĩa đen là “hấp cách thủy”) là món trứng đánh với gia vị rồi đem hấp. Trong các thành phố, các okonomiya (cửa hiệu trứng ốp-lếp) cung cấp cho khách ăn 1 thực đơn hoa cả mắt về các món ốp-lếp.

    7/ Tofu-Đậu phụ
    -Khi những người theo đạo Phật hạn chế ăn thịt thì đậu nành-1 loại thực phẩm có chứa nhiều đạm thực vật-trở thành 1 món ăn phổ biến. Tofu (đậu phụ,tàu hủ) là món ăn được phổ biến rộng rãi khắp nước Nhật.
    [​IMG]
    Đậu phụ được ăn nguội hoặc ăn nóng, nó cũng có thể được chế biến như món nước uống hay thức ăn, như món ăn với cơm hoặc món ăn tráng miệng, bữa ăn của người Nhật sẽ ko thành bữa ăn nếu ko có món đậu phụ.
    -Làm đậu phụ đã trở thành nghệ thuật của người Nhật. Các chùa chiền ganh đua nhau trong việc sáng chế ra các loại đậu phụ thượng hạng, và từ đó mà sinh ra thứ “đậu phụ mịn như lụa, tàu hủ non” của người Nhật. Một món khác thường được phục vụ trong các quán ăn là món “đậu nướng”, 1 miếng đậu nướng với nước chấm đặc và ngọt cùng một lát cá nướng đặt lên trên.

    8/ Shabu-Shabu và Tempura
    -Các món hầm nói chung được những người đi ngoài trời lạnh về thích ăn. Ở Nhật Bản cũng vậy, nhiều món hàm của Nhật được chế thêm tương. Họ gọi chúng là nimono. Có hàng trăm món hầm, tất cả đều ngon lành như món thịt kho tàu của người Hoa hay món gà nấu rượu của người Pháp. Người Nhật có 1 kiểu “nồi hầm” hay cái lẩu gọi là shabu-shabu, hay là cái “lục xục”.
    [​IMG]
    Từ này ko có nghĩa gì cả, nó chỉ là tiếng nước sôi lục xục, và người ta nhúng những miếng thịt và rau sống vào trong nước đó cho chín rồi ăn.
    -Tempura là tôm, cá, cà tím nhúng vào 1 loại bột đặc biệt rồi đem rán vàng.
    [​IMG]
    Người Nhật học món này từ người Bồ Đào Nha và thêm vào từ vựng ăn uống của họ 1 từ Bồ Đào Nha tempora (những món ăn đỡ miệng), rồi sau gọi chệch đi thành tempura. Người Bồ theo Công giáo kiêng thịt vào ngày thứ Sáu, vì thế họ gọi món cá tẩm bột chiên là “món ăn tạm”.

    9/ Đồ chua và gia vị thảo mộc
    -Các món ăn Nhật Bản có hương vị nhẹ nhàng, vì thế họ chế ra những món kích thích vị giác rất mạnh, đó là vô số các món đồ chua -tsukemono.
    [​IMG]
    Củ cải và dưa chuột muối chua-giòn tan, ngon lành, khác lạ, với 1 chút vị chua chua cay cay- để thêm vào cái cảm giác hoàn hảo cho các món ăn Nhật Bản. Những thảo mộc và gia vị của người Nhật rất gắt nhưng tinh tế, và chúng giữ 1 vai trò quan trọng trong nghệ thuật nấu nướng của người Nhật.

    10/Okonomiyaki
    Okonomiyaki, bánh xèo được bán rất khuya trong những quầy hàng như thế này.
    [​IMG]
    Người bán hàng đốt cái chảo thật nóng rồi đổ bột vào, cho thêm gia vị rồi gấp nó lại. Rưới thêm 1 ít nước sốt và thế là thực khách đã có 1 chiếc bánh nóng bỏng ngon lành.

    11/ Sake
    -Sake là loại đồ uống có cồn chủ yếu ở Nhật Bản.
    [​IMG]
    Nó được làm từ gạo và được uống nóng, dù một vài loại Sake được uống lạnh. Ngày nay uống Sake lạnh đang được coi là mốt mới.
    [​IMG]
    Một loại Sake ngọt-mirin được người ta uống thường xuyên. Nhiều loại đặc biệt như amazake, 1 loại Sake ngọt, và 1 loai khác có ngâm bộ vây cá ở trong.
    [​IMG][​IMG]t
     
  9. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    Sushi

    1/ Từ món ăn Sushi....

    -Nói đến ẩm thực Nhật Bản, món đầu tiên phải nhắc đến là Sushi. Vượt lên trên phạm vi 1 món ăn truyền thống, bên cạnh Sumo và Kimono, Sushi đã trở thành 1 trong 3 biểu tượng của đất nước Mặt trời mọc.

    -Thật ngạc nhiên khi biết rằng món ăn mang phong vị Nhật Bản sâu sắc, có lịch sử từ hơn 1000 năm trước này, lại được chế biến từ những nguyên liệu hết sức đơn giản và thân thuộc với người dân đảo quốc: Cá tươi sống và cơm.

    [​IMG]
    -Vào khoảng thế kỉ thứ 7, cơm chỉ được dùng nén bên ngoài cá tươi để muối cá. Sau 2 tháng đến 1 năm là có thể lấy cá muối ra ăn. Sau này, công đoạn muối được rút ngắn bằng cách trộn dấm gạo với cơm và người ta bắt đầu phát hiện ra hương vị độc đáo của lớp cơm chua bên ngoài khi ăn kèm với cá. Bước nhảy của Sushi được thực hiện vào cuối thế kỉ 19, khi nghệ nhân Hanaya Yohei đến từ Ido Tokyo gói 1 lát cá tươi sống trong 1 lớp cơm chua tạo thành 1 món ăn nhanh phục vụ khách ngay tại quầy. Loại thức ăn này nhanh chóng trở thành 1 loại Sushi phổ biến nhưng như thế có nghĩa Sushi luôn có gỏi cá như nhiều người lầm tưởng. Chính xác nhất, Sushi là sự kết hợp giữa cơm chua và các thành phần gia vị khác.
    [​IMG]
    - Cơm chua là loại cơm rắn hơn 1 chút so với cơm nấu bình thường. Muốn vậy, cơm phải nấu bằng nước nóng với ít nước hơn và quan trọng nhất là cơm phải được làm nguội nhanh khi vừa chín tới bằng cách đảo qua đảo lại trong các thùng gỗ to, sau đó cơm đã nguội được tẩm với dấm gạo. Trong văn hóa Nhật Bản, Sushi được nâng lên 1 loại hình nghệ thuật vì cách bày biện của món ăn này cũng quan trọng như hương vị của nó. Các nghệ nhân làm Sushi ở các vùng khác nhau trên đất nước Nhật gói tay, cuốn hay đổ khuôn rồi cắt thành các lát vừa ăn bày biện trên các đĩa tạo ra nhiều màu sắc tự nhiên và các hình thù khác nhau ở giữa các lát cắt như hình con bướm, con chuồn chuồn, hay hình bông hoa. Mỗi nghệ nhân bày theo phong cách của riêng mình và họ phải mất nhiều năm trời khổ luyện công phu để sáng tạo ra các món Sushi “ngon từ mắt ngon đi”.
    [​IMG]

    2/......đến nghệ thuật nyotaimori

    -Một trong những đỉnh cao của nghệ thuật bày biện món ăn này là bữa tiệc nyotaimori. Tiếng Nhật, nyotaimori có nghĩa là “ cơ thể được trang điểm của 1 người đàn bà”. Các nghệ nhân sẽ bày những miếng Sushi trên khắp thân mình của người thiếu nữ (Geisha). Nói 1 cách đơn giản, vai trò của cô gái là làm chiếc khay sống đựng thức ăn. Trên thân thể cô gái, người ta bày những miếng cá tươi có lót cơm chua ở khắp những nơi nào có thể như ngực, bụng, chân...Những năm xa xưa, ở Nhật, các Geisha thực hành nyotaimori cũng như nghệ thuật viết chữ đẹp, nghi thức dùng trà hay chơi đàn dây samisen. Nói chung là rất được ca ngợi. Nyotaimori dưới con mắt của người yêu truyền thống, là sự biểu hiện của sự phục vụ đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật.

    -Geisha được lựa chọn cho nyotaimori phải là những cô gái hết sức kiên nhẫn. Họ sẵn sàng và có đủ thể lực để nằm bất động tới 4 tiếng đồng hồ mặc cho thái độ của khách hàng có thế nào đi nữa. Ngay từ năm 16 tuổi, các cô đã được luyện tập hết sức khắt khe. Chúng ta hãy nghe lời kể của 1 trong những nghệ nhân nyotaimori về sự chuẩn bị cực kì công phu cho 1 bữa tiệc đặc biệt này.

    [​IMG]
    -Để chuẩn bị cho 1 bữa tiệc nyotaimori, Geisha phải dành hơn 1 tiếng rưỡi đồng hồ để tắm rửa 1 cách tỉ mỉ. Lông ở chân và nách phải được tỉa tót hoặc cạo thẩm mĩ. Không được sử dụng bất kì 1 xà phòng có mùi thơm nào để tắm. Lý do là ko được để ảnh hưởng đến mùi vị của thức ăn. Sau lần tắm nước nóng đầu tiên, Geisha được xát lên người 1 loại xà phòng đặc biệt và tất nhiên là nó cũng ko có mùi thơm. Tiếp theo, người ta dùng 1 túi vải đựng cám xát kĩ để tẩy bỏ lớp biểu bì chết của da. Sau đó là tắm nước nóng lần 2, rồi lại tắm 1 lượt nước lạnh để kết thúc. Mục đích của lần tắm nước lạnh là để tránh đổ mồ hôi. Vậy là xong! Vấn đề bây giờ là các nghệ nhân sẽ sắp món theo truyền thống của từng loại Sushi.

    -Có 1 qui định bất thành văn về cách sắp xếp trên cơ thể của Geisha. Chẳng hạn, cá trình sẽ được xếp trên các bộ phận kín của cô gái vì theo quan niệm của người Nhật, cá trình ảnh hưởng đến khả năng tình dục. Cá hồi đặt ở vùng tim vì nó được xem như là thứ cung cấp sức mạnh cho người ăn....Tuy nhiên, đấy là cách sắp xếp ngày xưa thôi. Bây giờ thì đã khác. Người ta xếp Sushi chủ yếu là theo cách trang trí cho đẹp mắt ở từng bộ phận trên khắp cơ thể của Geisha. Mái tóc xõa ra, trải xung quanh đầu được phủ đầy hoa. Những quy định ước lệ về cách sắp xếp cũ hầu như đã bị mai một.

    -Mặc dù vẫn được ca tụng như là một trong những nghệ thuật ẩm thực đỉnh cao của Nhật Bản song nyotaimori giờ đây đang bị lên án khá nhiều. Thậm chí, có người còn cho rằng đây là 1 thú ăn chơi đàng điếm. Có vẻ quan niệm này đang được dư luận Nhật Bản đồng tình vì cho rằng nó hạ thấp nhân phẩm của người phụ nữ Nhật Bản. Nhưng dù gì đi chăng nữa thì người ta cũng dễ dàng thống nhất là bữa tiệc nyotaimori thực sự là 1 thú chơi xa xỉ và quá tốn kém. Giá cho 1 bữa tiệc 2 Geisha ở Nhật hiện vào khoảng 4000 USD, chưa kể đồ uống. Không phải ai cũng có thể thưởng thức!!!

    -Nhưng các bạn thì vẫn có thể có 1 cách khác để thưởng thức Sushi. Bạn không cần đến Nhật Bản mà ngay giữa Thủ đô Hà Nội cũng có thể tận hưởng được cảm giác ấy tại Nhà hàng Edo ở Khách sạn Deawoo Hà Nội. Đương nhiên là ở đây thì bạn ko thể nào được chiêm ngưỡng bữa tiệc nyotaimori đâu^^. Nhưng ko sao! Bạn sẽ được anh Hiroyuki Ikeda, bếp trưởng bếp Nhật, người đã làm quen với món ăn truyền thống này từ năm 15 tuổi, khuyên bạn dùng Sushi kèm với tương đậu nành hay tương cải, gừng và xì dầu.

    -Đồ uống có thể là 1 chén rượu Sake ấm hoặc lạnh tùy sở thích của bạn, 1 chén rượu Shoju hay 1 tách trà xanh truyền thống cũng ko kém phần thi vị.

    -Bạn hãy nhớ, để thưởng thức Sushi, bạn phải vận dụng đến cả khứu giác, thị giác, và vị giác. Thật không có gì thú vị hơn là được tận mắt trầm trồ dõi theo 1 nghệ nhân tài ba thao tác như múa các công đoạn của món Sushi, rồi ngay sau đó, lại được thưởng thức hương vị ngon và lạ của tác phẩm nghệ thuật đẹp như vẽ này.
    [​IMG]t
     
  10. Mikio Almasy

    Mikio Almasy Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    11/7/03
    Bài viết:
    278
    Vài điều nên biết về Nhật Bản:
    Diện tích: 377,801 km²
    Dân số: 125,92 triệu người.
    Thủ đô: Tokyo với 11,8 triệu dân.
    Cả nước có 9 tỉnh, gồm có:
    Hokkaido, Tohoku, Chubu, Kanto, Tokai, Kinki, Chugoku, Shikoku, Kyushu.

    Các lễ hội:
    1/1: Ganjitsu / New Year
    10/1: Seijin no Hi / Day of majority
    11/2: Kenkoku Kinenbi / National Foundation Day
    3/3: Hina Matsuri / Girl's (Doll's) Festival
    21/3: Shunbun no Hi / Vernal Equinox Day
    29/4: Midori no Hi / Green Day
    3/5 -> 5/5: Golden Week Golden Week
    3/5: Kenpo Kininbi / Constitution Memorial Day
    5/5: Kodomo no Hi / Children's Day
    15/9: Kehro no Hi / Respect-For-Age Day
    23/9: Shuhbun no Hi / Autumn Equinox Day
    10/10: Taiku no Hi / Health-Sports Day
    3/11: Bunka no Hi / Culture Day
    23/11: Kinroh Kansha no Hi / Labor Thanksgiving Day
    23/12: Tennoh Tanjoubi / Emperor's Birthday

    Khí hậu.
    Mùa xuân: vào cuối tháng 3, tháng 4, tháng 5 March, April, May
    Mùa mưa: vào tháng 6.
    Mùa hạ: vào cuối tháng 6, tháng 7, tháng 8 và một lần nữa vào tháng 11.
    Mùa thu: vào cuối tháng 9, tháng 10, tháng 11.
    Mùa đông: vào tháng 12, tháng 1, tháng 2 và một lần nữa vào tháng 3.

    Tiếng Nhật.
    Khi nói, người Nhật tất nhiên là xài tiếng Nhật. Nhưng khi viết họ lại có thể xài nhiều loại chữ khác nhau.
    Người Nhật có tới 3 bảng chữ cái để có thể thoải mái xài. Đó là: Kanji, Hiragana, và Katakana.

    1/ Kanji.
    Kanji, không gì khác, chính là tiếng Hán. Nó đã trở nên phổ biến ở Nhật cũng như ở Hàn Quốc từ thế kỉ thứ 5.

    2/ Hiragana và Katakana.
    Đây chính là hai loại quốc ngữ của Nhật Bản. Hai loại đó được biến chuyển thừ chứ Kanji để trở thành quốc ngữ của Nhật từ thế kỉ thứ 9. Chữ Katakana khá giống chữ Kanji với những nét thẳng và cứng dù đã được chuyển biến còn chữ Hiragana thì lại có những đường nét tròn trịa và mềm mại. Cả hai loại chữ này cùng có 46 chữ trong bảng chữ cái và chữ Hiragana thì đương nhiên là... khó nhìn hơn.

    3/ Một số câu nói thông dụng của người Nhật (hơi bị cần nếu bạn đi du lịch Nhật đó!^^).
    a. Greeting - Aisatsu.
    Hello - Konnichiwa.
    Good morning (for friends, family) - Ohayo.
    Good morning (honorific) - Ohayo gozaimasu.
    Good evening - Konbanwa.
    Good night (for friends, family) - Oyasumi.
    Good night (honorific) - Oyasumi nasai.

    b. Important - Taisetsu
    Excuse me, ... - Sumimasen, ...
    Thank you - Arigatoh.
    Thank you (honorific) - Arigatoh gozai mashita.
    Thank you very much - Dohmo arigatoh.
    Thank you very much (honorific) - Dohmo arigatoh gozai mashita.

    b. Introdution - Shohkai
    My name is XXX (female) - Watashi wa XXX desu.
    My name is XXX (male) - Boku wa XXX desu.
    What is your name? - Anata no onamae wa?
    What is your name? (honorific) - Anata no onamae wa nan desuka?
    Good bye - Sayonara.
    How much is it? - Kore wa ikura desuka?
    I buy it - Kore wo kudasai.
    It was delicious - Oishikatta desu.


    Cảm ơn bình thường thì ko cần chia quá khứ đâu, chỉ khi người ta đã làm gì nhiều nhiều lớn lớn mới phải ~mashita. Còn nói chung thì là Watashi hết, nếu male dùng Boku thì female tương ứng sẽ là Atashi (chung sắc thái). Còn nếu dùng "anata no onamae" thì chắc sẽ bị coi là kỳ cục đó :)).Kore wo kudasai = Give me this ~ I'll take/buy this. Nói chung mấy cái câu tiếng Nhẹt này cũng chẳng ai quan tâm đâu, post lên phí công. Có post thì post vô cái topic của Fire Emblem đó.Với cả bác nên chuyển thành Nhật Việt chứ để Nhật Anh coi ác liệt wa' :D
    ***Cảm ơn đã nhắc nhở. But Mikio có biết tiếng Anh đâu! Dân pháp như Mikio thì chỉ có chút tiếng Anh vớ vẩn thui. Với lại Mikio cũng lười dịch quá nên cứ để nguyên***t
     
  11. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    Kiến trúc Nhật Bản

    KIẾN TRÚC

    Kiến trúc Nhật Bản là nền kiến trúc của gỗ và các vật liệu thiên nhiên lấy từ những khu rừng phong phú trên núi và từ nhu cầu phải có những cấu trúc nhẹ chiu được các cơn động đất. Những hình thức cơ bản lấy từ Trung Quốc, nhưng người Nhật đá phát triển những phong cách kiến trúc của riêng mình.
    Ngôi nhà truyền thống là một cấu trúc có khung bằng gỗ. Giấy và cói được dùng để che kín khoảng trống giữa các khung. Người ta sáng chế ra cửa trượt bằng giấy và khung gỗ: nó không cần khỏang không lúc mở cửa. Gỗ hấp thụ hơi nước mùa hè và thoát ra hơi nước vào mùa đông. Những mái tranh lợp dày cả mét rất thông dụng.

    Tuy nhiên những loại vật liệu này lại rất dễ cháy, vì thế những nhà kho chứa đồ quý giá thường xây tường bằng đất nện. Nhiều công trình kiến trúc vào loại đẹp nhất Nhật Bản đã bị lửa thiêu rụi và nhiều đền đài “cổ” thực ra chỉ là những công trình được phục chế trên nền cũ đã bị ngọn lửa san phẳng.

    CÁC ĐỀN ĐÀI

    Kiến trúc cổ nhất Nhật Bản là ngôi chùa ở Nara, chùa Horyuji, còn có tên là chùa Pháp bảo.

    [​IMG]
    Chùa Horyuji​

    Nó được xây dựng lần đầu tiên vào năm 607 và dựng lại năm 712 sau một vụ hỏa hoạn. Chùa Horyuji là trung tâm của nghệ thuật và học thức, và các học thuyết của nó ảnh hưởng tới giới trí thức trên toàn Nhật Bản. Ngôi chùa được Hoàng tử Shotoky xây dựng nên, hoàng tử là người đã hòa giải sự xung đột giữa Thần đạo và Phật giáo; chính từ Horyuji mà Phật giáo đã lan truyền khắp Nhật Bản. Ngày nay ngôi chùa chứa vô số những báu vật vô giá, bao gồm bức tượng Phật bằng gỗ long não và tấm thảm thêu cổ nhất còn tồn tại ở Nhật Bản, được gọi là “tấm thảm của trời”.

    Chùa Horyuji ở Nara xây dựng lại năm 712 là kiến trúc cổ nhất ở Nhật Bản. Những bức tượng phật thờ trong chùa này được tin là những bức tượng nguyên gốc.

    Công trình bằng gỗ lớn nhất thế giới, cũng ở Nara, là Điện Phật tổ của Taodaiji hay Ngôi đền Phương Đông Vĩ đại. Công trình hiện thời - cao khoảng 49 mét, dài 57 mét và rộng 50 mét - được xây dựng lại vào năm 1708 sau khi ngôi đền gốc bị thiêu rụi. Nó cất giũ pho tượng đồng lớn nhất thế giới, một hình ảnh của Đức Phật vĩ đại, cao 32 mét.

    Các đền đài Nhật Bản thường là một nhóm vài công trình: một ngọn tháp, một ngôi điện lớn, đôi khi có thêm một sảnh đường để thuyết pháp, nhà ở cho sư sãi và ni cô. Chùa chiền là những công trình tuyệt đẹp được xây dựng để có thể chịu được động đất. Trận động đất khủng khiếp ở Kanto năm 1923 đã tàn phá 580.000 ngôi nhà, nhưng những ngôi chùa gỗ 5 tầng cao 32 mét ở Kaneiji tại Công viên Ueno, Tokyo,vẫn còn nguyên.

    [​IMG]


    CÁC LÂU ĐÀI

    Nhiều đô thị Nhật Bản được xây dựng như những thành phố lâu đài. Các lâu đài được xây dựng có tính đến yếu tố quấn sự: một vị trí bao quát trên cao hay một vị trí được bảo vệ bởi sông nước, và có những hành lang như mê lộ dẫn từ cổng vào, chúng làm chậm lại tốc độ tấn công của kẻ thù.

    Các lâu đài của Nhật Bản còn có những đặc điểm đặc biệt. Chúng không được xây dựng để chống lại những cuộc tấn công bằng pháo binh, vì pháo hiếm khi được sử dụng trong chiến tranh phong kiến. Chỉ những vòng tường bên ngoài được thiết kế với mục địch phòng thủ; và nếu chúng bị chọc thủng, lâu đài sẽ rơi vào tay kẻ tấn công. Pháo đài của lâu đài (pháo đài trong cùng, thường là một ngọn tháp) không được thiết kế như phòng tuyến bảo vệ cuối cùng như các lâu đài ở châu Âu. Những bức tường xây bằng đá nhưng donjon (pháo đài) lại bằng gỗ. Phần lớn những lâu đài còn lại cho đến ngày nay thường được xây dựng lại vào lúc này hay lúc khác.

    Các lâu đài Nhật Bản được xây dựng để nhấn mạnh hay làm biểu tượng cho quyền lực của các daimyo (thủ lĩnh) sống ở trong đó,

    [​IMG]

    vì đó là tính cách của người Nhật. Mặt ngoài phải gây cho người ta sự sợ hãi hoặc khâm phục, vì thế nhiều lâu đài của họ trông rất đẹp.

    Một trong những lâu đài đẹp nhất và được biết tới nhiều nhất tại Nhật Bản là lâu đài Himeiji cách Osaka hơn 30 km về phía đông.

    [​IMG]
    Lâu đài Himeiji ​

    Nó được xây dựng năm 1609, bởi Terumasa Ikeda, con rể tin cẩn của Shogun Ieysa Tokugawa, như một công trình phòng thủ chống lại các lãnh chúa miền tây.

    Những ngọn tháp của nó, với những mái cong và những bức tường trắng nổi lên trên những bức tường đã xám nặng nề, là một cảnh tượng rất tráng lệ. Tòa lâu đài tạo ra ấn tượng về sự bền vững không thể đánh chiếm được, nhưng nó vẫn có những đường nét duyên dáng tao nhã. Nó còn có tên khác là Lâu đài Hạc Trắng, có thể là do nó có hình dáng của một con hạc trắng khổng lồ hoặc một bầy hạc trằng đang bay.

    Đối diện phía bên kia, cách hơn 20km về phía đông lâu đài Himeiji là tàn tích của lâu đài Okayama. Một khối đen hoàn toàn, nổi tiếng với cái tên Lâu đài Quạ.

    [​IMG]
    Lâu đài Okayama​

    Nó được xây dựng năm 1573, và ngày nay chỉ còn lại hai tháp canh của lâu đài.

    Lâu đài Osaka có cội rễ lâu đời trong lịch sử.

    [​IMG]

    Tòa lâu đài nguy nga tráng lệ này phản ánh tham vọng và uy quyền của Shogun Hudeyoshi Toyotomi, người ta đã xây dựng tòa lâu đài nguyên gốc trong những năm 1583 đến 1586, với 630.000 nhân công. Nó nằm ở một vị trí chiến lược, rộng 2km và dài 3km. Năm 1615, lâu đài Osaka bị vây hãm và thiêu hủy bởi tay Ieyasu Tokugawa, người đã cướp địa vị Shogun từ tay con trai Hideyoshi Toyotomi. Ông ta ra lệnh phá hủy hết mọi dấu vết của tòa lâu đài cũ và xây dựng một tòa lâu đài khác theo thiết kế hoàn toàn mới. Ông ta muốn tiêu diệt tận gốc mọi biểu tượng còn lại của Hideyoshi Toyotomi, và xây dựng một lâu đài thế vào đó để tượng trưng cho quyền lực của ông đối với các lãnh chúa miền Tây.

    Lâu đài mới nhỏ hơn và không có những hào nước bao quanh phía ngoài như ở lâu đài cũ. Hỏa hoạn và một cuộc nội chiến ngắn năm 1867 đã phá huỷ nó. Công trình hiện nay là một bản sao của lâu đài cũ, được xây dựng năm 1931 bằng bê tông, gồm cả vài ngọn tháp xây dựng từ năm 1620.t
     
  12. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    Một nét văn hóa đầu xuân​


    Theo truyền thống Nhật Bản, vào dịp năm mới, người ta có tập tục tặng nhau “oshi-e hagoita”- tức là những chiếc vợt được trang trí theo kiểu oshi-e (tranh vải nổi). Mỗi oshi-e hagoita là 1 tấm gỗ cây ngô đồng nhỏ, được trang trí các bức hình sống động và quyến rũ với màu sắc nổi bật. Người Nhật Bản thường dùng hagoita như chiếc vợt để chơi môn hanetsuki (môn thể thao truyền thống của Nhật Bản, giống môn cầu lông) vào thời điểm đầu năm mới, chúng ta có thể thấy trò chơi này trong truyện Đôrêmon.

    [​IMG][​IMG]

    Nghệ thuật oshi-e có nguồn gốc từ Trung Quốc và du nhập vào Nhật Bản khoảng thế kỉ XVIII. Ban đầu chỉ dành cho phu nhân cung đình và giới quý tộc ở Kyoto. Họ dùng những mảnh vải may kimono thừa dán lên ví hoặc màn, chèn bông đệm phía sau để tạo nên cái nhìn 3 chiều. Kỹ thuật này dần dần được biết đến ở Edo (Tolyo ngày nay) vào thế kỉ XVII rồi phổ biến trong dân chúng. Thời ấy, phụ nữ thích làm màn che và những chiếc hộp nhỏ có dán hình oshi-e bên ngoài. Đến thế kỉ XIX, nghệ thuật này phát triển lên 1 bước mới. Người ta khắc hình các nghệ sĩ “kabuki” (hát bội Nhật) nổi tiếng lên các bản in gỗ được gọi là ukiyoe, mô tả khuôn mặt và dáng điệu nghệ sĩ bằng các chi tiết 3 chiều thật sinh động.

    [​IMG]
    Trò chơi hanetsuki

    Phía sau tấm vải oshi-e người ta độn nhiều bông vải nếu hình khắc là các nam nghệ sĩ kabuki, cho hình tượng nổi bật 1 cách mạnh mẽ. Còn nếu hình khắc là các nữ nghệ sĩ hát bội thì người ta độn ít bông vải hơn, cho hình tượng có vẻ mềm mại hơn. Từ đây oshi-e hagoita được nhiều người Nhật ưa thích, dùng làm vật trang trí cho dịp lễ Tết. Hàng năm, các nghệ nhân thủ công tổng kết số lượng oshi-e hagoita đã bán được, làm cơ sở bình chọn tiếng tăm của các nghệ sĩ kabuki.

    [​IMG]
    Đây là 1 bản ukiyoe

    Ngày nay, oshi-e hagoita đã trở thành 1 nét văn hoá ngày xuân đặc sắc của Nhật Bản.Vào sáng mùng 1 Tết, người ta tặng nhau và trang trí oshi-e hagoita trên các bàn thờ gia đình và những nơi trang trọng trong nhà để nhớ về cội nguồn truyền thống của tổ tiên. Nhiều người Nhật cũng thường tặng bé gái mới sinh 1 tấm oshi-e hagoita để chúc mừng cái Tết đầu tiên của cháu. Những tấm vợt mô tả cái đẹp thời xưa, như lời cầu chúc cháu bé luôn tươi tắn như các bức ảnh ukiyoe và mong sao cháu bé giữ mãi được nét văn hoá tao nhã này trong hành trang đời mình.

    [​IMG][​IMG]
     
  13. Seto

    Seto Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    31/3/03
    Bài viết:
    318
    Nơi ở:
    Cosmo Canyon
    Sân khấu Nhật Bản

    Sân khấu Nhật Bản, một hình thức sân khấu luôn gắn chặt với múa và âm nhạc, khởi đầu từ thề kỷ thứ 7 với các điệu múa nghi lễ của Thần đạo. Các điệu múa đó ngày nay vẫn còn đựơc trình diễn theo cách thức hầu như không thay đổi. Kịch Noh được phát triển từ thế kỷ 14 là một trong những nhánh chính của sân khấu Nhật Bản.

    [​IMG]
    Sân khấu kịch Noh

    KỊCH NOH: Các vở kịch Noh là sự hòa trộn của múa và kịch bắt nguồn từ các điệu múa của Thần đạo và giáo lý Phật giáo. Chủ đề chính thường là về tội sát nhân, về kiếp sau, sự phù du của cõi đời này, quyền năng của Đức Phật và những ham muốn xấu xa. Mặc dù chủ đề của các vở kịch khá nghiêm trang, nhưng trang phục kịch Noh rất nhiều màu sắc, được thuê thùa công phu với chỉ bạc chỉ vàng.

    Các động tác kịch trên sân khấu luôn trong hình thức “hồi tưởng” từ ký ức của các nhân vật. Chúng mờ ảo, bình dị và trữ tình với kịch bản nặng nề về ám dụ và tượng trưng. Lời thoại - lối nói cổ xưa với giọng ê a trầm bổng – làm khán giả ngày nay không thể hiểu nổi, và thậm chí cả những người Nhật có học cũng cần có kịch bản để theo dõi vở kịch.

    [​IMG][​IMG]
    1 số trang phục trong vở kịch Noh

    Kịch Noh thoạt đầu là trò tiêu khiển được trình diễn tại sân các đền miếu cho dân chúng thưởng thức, nhưng giới quý tộc đã tiếp nhận nó như là kịch của mình, và đến thời Tokugawa thì chính thức tước đoạt kịch noh của quần chúng. Chỉ tầng lớp Samurai mới được phép xem kịch Noh, mặc dù vì chịu ảnh hưởng của Phật giáo, kịch noh hiếm khi có các vai samurai.

    Kịch Noh đạt tới điểm cực thịnh vào thế kỷ 15, rồi suy tàn và được hồi phục vào đầu thế kỷ 20. Một chương trình kịch Noh truyền thống sẽ bao gồm năm vở kịch noh cùng với ba hay bốn vở kịch kyogen xen kẽ.

    KYOGEN: Kyogen là lọai kịch giải trí khôi hài. Từ kyogen có nghĩa là “những lời lẽ điên rồ” (cuồng ngôn), và cũng như noh, các diễn viên đều là đàn ông. Kyogen bộc lộ nhiều khía cạnh quan trọng trong tính cách người Nhật.

    [​IMG]
    1 nghệ sĩ kịch kyogen

    Các vở Kyogen thoạt đầu được biểu diễn tại đền miếu nhằm giảm bớt căng thẳng do các buổi lễ Phật kéo dài. Chúng thường rất ngắn, rất khôi hài và không bao giờ có quá ba nhân vật. Khoảng một phần ba các vở kịch kyogen là về anh chàng người hầu thích trêu chọc vị lãnh chúa của mình. Vị lãnh chúa toàn làm những chuyện xem ra rất kỳ quặc, nhưng rốt cuộc lại tỏ ra rất đúng đắn. Ngày xưa, thường dân và các lãnh chúa cùng xem các vở kịch ngắn này. Một phần ba các vở kịch kyogen khác là những lời châm chọc hài hước nhắm vào đạo Phật, cho dù Phật giáo sau đó đã trở thành tôn giáo của tầng lớp quý tộc và các vở kyogen thường được biểu hiện trong các chùa chiền Phật giáo.

    Trang phục của kịch kyogen là lối phục sức của thế kỷ 15, nhưng ngôn từ thì lại theo phong cách của thế kỷ 17: không giống như kịch noh, kịch kyogen được truyền khẩu từ đời này sang đời khác và chỉ đến thế kỷ 17 mới được ghi chép ra giấy.


    KABUKI:
    Ba ký tự tạo nên từ kabuki có nghĩa là hát, mùa, và sự khéo léo (ca vũ kỹ). Vào thời hoàng kim của mình, kabuki thu hút hàng ngàn người xem. Kabuki nở rộ dưới thời Genroku (1673-1735) khi các nhà văn nhà thơ như Basho đã đem lại một xung lực mới cho nghệ thuật. Kịch tác gia vĩ đại nhất Nhật Bản, Monzaemon Chikamatsu (1653-1725) trong thời kỳ rực rỡ nhất của mình là người tiên phong cho một triều đại các diễn viên: dòng Danjuro. Kabuki đạt tới cực thịnh vào thế kỷ 18.

    [​IMG]

    Kabuki là thể lọai kịch mê-lô và hoành tráng. Cao trào của vở kịch đòi hỏi một điệu bộ diễn xuất đặc biệt gọi là mie, trong tiếng mõ gỗ vang rền, người nghệ sĩ tung ra một điệu bộ trịnh trọng, khoa trương, mắt mở lớn và láo liêng. Không giống nhưn trong kịch noh, nơi tấm phông luôn chỉ vẽ có một cây thông, kabuki có những đạo cụ phức tạp, như những tấm màn thay nhau thả xuống và một sân khấu quay tròn. Có sự tiếp xúc chặt chẽ giữa các nghệ sĩ và khán giả, nhờ một lối đi vươn dài ra tận chỗ người xem. Các nghệ sĩ nói vài lời với khán giả, và vài người trong số khán giả sẽ hét to những lời đáp trả của họ trong khi vở kịch vẫn đang diễn ra trên sân khấu.

    Cốt truyện của kabuki xoay quanh các đề tài người dân thường cố vươn lên tầng lớp cao hơn, người thay hình đổi dạng, đàn bà biến thành đàn ông, những cuộc đấu kiếm khó tin, những cặp tình nhân thể nguyện tự sát cùng nhau và về hành động lăng mạ khủng khiếp với người Nhật Bản – dùng dép hoặc guốc đập vào ai đó.

    BUNRAKU: Bunraku tức là kịch rối, được phát triển từ hình thức kể chuyện sang hình thức nhạc kịch vào thế kỷ 16. Kể chuyện vẫn còn rất được hâm mộ tại Nhật Bản: mọi đài truyền hình đều dành ít nhất một giờ mỗi ngày cho môn nghệ thuật truyền thống nửa kể chuyện nửa hát này.

    [​IMG]
    Bunraku hay kịch rối. Búp vê được một vài người điều khiển và họ chẳng cần đứng nấp sau sân khấu.​


    Ngày nay, con rối là những cỗ máy phức tạp cao tới một mét. Để điều khiển một con rối như thế phải cần đến ba người đàn ông. Những người điều khiển rối không giấu mình đi, nhưng ngay khi vở diễn bắt đầu thì khán giả sẽ quên ngay người điều khiển.t
     
  14. Game_Otaku

    Game_Otaku Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    22/1/03
    Bài viết:
    72
    LỊCH SỬ ORIGAMI

    1.Khái quát:
    [​IMG]
    Origami, hay nghệ thuật xếp giấy là một trò giải trí truyền thống của người dân Nhật Bản, và chỉ bằng một tờ giấy vuông nhỏ là ta có thể gấp thành nhiều hình dạng khác nhau như những con thú dễ thương hay những cây hoa xin đẹp. Do vật liệu của môn này khá đơn giản nên nó dễ dàng được yêu thích ở bất cứ nơi đâu. Rất nhiều người dân Nhật Bản yêu thích trò chơi này ở nhà cũng như ở trường học. Hình Origami được biết đến nhiều nhất, hình mà các đứa trẻ đã được cha mẹ hoặc ông bà chúng dạy cho, đó là con hạc (con cò, sếu). Những hình khác gồm có hoa, bướm, cua, và thậm chí những hình dạng khó như là cây thông Giáng Sinh. Origami đặc biệt được các bé gái yêu thích.

    2.Lịch sử của Origami.
    A. Tiền thân của Origami
    [​IMG]
    Chúng ta biết rất ít về nguồn gốc của Origami
    Vài ý kiến cho là Origami có nguồn gốc từ Trung Quốc khỏang 2000 năm trước. Nhưng điều này hầu như không đúng. Quan niện này được phỏng đoán dựa trên việc cho rằng Origami bắt đầu có ngay sau khi phát minh ra giấy, chẳng có chứng cớ nào xác minh điều này. Giấy của triều Hậu Hán chẳng cho ta thấy chút bóng dáng nào về Origami.
    Tiếng Trung Quốc chữ "giấy" là zhi, nó là một vật được phát minh ra để viết lên thay cho lụa. Trong phần giải thích nguồn gốc từ "giấy"-kami trong tiếng Nhật, nói rằng giấy đã từng được làm từ gỗ cây bulo đọc là kaba hay vót từ thân tre hoặc các gỗ khác đọc là kan. Tất cả chúng đều là vật dùng để viết lên. Như vậy hầu như chẳng có tài liệu nào từ thời ấy cho thấy ngoài công dụng để viết lên thì giấy còn có thể dùng để xếp nữa cả.
    [​IMG]
    Những ý kiến khác cho rằng Origami có nguồn gốc từ triều đại Heian của Nhật Bản. Điều này hầu như lại sai một lần nữa. Họ đã tham khảo từ một câu chuyện kể về Abe-no Seimei người đã làm một con chim bằng giấy và biến nó thành một con chim thật, hay từ một câu chuyện khác nói về Fujiwara-no Kiyosuke người đã gửi cho cô bạn gái cũ của mình một con ếch cuộn bằng giấy. Chẳng mấy có lý vì nó chỉ là truyện cổ tích, tuy nhiên cái làm người ta tin đó là những vật kể trên đã được làm ra từ giấy.
    Ở Nhật, họ dùng giấy trong việc gói quà gọi là tatogami hay tato. Ngày nay, họ chủ yếu dùng cách đó gói kimono. Việc này thật sự có từ thời Heian. Nhưng nó không có nghĩa là khởi nguồn của Origami vì người ta chỉ gói giấy thành mỗi hình vuông.
    Họ dùng giấy kẻ sọc gọi là shide hay heisoku, và búp bê giấy hitogata trong nghi thức của đạo Shinto. Chúng cũng có nguồn gốc cổ xưa. Tuy nhiên, ngày xưa ở Nhật chúng chẳng bao giờ được làm từ giấy cả.Hơn nữa ngay cả ngày nay chúng cũng không nhất thiết phải là búp bê gấp từ giấy. Chúng ta có thể thấy chẳng có mối quan hệ nào giữa tôn giáo của Nhật Bản và ngồn gốc của Origami cả. Từ "giấy" trong tiếng Nhật và từ "thần" đọc cùng âm với nhau, đều là kami, nhưng trong tiếng Nhật cổ thì cách nhấn âm khác nhau.
    Ta dùng từ Origami từ thời Heian của Nhật. Tuy nhiên cách viết khác và nó cũng không thuần túy là chỉ việc gấp giấy. Một Origami là một mảnh giấy hình phong cảnh được vẽ ở một nửa, nửa kia trắng và thường được viết chữ, thơ... lên đó. Ở Nhật Bản ngày nay, từ origami-tsuki (từ ghép có gốc origami) có nghĩa là "xác thực".
    Ở Nhật họ không dùng từ origami để chỉ việc gấp giấy cho đến thời kỳ Showa. Origami được gọi là "orisue" hay "orikata" vào thời Edo, và "orimono" vào cuối thời Edo đầu thời Showa.t
     
  15. Game_Otaku

    Game_Otaku Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    22/1/03
    Bài viết:
    72
    B. Origami cổ điển Nhật Bản
    Tư liệu về Origami cổ xưa rõ ràng nhất là bài thơ ngắn của Ihara Saikaku viết năm 1680. Nó có đoạn là : Rosei-ga yume-no cho-wa orisue ( tạm dịch là "những con bướm trong giấc mơ của Rosei có lẽ là orisue ). Trong đó ông gọi một hình Origami là Ocho Mecho ( bướm đực và bướm cái) giống như gọi bawfng từ "orisue". Người ta dùng kiểu nàu để gói các chai rượu Sake trong ngày lễ cưới.
    Origami cũng nói về một nghi thức của giới Samura bắt nguồn từ những gia đình như Ogawara, Ise, Imagawa, và những gia đình khác. Ocho Mecho, hay Noshi, đó cũng là một phần trong nghi thức Origami này. Có rất nhiều hình được gấp với nhiều mục đích khác nhau.
    Theo cuốn " Tsutsumi-no Ki" (1764) của Ise Sadatake thì có ý nói nguồn gốc của Origami là từ thời Muromachi.
    Những hình Origami quen thuộc hơn gọi là Orizuru và Yakko-san đã mô tả trong ukiyoe hay những đoạn của hình gấp trên kimono từ thế kỷ 18. Thật sự, Yakko-san không sống vào thời kỳ này.Cách gấp này cũng được gọi là Komoso.
    [​IMG]
    Cuốn "Ramma zushiki" ( 1734) đã dạy gấp hình chiếc thuyền, Sanbo và Origami đã chỉnh sửa nhiều gọi là Tamatebako, ngoài ra Orizuru và komosho đã có sẵn. Chúng ta không biết được là những mẫu này xuất hiện từ khi nào.
    Vài loại khác như là Origami giải trí từ nghi thức Origami. Nhưng họ không vẽ đường ranh giữa chúng từ thời Edo. Trong cuốn "Koshoku Ichidai Otoko" của Saikaku viết năm 1682, vai chính Yonosuke làm một "orisue" của Hiyoku-no Tori, được cho rằng là một thứ giống với Orizuru.
    Adachi Kazuyuki và Origami để giải trí của ông là một ngoại lệ thật riêng biệt khi ông ta ghi lại rất nhiều hình Origami trong cuốn " kayaragusa" của ông khỏang năm 1845. Từ "kayaragusa" của cuốn sách này đôi khi bị đọc nhầm thành "kan-no Mado", do sai sót của việc sao chép.
    Akisato Rito cho xuất bản cuốn " Sembazuru Orikata" năm 1797. Từ "Sembazuru"theo nghĩa đen là một ngàn con hạc nhưng ngày nay nó có nghĩa là hàng tá, và nó có quan hệ với việc xếp Orizuru từ một tờ giấy rời. Đôi khi nó được cho là quển sách Origami cổ xưa nhất trên thế giới. Nhưng nếu chúng ta không phân biệt hai loại hình origami thì cuốn "Tsutsumi-no Ki" cổ hơn.
    Dựa trên những nguồn tư liệu đã nói trên và các tư liệu khác như "Orikata-dehon Chushigura" (1800) của một tác giả không biết tên, chúng ta có thể liệt kê ra những đặc trưng của Origami cổ điển Nhật Bản. Họ xếp giấy thành nhiều hình dạng khác nhau bằng việc cắt xén rất nhiều. Họ cũng tính toán nhiều khi gấp, và việc thiết kế phụ thuộc vào loại giấy làm tay whashi của Nhật. Để làm phần có màu, họ phải qúet những màu khác nhau lên giấy, hoặc vẽ lên chúng.

    C. Origami cổ điển Châu Âu
    Origami không phải là một môn nghệ thuật "Nhật"
    Chúng ta có thể công nhận một bức tranh của năm 1490 vẽ theo cuốn truyện"Tractatus de Shaera Mundi"-viết bởi Johannes de Sacrobosco (John của Hollywood) vào thế kỷ 13 và đã được tái bản hơn 60 lần vào giữa thế kỷ 17 có con tàu giấy giống như trong cuốn "Ramma Zushiki". Nếu nó thật sự là một con tàu Origami, nó không thể có nguồn gốc từ Nhật được vì Origami của Nhật lúc bấy giờ mới chỉ là một nghi thức không hơn.
    John Webster đã tham khảo "paper prison" (nhà tù giấy) để vận dụng vô vở kịch của ông là " The Duchess of Malfi", ra mắt lần đàu khỏang những năm 1614 và được in thành sách năm 1623. nó dường như là mẫu Origami được biết đến như water bomb ngày nay. Nó không xuất hiện trong bất cứ dòng Origami nào của Nhật vào thời Edo.
    Chúng ta có thể tìm thấy vài tham khảo rõ ràng về Origami của thế kỷ 19 trên khắp Châu Âu. trong số đó Bảo tàng Quốc gia Đức và Bảo tàng Nghệ thuật của người Saxon đã có hình những con ngựa và người cưỡi ngựa Origami làm khỏang năm 1810 hay 20, trong bộ sưu tập của họ.
    Vào giữa thế kỷ 19, Friedrich Frobel đã thành lập nhà trẻ đầu tiên trên thế giới. Trong hệ thống giáo dục của ông gồm có vài món đò chơi gọi là "Gifts" ( quà) và vài trò chơi gọi là "Occupations" (công việc). Một trong số occupations đó có môn Origami.
    Frobel Gifts và Occupations có 3 loại, loại cuộc sống, loại cái đẹp và loại kiến thức. Origami bình thường được xếp vào nhóm cuộc sống. Trong Origami loại cái đẹp thì phần xếp rất cân bắt đầu từ những nếp gấp cơ bản. Môn Hình học ở tiểu học được dạy bằng Origami đó chính là Origami loại kiến thức .
    Chỉ có vài mẫu hình của Origami Châu Âu vào thế kỷ 19 là có thể thấy giống với của Nhật cùng thời điểm ấy. Thậm chí ngày nay, rất ít người Nhật biết Pajarita ( con chim nhỏ) mà mọi người Tây Ban Nha đều biết đến. Mặt khác, Orizuru không được biết đến ở Châu Âu nhưng nó là dạng Origami cổ điển rất quen thuộc với người dân Nhật.
    [​IMG]
    Origami Pajarita
    Những hình Origami cổ điển Châu Âu dực trên nếp gấp 45 độ, ngược lại Origami cổ điển Nhật như Orizuru hay Con Ếch thì dựa trên nếp gấp 22.5 độ. họ chỉ sử dịng một tờ giấy vuông hay chữ nhật, và họ không phải tính toán hay cắt xén quá nhiều. Origami cổ điển Châu Âu và Nhật Bản khá khác biệt vì hầu như chúng phát triển độc lập với nhau.
    Nguồn gốc của Origami Châu Âu không được rõ, nhưng có vẻ như nó có liên quan đến tấm bằng Baptismal của thế kỷ 16 hay 17. Ngày nay, họ xếp tấm bằng Baptismal này bằng những đường đôi hay giống như hình dạng mà Nhật Bản gọi là Menko hay Người cầm chỉ. Người ta cho răng "nghi thức Origami" này có từ thế kỷ 15.

    To be Continue...t
     
  16. Game_Otaku

    Game_Otaku Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    22/1/03
    Bài viết:
    72
    D. Origami truyền thống:
    Cả Nhật Bản và Châu Âu đều có origami của riêng mình trong lúc Nhật thực thi chế độ bế quan tỏa cảng với thế giới bên ngoài. . Origami trong hai lĩnh vực này khá độc lập. Thời kì khôi phục đế chế quân chủ Meiji và sau đó là thời mở cửa trao đổi giao lưư giữa Nhật và phương Tây kéo theo sự hợp nhất của Origami Đông và Tây.
    Nhật Bản đã tiếp thu hệ thống nhà trẻ Frobelian, trong đó cũng bao gồm luôn cả Origami cổ điển Châu Âu. Như vậy Origami cổ điển Nhật và Âu đã bị pha trộn. Kho tài liệu về origami đã mở ra một trang mới tại đây và trở thành cốt lõi của Origami truyền thống.
    Nhật Bản cũng bắt đầu sản xuất loại giấy xếp Origami, đó là một mảnh giấy hình vuông có màu ở một mặt kiểu Châu âu (ta co thể hình dung là giống như giấy thủ công học sinh dùng ngày nay), bởi vì nhà trẻ cần nó cho việc giảng dạy Origami Frobelian. Từ thời Meiji, các hình mẫu mới đã được bổ xung thêm với rất nhiều kiểu phù hợp với loại giấy xếp mới. Mặt khác, có rất nhiều hình mẫu phù hợp với loại giấy xếp waki đã bị loại bỏ.
    Trong loại hình Origami truyền thống, các hình mẫu được truyền từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng cũng thường thay đổi cách gấp cũng như tên gọi luôn. Trẻ em cũng như người lớn cũng thường ứng biến ra những hình mẫu mới. Sự sáng tạo này trong Origami truyền thống cũng chính là một trong những lý do mà Frobel đã đưa Origami vào chương trình Occupation của ông. Nhưng trong việc dạy Origami ngày nay, các học sinh chỉ được dạy cho những cái có sẵn, vì các giáo viên có cách hiểu sai về môn này, rằng chúng chỉ là một sự bắc chước, nhiều trường đã loại bỏ nó ra khỏi chương trình học. Những hình mẫu Origami truyền thống được truyền bá đi rất xa trong một thời gan ngắn, do những người trong nứơc truyền bá ra ngoài biên giới. Orizuru của Nhật đã di cư qua Châu Âu và trở thành Flapping Bird vào đầu những năm của thời đại Edo. Sau đó, Miguel de Unamuno, người sống vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã làm thêm nhiều hình mẫu căn cứ vào Flapping Bird .
    Ở Châu Âu, người ta không dùng từ Origami để chỉ việc xếp hình bằng giấy cho đến những năm 1950. Origami lúc đầu được gọi là "papierfalten" ở Đức và "paper foling" ở Anh. Khi Nhật Bản tiếp thu Origami Frobelian trong hệ thống nhà trẻ, từ "shoshi", "tatamigami" hay "kamitatami" được dùng trong nhà trẻ và từ "origami-zaiku" hay "origami" được dùng trong trường tiểu học. Nhưng những từ này không phổ biến bên ngoài hện thống trường học. Ở Tây Ban Nha, "pajarita" có nghĩa không chỉ là con chim origami mà còn là từ gọi chung cho môn Origami.
    Origami truyền thống đã ra đời và mang theo trong hành trang nó những trao đổi văn hóa giữa Đông và Tây. Nó không phải là một dòng văn hóa thuần Nhật mà là một sự lai tạp giữa Nhật Bản và Châu Âu. Mặc dù nó được phổ biến nhất ở Nhật, song nó cũng được truyền bá rộng rãi sang Châu âu, Châu Mỹ, Trung Quốc và nhiều nước khac từ thế kỷ 19 hay đầu thế kỷ 20.

    E. Origami hiện đại
    Trong loại Origami truyền thống thì các hình mẫu và tên gọi được truyền bá từ một số người ẩn danh nào đó, không có văn bản ghi chép nào. Origami hiện đại bắt đầu từ thế kỷ 20, dựa trên những kiểu hoàn tất khác nhau. Việc xếp tiếp nối một hình của Origami hiện đại là của nững người thiết kế, những "nhà sáng tạo của Origami"
    Cha đẻ của Origami hiện đại có lẽ là Uchiyama Koko, vì ông có bằng sáng chế cho các hình mẫu của mình. Ngày nay có vài người nghĩ rằng cần phải có bản quyền. Ý nghĩ rằng những người sáng tạo ra cần được sở hữu sản phẩm trí óc của mình và cũng là một thái độ tôn trọng đối với người tạo tác.
    Trong Origami hiện đại, sự sáng tạo là thuộc về nững ngừơi thiết kế và sự đánh giá tùy thuộc vào người gấp. Họ thích những hình mẫu không chỉ là hình dáng đẹp của chúng sau khi hoàn tất mà còn phụ thuộc vào tính dễ xếp, dễ nhớ của hình mẫu.
    Những hướng dẫn nhằm trình bày cách xếp một hình mẫu, rất quan trọng trong Origami hiện đại, vì người xếp sẽ tự mình làm lại hình mẫu. Chúng trình bày lại toàn bộ quá trình gấp. Ta có những loại phổ biến trong việc trình bày lại trong origami cổ điển Nhật Bản nhưng chúng hoàn toàn không có văn bản ghi lại quá trình gấp của chúng.
    Trong Origami hiện đại, người ta thường gấp các hình mẫu bằng tờ giấy vuông (đa số), không cần đến kéo cắt tỉa hay là keo để dán dính. Bên cạnh quy tắc xếp hình, người xếp cũng sẽ gầm hiểu rằng để xếp những hình mẫu đó cần có giấy Origami (giấy thủ công). Một hình mẫu được là từ hơn một tờ giấy hay dùng nhiều hình lồng lại với nhau được đánh giá cao.
    Vào những năm 1950 và 60, Hội chơi Origami Quốc Tế đã được sáng lập bởi những người sáng tạo và xếp giấy gồm có Yoshizawa Akira, Takahama Toshie, Honda Isao, Robert Harbin, Gershon Legman, Lillian Oppenheimer, Samuel Randlett, Vincente Solórzano-Sagredo và những người khác nữa. Họ đã truyền bá rộng rãi Origami cho những người dân ở đất nước họ.
    Họ đã cho xuất bản những hình mẫu Origami của những người thiết kế Nhật, Châu Âu và Châu Mỹ tại Nhật vá Anh. Chúng tất nhiên là cũng có mặt tại quốc gia và cơ quan địa phương của họ. " Origami" đã trở thành từ để gọi chính thức cho việc xếp giấy do đề xuất của Oppenheimer. Các ký hiệu của Yoshizawa trong bản hướng dẫn đã được truyền bá bởi Harbin và Randlett, và trở thành các tiêu chuẩn quốc tế.t
     
  17. Game_Otaku

    Game_Otaku Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    22/1/03
    Bài viết:
    72
    F. Origami toán học
    Ta thường ứng dụng phần đầu của một quá trình làm hình mẫu chính thức và thiết kế các hình mẫu khác nhau. Kết quả là nhiều hình mẫu có gần như phân nửa giống nhau. Phần phân nửa hình này được gọi là hình căn bản khi chúng được sắp xếp theo phân tích hình học. Trong số những khảo sát ban đầu của kiểu căn bản là Uchiyama Koko những năm 1930 và của Vicente Solorzano- Sagredo những năm 1940.
    Những hình mẫu mới trong Origami hiện đại phụ thuộc vào một vài kiểu tạo hình cơ bản. Họ dùng kiểu cơ bản con chim, kiểu này có nửa phần xếp của Orizuru, trong việc sáng tạo ra không chỉ chim mà còn có những thú hay các lọai hoa. Chúng khá nhiều mẫu cơ bản, mặc dù chúng đôi khi có nhiều khác biệt như kiểu cơ bản con chim xếp từ một hình tam giác hay một sự kết hợp giữa kiểu cơ bản con chim với kiểu căn bản con ếch.
    Khi chúng ta xếp một kiểu căn bản và mở nó, chúng ta có được phần nếp gấp. Việc này đã được đưa vào giảng dạy môn hình học trong các nhà trường từ những năm 1980 và hình mẫu mới của nó gọi là Pegasus, cô ta/ cậu ta không thể chọn lựa từ kiểu căn bản nào ngoài kiểu căn bản Pegasus.
    Maekawa Jun và Peter Engel khởi đầu cho Origami toán học một cách độc lập. Cả hai đều chú ý rằng các phần tạo thành của hình cơ bản chính thức gồm có những tam giác và những hình chữ nhật. Họ chia một phần tạo thành thành những "nguyên tố" và xếp chúng lại để tạo thành những phần mới. Nói cách khác, họ đã thiết kế ra những hình mẫu mới trước khi gấp chúng.
    Học thuyết thú vị này đã được phát triển bởi Meguro Toshiyuki, Kawahata Fumiaki, Robert Lang và những người khác. Trong học thuyết này, một hình cơ bản được xem như một phần độc lập và được vẽ theo chiều dài và sự sắp xếp của các mảnh. Họ nghĩ ra cách giải các phần tạo ra của hình cơ bản từ chiều dài tùy ý và sắp xếp các mảnh. TreeMaker ( người trồng cây ) của Lang là một chương trình vi tính dựa trên thiết kế căn bản của Origami.
    Có một số thiết kế khác không phụ thuộc vào kiểu xếp căn bản. Trong số chúng có kiểu xếp hộp được ứng dụng một cách rộng rãi. Max Hulme và Neal Elias đã mở đường cho phương pháp này vào những năm 1970.
    Việc kết hợp những phương pháp thiết kế này lại, ta có thể làm thành những hình mẫu hoàn chỉnh chỉ cần đến một tờ giấy vuông và không cần chiếc kéo. Do đó, sự trừu tượng của Origami là một bài toán hóc búa hơn nhiều lần trong Origami tóan học. Khi đó, họ hòan thành việc thiết kế thật sự hay một số hình mẫu hòan chỉnh dựa vào phương pháp của một tờ giấy vuông không cắt xén. Thêm vào, họ xem như phần tạo ra là một phần quan trọng của hình mẫu ngoài hình dáng cuối cùng và quá trình gấp.

    G. Origami nghệ thuật :
    Từ "origami" bao gồm từ "oru" ( để gấp) và từ "kami" hay "gami" (giấy). Vậy Origami là giấy để gấp hinh. Tuy nhiên, những từ này nhấn mạnh bề ngòai của Origami ( hình được làm từ giấy) nhưng cái hóc búa bên trong không ai biết được. Họ giảm bớt giấy để chỉ là hình dáng hình học như hình tam giác hay hình chữ nhật, và việc gấp chỉ là vẫn dùng sự kéo léo trong môn hình học.
    Nếu chúng ta có nghiên cứu qua Origami cổ điển Nhật, chúng ta không thể nói rằng Origami chỉ dựa trên hình học. Rất nhiều hình mẫu từ thời Edo đã được gấp bằng giấy washi- một lọai giấy mềm và dẻo không thể tạo hình. Hơn nữa, đỉnh cao của nghi thức Origami không phải làm thành những hình dáng mà là biểu lộ lòng thành của người gấp.
    Từ những năm 1950, YoshizawaAkira đã nghiên cứu sâu vào sự biểu lộ của việc gấp giấy và chứng minh rằng Origami tiềm tàng khả năng để trở thành một môn mỹ thuật. Ông đã làm nổi bậc hơn sự biểu cảm của Origami và nó đã có một ảnh hưởng lớn lao đối với Origami nghệ thuật ngày nay. Tác phẩm của ông không chỉ mô tả cách sắp xếp của các phần mà còn biểu đạt cảm xúc nữa. Chúng không giống thực tế, nhưng chúng hoàn toàn toát lên sự sống của chính chúng.
    Những năm 1960, Uchiyama Koko sáng tạo ra Kamon-ori hay phần gấp hoa. Nó đưa ra những phần cơ bản trừu tượng dựa trên việc mở rộng hình học của Tato. Origami trừu tượng chính nó không phải là mới mẻ. Thật sự, nó có từ Origami Frobelia của dạng cái đẹp. Nhưng ông gấp hình tác phẩm nghệ thuật độc nhất vô nhị bới việc gấp nhiều lớp giấy washi do chính tay ông nhuộm.
    Những người gấp Origami nghệ thuật khơi lên cái cảm xúc tiềm tàng của giấy. Do đó, việc chọn lựa giấy rất quan trọng. Thêm nữa, họ thường làm việc trên giấy và cải tiến biểu hiện của nó. Kamon-ori của Uchiyama là một ví dụ tuyệt vời. Yoshizawa đã đổi mới kiểu xếp bằng cách thấm ướt giấy trước khi gấp. Ông cũng cố biểu hiện bằng cách cắt rìa tờ giấy. Hơn thế nữa, Michael La Fosse đã tự mình làm giấy.
    Các tác phẩm của Origami nghệ thuật cũng là gấp giấy. Vì thế, sự tạo ra được cho là cả người thiết kế lẫn người gấp và sự thưởng thức thuộc về người xem. Quá trình gấp hay tạo thành các phần của nó không phải là chủ dề của sự hiểu biết. Thêm vào, không có việc làm lại một tác phẩm Origami nghệ thuật, bởi vì quá trình làm giống như vậy lại cho ra một tác phẩm khác với phong cách khác hay thành một hình khác không chừng.
    Ngày nay, những người mê gấp giấy Phương Tây hoạt động nhiều hơn trong lĩnh vực Origami nghệ thuật này. Những người giỏi về Origami trừu tượng có lẽ là Jean-Claude Gorreia, Paul Jackson và Vincent Floderer và những đại biểu của Origami có lẽ là Eric Joisel, Michael La Fosse và Giang Dinh.

    The End.t
     
  18. Game_Otaku

    Game_Otaku Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    22/1/03
    Bài viết:
    72
    Shodo

    1. Shodo - Thư pháp là gì ?
    Ngày nay hầu hết người dân Nhật dùng bút chì, bút bi hoặc bút nỉ để viết chữ hoặc các tài liệu khác. Nhưng nghệ thuật Shodo ( thư pháp) thì không dùng những dụng cụ ấy mà dùng sự khéo léo của người viết kết hợp với cọ chấm vào mực để tạo ra những chữ Kanji Trung Hoa và những chữ Kana Nhật Bản, đó đựơc xem là một phần trong nét văn hóa truyền thống của Nhật ngày nay. Một tác phẩm thư pháp chính là niềm say mê viết chữ đẹp, dĩ nhiên cách cầm cọ trong khi viết và mà sắc của mực, vị trí của các chữ có cân bằng trên mặt giấy không cũng là một trong những yếu tố không thể bỏ qua.
    [​IMG]
    Bắt đầu từ tiểu học, các học sinh sẽ học về thư pháp căn bản trong các lớp tập viết. Vào mỗi đầu năm, những đứa trẻ tụ tập lại thực hiệ một số trò chơi truyền thống gọi là kakizome, trong đó có viết thư pháp để tượng trưng cho những mong muốn của chúng trong năm mới. Học sinh thực hành cách cầm viết để cải tiến kỹ năng thư pháp, đôi khi là viết lại theo những tác phẩm thư pháp nổi tiếng từ xa xưa. Vài học sinh tiểu học và trung học còn đến những trường nghệ thuật để tham gia vào các lớp học viết thư pháp vào buổi tối hoặc những ngày nghỉ cuối tuần để tập viết chữ đẹp.
    [​IMG]
    Thư pháp bắt nguồn từ Trung Quốc và du nhập vào Nhật Bản vào thế kỷ thứ sáu hay bảy, cùng với phương pháp làm cọ, mực và giấy. Những ngày đầu ấy, thư pháp là một phần cần thiết của nền giáo dục thành viên của những gia đình danh giá. nhưng thời gian trôi qua, nghệ thuật này đã truyền bá rộng trong quần chúng. Ngày nay, thư pháp không chỉ là một loại hình nghệ thuật được say mê; người ta dùng nó để viết các thiệp mừng năm mới và trong nhiều tình huống khác của cuộc sống hàng ngày nữa.
    Các kiểu thư pháp gồm có Kaisho hay "kiểu vuông" trong đó, nét bút của từng chữ được viết cẩn thận theo lối chữ in; Gyosho hay "nữa chữ thảo", viết nhanh hơn và bố cục lỏng lẻo hơn kiểu Kaisho; và Sosho hay "chữ thảo", tự do nhiều hơn, phương pháp thay đổi nhiều hơn để nét chữ có thể uốn cong mềm mại và có phần vênh.
    Một số lượng lớn các loại giấy khác nhau có thể được dùng trong thư pháp Shodo. Trong số đó có loại gọi là chirashi-gaki, là một ví dụ, đó là thể thơ 31 đoạn truyền thống của Nhật (gọi là Waka) được viết trên một mảnh giấy vuông. Người viết có thể bắt đầu những dòng thơ với nhiều cấp độ khác nhau trên giấy để miêu tả sự sinh động, nhịp nhàng của thơ ca, hay viết bằng mực màu đậm hơn và lợt hơn để cho cảm giác chiều sau của chữ, làm thành một tác phẩm nhìn giống như một bức tranh phong cảnh vậy

    2.Tư thế và dụng cụ trong Shodo:
    A. Cách cầm cọ :Cây cọ được giữ ở phần giữa của hai đầu. Vè cơ bản dùng ba ngón tay cầm cọ- ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa. Ngón đeo nhẫn hơi nới lỏng để làm điẻm tựa và ngón út để ở tư thế tự nhiên. Cầm cọ với tư thế thẳng, bàn tay cầm cọ không chạm vào giấy.
    B.Tư thế ngồi :
    Ngồi thẳng lưng, khong tựa vào lưng ghế và không ngồi quá gần bàn. Giữ tờ giấy cố định bằng bàn tay không cầm cọ.
    C. Dụng cụ :
    Bunchin ( thanh chặn giấy): Là thanh kim loại nặng chặn giấy cho khỏi dịch chuyển.
    Shitajaki (tập giấy) : Hanshi là nơi đầu của tập giấy thường làm bằng vải mềm.
    Hanshi (giấy viết thư pháp) : Hanshi thường được làm từ washi ( kiểu giấy viết tay của Nhật)
    Fude (cọ) : có nhiều kích cỡ khác nhau, tùy theo ý người sử dụng.
    Suzuri ( nghiêng mực ) và Sumi ( mực đen) : Cho nước lên vết lõm ở cuối thanh suzuri (ở đầu xa tay bạn), thấm ướt luôn cho đến khi sumi tan ra từ một thanh rắn dày thành loại mực nước lỏng.t
     
  19. Game_Otaku

    Game_Otaku Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    22/1/03
    Bài viết:
    72
    ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG NHẬT BẢN

    1. Đôi nét về các nhạc cụ truyền thống Nhật :
    Lịch sử về âm nhạc truyền thống của Nhật Bản thì rất phong phú và đa dạng. Rất nhiều loại hình âm nhạc đã được du nhập từ Trung Quốc hơn một ngàn năm qua, nhưng theo năm tháng, chúng dần thay hình đổi dạng thành những nét rất riêng biệt của Nhật Bản. Các nhạc cụ được chỉnh sửa mới cho phù hơhp với để đáp ứng nhu cầu của từng vùng, và những nhạc cụ quan trọng nhất trong số chúng là đàn Shamisen, sáo Shakuhachi và đàn Koto.
    [​IMG]
    Đàn Shamisen

    Đàn Shamisen tương tự như cây đàn guitar, nó có cái cổ đàn dài và ốm và cái thùng đàn nhỏ hình chử nhật được bọc da. Nó có ba dây, có thể điều chỉnh các dây bằng những cái chốt phía trên đầu, cũng giống như là cần đàn guitar hay là violin vậy. Người ta không khảy đàn bằng ngón tay, mà dùng một cái phím lớn hình chữ nhật đánh mạnh vào dây đàn.
    [​IMG]
    Phím gẩy của đàn Shamisen
    Đàn Shamisen thường được dùng như một nhạc cụ đệm trong rất nhiều thể loại bài hát dân ca truyền thống Nhật.
    [​IMG]
    Shakuhachi

    Shakuhachi là một loại sáo được làm từ tre, người chơi sẽ tạo ra âm thanh bằng cách thổi hơi vào phần lỗ ở phía đuôi cây sáo. Có 4 lỗ ở mặt trước và 1 lỗ ở phía sau, và do đó trong tiếng Anh đôi khi gọi nó là "sáo tre 5 lỗ" (five-holed bamboo flute). Năm lỗ này cũng đủ tạo ra những mức độ âm thanh hoàn chỉnh ( sáo tre Việt Nam có mấy lỗ bạn biết không ? - 6 lỗ lận đấy ! ), những cái lỗ ấy đã tạo cho Shakuhachi những âm điệu buồn réo rắc.
    Đàn Koto, là đàn tranh Nhật Bản, đó là một nhạc cụ bẳng gỗ lớn có 13 dây. Nó dài khỏang 160 centimet ( 63 inches) đến 200 centimet (79 inches) và chiều ngang khỏang 20 centimet. Nó có bề mặt cong hình cung, và các nốt được điều chỉnh bằng những cần đàn di chuyển được nằm ở phía dưới mỗi dây. Nó được khẩy bằng các móng giả đeo vào các ngón tay, cũng khẩy như các nhạc cụ khẩy khác. Tay trái ấn xuống các dây đàn để tạo nên các nốt và những hiệu quả âm thanh khác.
    Các nhà sử học cho rằng đàn Koto đã ra đời khỏang thế kỷ thứ năm đến thứ ba trước Công nguyên ở Trung Quốc. Nguồn gốc của chúng chỉ có 5 dây nhưng dần tăng lên 12 dây và cho đến nay hoàn chỉnh là 13 dây. Đàn Koto 13 dây đã được mang đến Nhật trong thời đại Nara (710-794). Thoạt tiên , nó được biểu diển trong dàn nhạc chung với các nhạc cụ khẩy và các nhạc khí khác, nhưng về sau người ta có thể dùng nó độc diễn. Nó còn có thể được biểu diễn cùng với đàn Shamisen và Shakuhachi hoặc như là một nhạc cụ đệm cho các bài hát truyền thống .
    [​IMG]
    Đáng buồn thay, người Nhật hiện đại ít khi quan tâm đến các nhạc cụ truyền thống được chơi ngày nay. Một số ít các trường Tiểu học và Trung học đã mở các lớp nhạc truyền thống cung với việc xắp xếp các buổi biểu diễn nghệ thuật truyền thống tại các nhà hát và các buổi hòa nhạc để người ta có thể đến nghe và không làm mai một truyền thống dân tộc.
    Đối với các nhạc cụ truyền thống, đàn Koto có phần thông dụng và phổ biến nhất. Trong suốt mấy ngày tết năm mới "Haru no Umi" , một bản nhạc song ca hát với Shakuhachi, thường kèm theo tiêu thổi trong phần nhạc nền, và trong suốt mùa hoa anh đào nở ( khỏang tháng 3) , người ta thường nghe một khúc nhạc tự sự bằng những âm điệu rất phổ biến " Sakura Sakura " được trình diển bằng đàn Koto ( bài hát này ở VN hay hát là "mùa xuân sang có hoa anh đào ... ")t
     
  20. Game_Otaku

    Game_Otaku Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    22/1/03
    Bài viết:
    72
    2. Nhìn qua cây đàn Koto

    [​IMG]
    Cái tên cho từng phần của một cây đàn Koto đã được đặt từ thời xa xưa, người ta ví nhạc cụ này với một con rồng vươn mình dài trên mặt đất. Vài phần trong tên gọi được viết bằng chữ Trung Quốc, mang những ý nghĩa như là " lưỡi rồng", "mày rồng" và "sừng rồng"...
    [​IMG]
    Ryuko ( lưng rồng) : Phần này là phần thân chính của cây đàn Koto. Người nhạc công gẩy dây đàn bằng bàn tay phải, chạm đúng phần bên phải của Ji, những thanh đỡ bên dưới các dây đàn.
    [​IMG]
    Ryubi ( đuôi rồng) : Sau khi đàn Koto được chăng dây, những dây đàn chạy xuyên qua các lỗ trên thân đàn và được cột lại, phần dây thừa ra đặt đúng chỗ này ( chỗ Ryubi). Chúng được cuộn gọn gàng thành hai cuộn- một cuộn 6 dây và một cuộn 7 dây. Được giữ lại phòng lỡ sau này dây đàn có đứt thì lấy ra chăng lại.
    [​IMG]
    Ji ( các cần đàn) : Những thanh đỡ này được đẩy nhẹ lên hoặc xuống để điều chỉnh âm thanh của mỗi dây đàn. Với các đỉnh nhọ hình chữ V ( lộn ngược ) chúng có thể giữ các dây đàn, chúng còn giúp cho âm thanh lan truyền từ dây đàn tới thân đàn Koto, làm âm thanh đầy đặn hơn và đa dạng hơn.
    [​IMG]
    Tsume ( móng ) : Đàn Koto không chơi trực tiếp bằng móng tay. Thật sự, thì người nhạc công mang 3 tsume vào các ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải và gẩy các dây đàn bằng những móng đó.t
     

Chia sẻ trang này