Mỹ sẽ hỗ trợ đào tạo, giúp Việt Nam định hình ngành công nghiệp bán dẫn

Thảo luận trong 'Thư Giãn Express - Bản Tin Cuối Ngày' bắt đầu bởi Tình yêu tìm thấy, 30/9/23.

  1. Tình yêu tìm thấy

    Tình yêu tìm thấy Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    25/9/23
    Bài viết:
    332
    Mỹ sẽ hỗ trợ đào tạo, giúp Việt Nam định hình ngành công nghiệp bán dẫn

    Mỹ sẽ hỗ trợ Việt Nam cả về tài chính, chương trình đào tạo và tạo việc làm cho kỹ sư sau khi ra trường để giúp Việt Nam từng bước định hình ngành công nghiệp bán dẫn trong nước.

    [​IMG]

    Dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử của Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam tại Khu công nghiệp Yên Phong, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh - Ảnh: ĐỨC ANH

    Ông Võ Xuân Hoài - phó giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) - thông tin với Tuổi Trẻ bên lề Hội nghị thượng đỉnh kinh doanh Việt Nam 2023. Hội nghị do NIC, Cục Công nghiệp công nghệ thông tin và Truyền thông, Hiệp hội Công nghiệp bán dẫn Đông Nam Á (SEMI SEA) phối hợp tổ chức vào ngày 29-9.

    Cần 50.000 kỹ sư công nghệ

    * Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ, ngành lập đề án đào tạo 50.000 kỹ sư, chuyên gia công nghệ cho ngành bán dẫn từ nay đến năm 2030. Vậy kế hoạch đào tạo cụ thể trong thời gian tới thế nào?

    - Thủ tướng đang giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Đề án phát triển nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn, trong đó mục tiêu đến năm 2030 đào tạo được khoảng 50.000 kỹ sư trong ngành công nghiệp bán dẫn.

    Trong đó có các công đoạn như đóng gói, lắp ráp, kiểm thử, thiết kế và phát triển sản phẩm... Do đó tập trung đào tạo đội ngũ kỹ sư thiết kế chip bán dẫn vì đây là một lợi thế của người Việt bởi mạnh về các môn khoa học tự nhiên, về system.

    Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang giao cho NIC đánh giá thực trạng đào tạo tại các trường đại học cũng như đào tạo kỹ sư cho ngành công nghiệp bán dẫn. Trên cơ sở đánh giá sẽ đưa ra giải pháp để làm sao Việt Nam có thể đào tạo được 50.000 kỹ sư, chuyên gia công nghệ.

    Từ đó sẽ giao chỉ tiêu cho các trung tâm đào tạo lớn như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP.HCM, Đại học Đà Nẵng, Đại học Cần Thơ, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học FPT và một số trường đại học khác. Thực tế hiện nay các trường cũng đang triển khai mạnh mẽ việc này.

    [​IMG]
    Ông Võ Xuân Hoài

    * Còn việc hợp tác nước ngoài ra sao, thưa ông?

    - NIC đang phối hợp với Tập đoàn Synopsys (Mỹ) để đề xuất họ cung cấp các phần mềm bản quyền đào tạo chip miễn phí, từ đó cung cấp cho các trường đại học trong thời gian tới.

    Trong chuyến đi cùng Thủ tướng tới Mỹ, chúng tôi đã ký hợp tác với Synopsys, Cadence Design Systems là hai công ty cung cấp phần mềm thiết kế chip lớn nhất thế giới hiện nay. Đồng thời NIC cũng có hợp tác với Đại học bang Arizona (ASU) - trường đại học có những chương trình đào tạo, nghiên cứu rất tốt về chip. Chúng tôi đã có hợp tác ban đầu với họ để tập trung phát triển nguồn nhân lực.

    Câu chuyện đào tạo nguồn nhân lực ở đây không chỉ có đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong nước mà mình kết hợp với các đối tác quốc tế để người học có cơ hội học tập, đặc biệt là thực hành ở nước ngoài.

    Chính vì thế, NIC đã đẩy mạnh kết nối với các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới về chip bán dẫn, qua đó tạo cơ hội thực tập cho sinh viên tại các tập đoàn công nghệ hàng đầu và các phòng thí nghiệm của họ theo phương châm vừa học vừa làm. Đó là chương trình đào tạo dài hạn chương trình cử nhân.

    NIC cũng đang phối hợp với các trường đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo để xây dựng các chương trình đào tạo sau đại học như thạc sĩ, tiến sĩ ngành chip bán dẫn. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng vì Việt Nam muốn nắm công nghệ lõi thì phải có đào tạo chuyên sâu. Điều này hiện nay chúng ta đang rất thiếu.

    Và để đạt được con số đào tạo 50.000 kỹ sư công nghệ thì NIC sẽ tiến hành song song giữa phối hợp với các trường đại học để xây dựng các chương trình đào tạo ngắn hạn 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, tức là dựa trên cơ sở là các học viên và đối tượng đã tốt nghiệp các ngành nghề liên quan.

    Ví dụ như các ngành công nghệ thông tin, khoa học máy tính, vật liệu có thể chỉ phải đào tạo 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm là có thể đi làm được rồi. Hiện NIC cũng đang phân loại đối tượng để đào tạo trong các quãng thời gian phù hợp.

    * Đâu là cơ sở để chúng ta đưa ra con số đào tạo 50.000 kỹ sư công nghệ để định hình ngành công nghiệp bán dẫn trong nước mà không phải con số khác?

    - Cơ sở để Chính phủ, Thủ tướng đặt ra mục tiêu trên là dựa trên khảo sát từ Đài Loan. Đài Loan là nền kinh tế có ngành công nghiệp bán dẫn phát triển, là một trong năm nền kinh tế có ngành công nghiệp bán dẫn lớn nhất thế giới hiện nay. Và Đài Loan hiện có khoảng 50.000 kỹ sư bán dẫn. Chính vì thế, Việt Nam muốn đuổi kịp các quốc gia hàng đầu về công nghiệp bán dẫn thì tối thiểu phải có được 50.000 kỹ sư công nghệ.

    Hơn nữa, 50.000 kỹ sư Việt Nam sau khi đào tạo xong không nhất thiết phải làm việc cho các doanh nghiệp trong nước, NIC sẽ hỗ trợ để họ có cơ hội làm việc trong các tập đoàn công nghệ nước ngoài.

    Trong chuyến đi Mỹ vừa rồi, Thủ tướng đã trực tiếp làm việc với lãnh đạo các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới về chip bán dẫn như Nvidia, Synopsys, Hiệp hội Bán dẫn Hoa Kỳ (SIA). Qua đó tạo thuận lợi cho nguồn nhân lực của chúng ta sau khi đào tạo có cơ hội vào làm cho các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới.


    Ngay tại Hội nghị thượng đỉnh kinh doanh Việt Nam 2023, NIC đã phối hợp với Hiệp hội Bán dẫn Đông Nam Á mời hơn 100 doanh nghiệp về công nghiệp bán dẫn ở khu vực Đông Nam Á, Mỹ, châu Âu, Nhật Bản để tham gia chương trình tọa đàm thúc đẩy kết nối hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, ngành công nghiệp bán dẫn của Việt Nam.

    [​IMG]
    Nhân viên đang làm việc tại nhà máy Intel Products Việt Nam - Ảnh: Intel cung cấp

    Thu hút nhiều nguồn để đào tạo nhân lực

    * Vậy chi phí đào tạo hàng chục ngàn kỹ sư công nghệ từ nay đến 2030 theo tính toán NIC sẽ thu hút từ đâu?

    - Nguồn lực để đào tạo 50.000 kỹ sư công nghệ đang được NIC tính toán dựa trên kinh nghiệm của các nước. Trong đó, đầu tiên là nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, tiếp đó là nguồn lực tư nhân. Hiện nay các doanh nghiệp tư nhân trong nước như FPT, CMC họ cũng đang tham gia rất mạnh vào đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghệ.

    Hơn nữa, sau khi Việt Nam và Mỹ nâng cấp quan hệ ngoại giao lên mức Đối tác chiến lược toàn diện thì Mỹ đã cam kết sẽ tài trợ, hỗ trợ Việt Nam một phần nguồn lực để đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn, ngành STEM (ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) tại NIC.

    Qua đây, phía Mỹ đang đề xuất NIC phối hợp với ASU để sử dụng một nguồn tài trợ của Chính phủ Mỹ - khoảng 50 triệu USD - nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn ở Việt Nam.

    Hiện Cơ quan Hợp tác quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cũng đã cam kết hỗ trợ NIC 12,5 triệu USD để đào tạo nguồn nhân lực đổi mới sáng tạo và ngành công nghiệp bán dẫn. Hiện NIC đã triển khai một phần gói tài trợ này và năm 2024 sẽ mở rộng triển khai.

    Tuy nhiên, nguồn lực quan trọng nhất vẫn là của Nhà nước để cung cấp học bổng cho sinh viên các trường đại học, thậm chí phải xây dựng chương trình đào tạo nghề ngay khi học sinh từ lớp 9 vào lớp 10 có thể tham gia đào tạo về công nghiệp bán dẫn.

    Bởi ngành công nghiệp bán dẫn không chỉ có công đoạn thiết kế, nhiều công đoạn khác không nhất thiết phải đào tạo đại học, sau đại học. Nhưng với đào tạo sau đại học, đặc biệt đào tạo tiến sĩ, trong lĩnh vực công nghiệp bán dẫn cần có kinh phí lớn để đầu tư hệ thống phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) cho sinh viên, học viên trong quá trình học tập, nghiên cứu.

    * Ông có thể cho biết các đối tác Mỹ đang đầu tư tại Việt Nam như Intel, Amkor đã có cam kết gì trong hỗ trợ chúng ta đào tạo nguồn nhân lực?

    - Tất cả các doanh nghiệp khi đầu tư vào Việt Nam đều quan tâm tới đào tạo nguồn nhân lực. Nhiều doanh nghiệp bán dẫn đang quan tâm đầu tư vào Việt Nam vì họ thấy rằng nguồn nhân lực chúng ta có tiềm năng, có khả năng đào tạo và phát triển sâu hơn. Amkor, Intel đã có những chương trình hợp tác với NIC và các trường đại học để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của chính họ và một phần cho chương trình quốc gia của Việt Nam.

    [​IMG]
    Nguồn: Hiệp hội Ngành Bán dẫn (SIA) - Dữ liệu: Nguyên Hạnh - Đồ họa: TẤN ĐẠT

    Đài Loan chuyển mình ngoạn mục nhờ bán dẫn
    Mỗi năm, gần 1/3 chip bán dẫn mà tất cả thiết bị điện tử chúng ta sử dụng đều được chế tạo tại Đài Loan - một hòn đảo nhỏ với dân số chỉ hơn 23 triệu người, theo Đài CNBC. Không ai có thể phủ nhận sự thống trị của Đài Loan trong mảng sản xuất chip bán dẫn theo đơn đặt hàng (foundry).

    Năm 2020, các nhà sản xuất chip bán dẫn theo hợp đồng của Đài Loan chiếm 60% doanh thu toàn cầu trong mảng này. 90% trong số đó thuộc về một doanh nghiệp duy nhất: Công ty Sản xuất chip bán dẫn Đài Loan (TSMC).

    Theo tạp chí khoa học National Academies Press (Mỹ), sự thành công này bắt đầu từ năm 1974, khi chính quyền Đài Loan quyết định chọn phát triển ngành bán dẫn như ngành công nghiệp trọng yếu.

    Thời điểm đó, nền kinh tế Đài Loan chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Trong những năm đầu thập niên 1970, Đài Bắc đã thành lập Viện Nghiên cứu công nghệ công nghiệp (ITRI) cùng 10 phòng nghiên cứu trực thuộc. ITRI không phải một cơ quan chính phủ và nhân viên của viện cũng không phải công chức. Viện hoạt động như một công ty độc lập, hợp tác theo hợp đồng cùng chính quyền.

    Ban đầu, Đài Bắc vẫn có một khoản đầu tư để thành lập ITRI. Nhưng ngay khi viện này ra đời, dòng vốn từ chính quyền lập tức bị ngắt và ITRI phải tự tồn tại bằng cách tìm kiếm hợp đồng. Chiến lược đó được đặt ra nhằm buộc ITRI phải hoạt động thật sự hiệu quả.

    Đến năm 1985, ông Moris Chang được chính quyền Đài Loan tuyển dụng để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn. Tại chính khuôn viên ITRI, ông Chang đã cho xây dựng một công xưởng mới - nơi sau đó trở thành xưởng sản xuất chip điện tử trên tấm bán dẫn (wafer fabrication) đầu tiên của TSMC.

    [​IMG]
    Công nhân kiểm tra chất lượng bo mạch điện tử sau khi qua lò sấy nhiệt tại công ty công nghệ cao trong Khu công nghệ cao TP.HCM - Ảnh: QUANG ĐỊNH

    Nắm lợi thế về nguồn nhân lực ngành bán dẫn
    Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có ưu thế về mặt nhân lực là lực lượng lao động trong các mảng kỹ thuật, công nghệ dồi dào.

    Ông Clark Tseng, giám đốc cấp cao của SEMI, đánh giá Việt Nam có lực lượng lao động trẻ và được đào tạo sẽ là nguồn tài nguyên quý cho ngành công nghiệp bán dẫn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng thể hiện sự ủng hộ ngành công nghiệp bán dẫn, đã và đang có nhiều chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư.

    Đây là những lợi thế giúp Việt Nam trở thành trung tâm chú ý trong ngành bán dẫn khu vực, bên cạnh yếu tố khách quan là cạnh tranh địa chính trị dẫn tới nhu cầu đa dạng hóa cơ sở sản xuất của doanh nghiệp.

    Bàn về vấn đề này, ông Nguyễn Thiện Nghĩa - phó cục trưởng Cục Công nghiệp công nghệ thông tin và Truyền thông (Bộ Thông tin và Truyền thông) - cho hay trong mảng kỹ thuật và công nghệ, hiện Việt Nam có khoảng 300.000 kỹ sư, lực lượng lao động khoảng 1,6 triệu người và khoảng 42.000 công ty. Những con người và công ty này góp phần giúp ngành công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) của Việt Nam đạt doanh thu khoảng 148 tỉ USD trong năm 2022.

    Về bức tranh toàn cảnh, ông Nghĩa cho rằng Việt Nam có nhiều công ty thiết kế, lắp ráp và thử nghiệm chip, trong đó đông đảo nhất là mảng thiết kế nhưng chưa có công ty nào trong khâu đúc chip. Câu hỏi đặt ra là: Nên chọn khâu nào và khi nào thì có công ty đặt tại Việt Nam nằm trong khâu đó một phần liên quan đến chi phí?

    Trong khi đó, giáo sư Mai Anh Tuấn - giảng viên cấp cao thuộc Trường đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội - trăn trở với việc sinh viên ngày càng ít quan tâm đến các ngành STEM trong khi nhu cầu cho ngành này, đặc biệt là bán dẫn, ngày càng lớn dẫn tới sự thiếu hụt. Việt Nam đang nỗ lực, chủ động giải quyết vấn đề thiếu hụt trong ngành này thông qua vai trò của các trường đại học.

    Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Radomir Tomovic - Công ty Dezan Shira - cũng đánh giá ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam đang có rất nhiều tiềm năng. "Công tâm mà nói thì trong khu vực châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau vùng lãnh thổ Đài Loan về tiềm năng phát triển trong ngành này", ông nói.

    * Ông Vũ Thanh Thắng (chủ tịch Công ty cổ phần SCS AI):

    Thách thức không nhỏ
    Để đạt được mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư công nghệ từ nay đến 2030 thì mỗi năm chúng ta phải đào tạo khoảng 6.250 kỹ sư công nghệ, một mục tiêu nhiều khó khăn. Ở nước ta chỉ có khoảng năm trường đại học đào tạo được như Đại học Bách khoa Hà Nội hay các trường đại học công nghệ.

    Như vậy, để đạt mục tiêu mỗi năm một trường phải đào tạo khoảng 1.250 kỹ sư công nghệ, đây là con số lớn. Thực tế, Đại học Bách khoa Hà Nội - một trường đào tạo kỹ sư công nghệ hàng đầu cả nước thì khoa điện tử (bao gồm nhiều ngành) chỉ đào tạo được khoảng 600 kỹ sư công nghệ/năm, trong số này chỉ có khoảng 300 kỹ sư IC design (thiết kế con chip).

    Nguồn lực đào tạo kỹ sư công nghệ cũng là một thách thức lớn vì trước đây chúng ta đào tạo lý thuyết về chip chứ không có thực tế sản xuất. Do đó số lượng giảng viên các trường cần để đào tạo hàng ngàn kỹ sư công nghệ một năm cũng là thách thức.

    Việc mang giáo trình từ Mỹ về các trường đại học trong nước để đào tạo kỹ sư công nghệ là một lợi thế. Giáo trình mang về tốt kết hợp với các thầy, trò có năng lực sẽ cho kết quả tốt. Tuy nhiên, điều hạn chế là thời gian đào tạo quá ngắn, "giờ bay" của cả thầy và sinh viên quá ít có thể ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo.
    https://tuoitre.vn/my-se-ho-tro-dao...anh-cong-nghiep-ban-dan-20230930094544953.htm

    nhaydung-gifnhaydung-gifnhaydung-gifnhaydung-gifnhaydung-gif

    [​IMG]

    nhintuidi-gifnhintuidi-gifnhintuidi-gif
    [​IMG]

    metwametwametwa
    [​IMG]
     
  2. z3r0_hien_lanh

    z3r0_hien_lanh John "Soap" MacTavish ⛨ Empire Gladiator ⛨ GVN Dalit

    Tham gia ngày:
    27/8/06
    Bài viết:
    17,007
    Nơi ở:
    nhà Karina
  3. KAI_[GVN]

    KAI_[GVN] Minh Nguyệt Thính Phong Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    24/9/11
    Bài viết:
    4,643
    Đào tạo xong về làm lương 5tr/tháng pepe-6
     
  4. HaiHợi

    HaiHợi Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    21/10/06
    Bài viết:
    235
    Nơi ở:
    Cộng đồng HM
    Đọc lướt tít ra
    =))
     
  5. lechihieu

    lechihieu Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    30/12/05
    Bài viết:
    177
    h nên học tiếng Anh hay tiếng Trung đây peepo_blesspray
     
  6. Evil_King

    Evil_King Fire in the hole! Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    24/5/10
    Bài viết:
    2,945
    Toạ @rekkhan kỹ sư hạt nhân bây giờ đang trôi dạt nơi đâupeepo_blesspray
     
    M-M thích bài này.
  7. Achiles88

    Achiles88 Persian Prince

    Tham gia ngày:
    22/6/15
    Bài viết:
    3,978
    Cũng gấp rút đào tạo nhân viên vận hành metro thôi ;))
     
  8. Eternal Suffering

    Eternal Suffering C O N T R A

    Tham gia ngày:
    31/3/23
    Bài viết:
    1,622
    VN mà có đc ngành công nghiệp bán dẫn nhờ Mỹ chắc lũ Hán nô quay xe hết quá. Cơ mà đời éo phải mơ. Cứ chờ xem thế nào. pu_feelsboxman
     
  9. Rain_Dance

    Rain_Dance Legend of Zelda Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    30/4/08
    Bài viết:
    1,078
    Nơi ở:
    Con phố nhỏ
    Trong đợt thủ tướng VN qua mẽo vừa rồi gặp được cả Jensen Huang với Bill Gates. Cùng đợt là thủ tướng Thái Lan với Malaysia cũng đều qua nhưng ko gặp được ai ngoài Tesla. Chứng tỏ là VN giỏi đi đêm mới thu xếp được nhiều vậy. Nhưng còn làm được hay ko thì còn lâu lắm =)).
     
  10. rebaron

    rebaron Sora, Wielder of Keyblades GameOver

    Tham gia ngày:
    22/8/21
    Bài viết:
    12,043
    Rồi được tham gia khâu nào trong chuỗi giá trị ngành bán dẫn worry-12
     
  11. Black_Squid

    Black_Squid C O N T R A

    Tham gia ngày:
    29/8/23
    Bài viết:
    1,640
    Hỏi thừa , đóng gói. Mỹ có đạo luật cấm chuyển giao công nghệ bán dẫn cho CS. Bú cu làm đệ ngoan giỏi như Ít xà đi pepe-1
     
    thienkai thích bài này.
  12. rebaron

    rebaron Sora, Wielder of Keyblades GameOver

    Tham gia ngày:
    22/8/21
    Bài viết:
    12,043
    High-Tech Supply Chains and the US-Vietnam Upgrade – The Diplomat

    Chuỗi Cung Ứng Công Nghệ Cao Và Sự Nâng Cấp Trong Quan Hệ Đối Tác Giữa Hoa Kỳ Và Việt Nam


    Mercy Kuo phỏng vấn TS. Alexander L. Vuving | The Diplomat

    Biên dịch: Lê Bá Nhật Thắng | Hiệu đính: Alexander L. Vuving

    [​IMG]
    Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phát biểu sau cuộc họp hai bên tại Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Hà Nội ngày 10 tháng 9 năm 2023. Ảnh: Adam Schultz/Official White House Photo
    Tác giả Mercy Kuo của tờ Diplomat thường xuyên có những cuộc trao đổi với các chuyên gia, các nhà hoạch định chính sách và các nhà tư tưởng chiến lược trên toàn cầu để có được những hiểu biết đa dạng về chính sách Châu Á của Hoa Kỳ. Cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Alexander Vuving là bài thứ 384 trong “Loạt bài nhận thức sâu về Tầm nhìn xuyên Thái Bình Dương.” TS. Alexander Vuving là giáo sư tại Trường Nghiên cứu An ninh tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á Thái Bình Dương Daniel K. Inouye và cũng là nhà biên tập cuốn “Hindsight, Insight and Foresight: Thinking about Security in the Indo-Pacific” (APCSS 2020).

    Năm 2021 ông dự đoán Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ trở thành đối tác chiến lược. Điều gì làm ông ngạc nhiên nhất về kết quả của việc nâng cấp quan hệ song phương gần đây?

    Đó không phải là một nâng cấp “thông thường”, mà là một sự nâng cấp kép từ “đối tác toàn diện” lên thẳng “đối tác chiến lược toàn diện”, bỏ qua giai đoạn “đối tác chiến lược” ở giữa. Hầu hết các nhà quan sát cho rằng Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng cường mối quan hệ giữa hai bên như một đối trọng với sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc. Nhưng nếu đơn thuần vì lo ngại sự quyết liệt của Bắc Kinh, Hà Nội sẽ chỉ đồng ý nâng cấp lên một bậc thành “quan hệ đối tác chiến lược”.

    Tôi nghĩ điều thực sự thuyết phục người Việt Nam “nhảy cóc” là lời đề nghị của Mỹ biến Việt Nam thành một trung tâm công nghệ cao và bán dẫn quan trọng trong chuỗi cung ứng “thân thiện với Mỹ và được Mỹ ủng hộ.” Sự hỗ trợ của Hoa Kỳ để Việt Nam có được công nghệ, hiểu biết, vốn và khả năng tiếp cận thị trường cần thiết cho tham vọng trở thành trung tâm công nghệ là một lời hứa quan trọng trong mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện đang được nâng cao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Lời đề nghị này chỉ trở nên rõ ràng trong năm nay, sau chuyến đi tới Hà Nội của Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Janet Yellen, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Katherine Tai và một số phái đoàn doanh nghiệp Hoa Kỳ.

    Cả hai nước sẽ được hưởng lợi như thế nào từ khái niệm “đối tác chiến lược toàn diện”?

    Việc nâng cấp này tạo nên một khuôn khổ cho mối quan hệ song phương. Những lợi ích mà sư nâng cấp mang lại hầu hết đều mang tính chất vô hình và có tính chiến lược đường dài. Một trong những lợi ích dễ thấy nhất của việc nâng cấp là nó báo hiệu cho toàn bộ hệ thống chính trị ở Việt Nam rằng Washington hiện là “đối tác chiến lược toàn diện” ngang hàng với những đối tác lâu năm của Việt Nam là Trung Quốc và Nga. Bên cạnh sự tôn trọng ở mức độ cao, nâng cấp mối quan hệ cũng cho thấy Việt Nam không còn coi Hoa Kỳ là mối đe dọa đối với chế độ Cộng sản. Do đó, Việt Nam sẽ đối xử thuận lợi với Mỹ hơn rất nhiều trong tương lai.

    Việc tăng cường quan hệ đối tác cũng sẽ mang lại lợi ích to lớn cho Việt Nam. Điều này báo hiệu cho thế giới rằng Việt Nam là điểm đến ưa thích trong chính sách “đưa chuỗi cung ứng về các nước bè bạn” của Hoa Kỳ. Các nhà đầu tư gắn liền với thị trường Hoa Kỳ sẽ nhận được sự đảm bảo về chính trị nếu gắn chuỗi cung ứng của mình vào Việt Nam. Điều này cực kỳ quan trọng đối với các công ty bị vướng vào cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung, chủ yếu là các công ty tham gia sản xuất và buôn bán các mặt hàng quan trọng về mặt chiến lược như chất bán dẫn.

    Ông hãy giải thích tính toán chiến lược và thông điệp địa chính trị của Hà Nội trong việc nâng cấp quan hệ với Washington.

    Việt Nam phải đối mặt với sự bất định tuyệt đối khi bước vào cuộc Chiến tranh Lạnh thứ 2, kỷ nguyên mới của cạnh tranh ngày càng cao giữa các cường quốc. Vì vậy, Việt Nam cần phải mở rộng sự phòng ngừa của mình. Vào tháng 12 năm 2021, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã ví chính sách đối ngoại lý tưởng của Việt Nam giống như cây tre vì tính linh hoạt và kiên cường của nó. Việt Nam nâng cao quan hệ với Hoa Kỳ là nhằm tối đa hóa sự linh hoạt của Hà Nội trong việc ứng phó với các cường quốc. Khi đã có “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” với cả ba cường quốc là Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga, Việt Nam cho rằng họ có thể “di chuyển” một cách tự do giữa ba cường quốc này. Việt Nam có thể chọn một bên phù hợp nhất với lợi ích của mình mà không hề “chọn phe” trong cuộc tranh hùng.

    Điều này đòi hỏi ván cờ mà Hà Nội chơi giữa các cường quốc không được là trò chơi có tổng bằng 0. Vì vậy, Hà Nội đã cố gắng cho Bắc Kinh và Moskva thấy sự nâng cấp trong quan hệ với Washington không làm tổn hại đến mối quan hệ của Hà Nội với cả hai cường quốc còn lại. Hà Nội cũng nỗ lực để cho Washington thấy rằng mối quan hệ tốt đẹp của Hà Nội với Bắc Kinh và Moskva không gây bất lợi cho quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Vì vậy, thông điệp trọng tâm mà Hà Nội muốn gửi đi là Việt Nam không chơi trò chơi có tổng bằng 0 giữa các cường quốc, và nếu Việt Nam đứng về phía một cường quốc trong một vấn đề nhất định, điều đó không có nghĩa là Việt Nam sẽ đứng về phe của bên đó một cách tuyệt đối.

    Trò chơi này lại đòi hỏi tài ngoại giao cây tre rất khéo léo. Một câu hỏi lớn là liệu cách tiếp cận này có bền vững về lâu dài hay không trong bối cảnh khoảng cách ngày càng tăng giữa một bên là Trung Quốc và Nga và một bên là phương Tây. Nếu vị trí địa lý của Việt Nam không có tính chiến lược cao, các cường quốc có thể sẵn sàng chấp nhận “sự hỗn tạp” địa chính trị này về lâu dài. Nhưng tôi e rằng vị trí của Việt Nam có thể quá chiến lược để điều đó xảy ra.

    Tác động tiềm tàng của việc nâng cấp quan hệ song phương đối với động lực an ninh khu vực và hội nhập kinh tế là gì?

    Việc nâng cấp sẽ ảnh hưởng đến cán cân quyền lực trong khu vực. Việt Nam và Hoa Kỳ chia sẻ các mục tiêu chiến lược là chống lại sự thống trị của Trung Quốc ở Đông Nam Á và duy trì trật tự quốc tế dựa trên các quy tắc trung lập ở Biển Đông. Mối quan hệ đối tác Hoa Kỳ-Việt Nam được nâng cao sẽ tạo thêm sức nặng cho khía cạnh này trong cán cân quyền lực.

    Về mặt kinh tế, mối quan hệ hợp tác này sẽ tạo ra một số thuận lợi cho chính sách “đưa chuỗi cung ứng về các nước bạn bè” của Hoa Kỳ. Nó sẽ thúc đẩy việc tái cơ cấu chuỗi cung ứng toàn cầu từ Trung Quốc sang một số quốc gia thân thiện với Hoa Kỳ.

    Xin ông đánh giá về các yếu tố và thời điểm nâng cấp đằng sau quyết định của Washington nhằm tăng cường hợp tác chiến lược với Hà Nội, và những tác động đối với sự lãnh đạo của Hoa Kỳ và Việt Nam ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

    Yếu tố cuối cùng thúc đẩy quan hệ chiến lược giữa Washington và Hà Nội là sự trỗi dậy của Bắc Kinh. Một mặt, ảnh hưởng ngày càng mở rộng của Trung Quốc ở Biển Đông, Campuchia và Lào khiến Việt Nam xích lại gần Hoa Kỳ hơn. Mặt khác, mối đe dọa của Trung Quốc đối với quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ khiến Hoa Kỳ phải tăng cường quan hệ với các nước sẵn sàng kháng cự lại Trung Quốc và tìm cách “lái” chuỗi cung ứng cho mình về các nước bạn bè. Việt Nam là một quốc gia như vậy với cam kết chống lại sự thống trị của Trung Quốc, vị trí chiến lược ở cửa ngõ phía nam Trung Quốc và vị trí địa lý dọc theo tuyến đường thương mại sầm uất nhất giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương cũng như tiềm năng kinh tế ấn tượng. Tất cả những chiến lược này hội tụ lại giúp mối quan hệ đối tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được nâng cao.

    Tuy nhiên, thời điểm của sự nâng cấp lại không đơn giản như vậy. Washington đã theo đuổi quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam từ năm 2010, nhưng Hà Nội chỉ ngừng từ chối lời đề nghị này vào năm 2018. Hai bên đã có kế hoạch nâng cấp quan hệ trong chuyến thăm Nhà Trắng lần thứ hai của người đứng đầu ĐCSVN vào cuối năm 2019, nhưng điều này chưa bao giờ thành hiện thực do TBT Nguyễn Phú Trọng đã không thể đi xa. Việc nâng cấp phải được công bố bởi lãnh đạo cao nhất của hai nước, Tổng thống Hoa Kỳ và Tổng bí thư ĐCSVN. Vì vậy, nó đã bị trì hoãn bởi đại dịch COVID-19.

    Sau đó, sự thù địch giữa Hoa Kỳ và Nga sau cuộc xâm lược Ukraina của Nga vào năm 2022 đã khiến Việt Nam tạm dừng việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ vì Hà Nội cần thể hiện cam kết của mình với Moskva, cùng với các cam kết khác. Việc nâng cấp chỉ có thể diễn ra sau khi Moskva tin chắc vào lòng trung thành của Hà Nội và Bắc Kinh yên tâm về những toan tính của Hà Nội.

    Trong khi Hà Nội nỗ lực thuyết phục Moskva và Bắc Kinh rằng mối quan hệ hợp tác được nâng cao với Washington sẽ không làm tổn hại đến mối quan hệ với hai quốc gia trên thì ngược lại, đây vẫn là một thắng lợi ngoại giao lớn đối với Hoa Kỳ. Nó cho thấy rằng Hoa Kỳ có thể thu hút ngay cả một người bạn lâu năm của Trung Quốc và Nga và Hoa Kỳ đủ khả năng biến kẻ thù thành bạn bè. Khả năng thu hút hay quyền lực mềm này cực kỳ quan trọng đối với vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ trên trường quốc tế.

    Quan hệ đối tác mới với Hoa Kỳ cũng nâng cao đáng kể vị thế của Việt Nam trên thế giới. Hà Nội hiện là một trong số ít thủ đô ở Châu Á có thể duy trì mối quan hệ chặt chẽ với tất cả các cường quốc. Mối quan hệ được nâng cao với Hoa Kỳ cũng cải thiện đáng kể vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu và về lâu dài kể cả vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
     

Chia sẻ trang này