Saburo Sakai và những trận chiến khốc liệt trên bầu trời Thái Bình Dương

Thảo luận trong 'War Thunder' bắt đầu bởi ki43hayabusa, 3/8/13.

  1. ki43hayabusa

    ki43hayabusa The Warrior of Light

    Tham gia ngày:
    14/3/07
    Bài viết:
    2,032
    Nơi ở:
    Manchester
    [spoil] LỜI NÓI ĐẦU

    Saburo Sakai đã trở thành một huyền thoại “sống” ở Nhật Bản trong suốt thời đệ nhị thế chiến. Khắp nơi, các phi công Nhật Bản đã nói đến những chiến công không thể tưởng tượng được của Sakai với tất cả sự nể phục
    Sakai đã hưởng được một tăm tiếng khác thường mà tất cả những phi công chiến đấu hằng ôm ấp trong lòng. Giữa các phi công Nhật Bản bắn rơi trên mười phi cơ địch, Saburo Sakai là phi công duy nhất chưa bao giờ để mất một đồng đội nào, bay sát cánh với anh trong khi chiến đấu. Đó là điều đáng kinh ngạc đối với một người đã từng tham dự hơn 200 trận không chiến, và việc nầy đã giải thích tại sao sự ganh đua ráo riết nhiều khi xảy ra xung đột giữa những phi công khác để dành bay cho được ở vị trí kề cận bên anh.
    Nhân viên bảo trì cho phi cơ anh tâng bốc anh không tiếc lời. Một chuyên viên cơ khí sẽ lấy làm hãnh diện khi được chỉ định săn sóc cho chiếc chiến đấu cơ Zero của Sakai. Theo lời những nhân viên dưới đất, trong suốt hơn 200 phi vụ chiến đấu, Sakai khéo léo đến nổi chưa bao giờ phải thực hiện 2 lần đáp, chưa bao giờ để cho phi cơ lật nhào hoặc va chạm cho dù phải đáp xuống trong đêm, người mang đầy thương tích và phi cơ bị hư hại nặng nề.
    Saburo Sakai nhận lãnh những vết thương trầm trọng trong trận không chiến ở Guadalcanal vào tháng 8 năm 1942. Anh đã cố gắng hết sức để đưa chiếc chiến đấu cơ què quặt trở về Rabaul, với các vết thương gây tê liệt cho cánh tay trái và chân trái, với con mắt bên mặt mù hẳn và con mắt trái chỉ thấy lờ mờ, với những mảnh kim loại ghim vào ngực và lưng, và với 2 viên đạn đại liên 12,7 mm chui vào nằm trong hộp sọ của anh. Hai vết thương sau cùng nầy là một trong những thiên anh hùng ca trên không vĩ đại nhất, một biến cố mà tôi tin rằng sẽ trở thành một huyền thoại giữa các phi công chiến đấu cơ.
    Hai vết thương nầy đã quá đầy đủ để chấm dứt những ngày chiến đấu của bất cứ ai. Hãy hỏi bất kì một cựu phi công chiến đấu nào đã từng gặp những khó khăn kinh khiếp, xem họ có bao giờ lâm trận chỉ với một con mắt hay không? Nhứt là khi viên phi công một mắt đó phải quay lại chiến đấu trong một chiến đấu cơ Zero cổ lổ để chống lại những chiếc chiến đấu cơ Hellcat tối tân và siêu đẳng của Hoa Kỳ vừa đưa vào sử dụng.
    Sau những tháng dài dằng dặt oằn oại đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, giữa lúc hy vọng trở lại với tình yêu đầu, tức không gian bao la kia, đã tắt hẳn. Một lần nữa Sakai lại bước vào trận chiến. Không chỉ lấy lại phong độ khéo léo của ngày trước, nhưng anh còn hạ thêm bốn chiến đấu cơ địch nữa nâng tổng số lên 64 phi cơ địch bị anh hạ.
    Người đọc chắc hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết được rằng Saburo Sakai chưa bao giờ nhận bất kì một loại huy chương hoặc tuyên dương công trạng nào do chính phủ của anh ban tặng. Những loại ban tặng nầy, người Nhật chưa hề biết đến. Công trạng chỉ được thừa nhận sau khi một người đã nằm xuống. Trong khi những phi công giỏi (hạ trên 10 phi cơ địch) của các quốc gia khác bao gồm cả Hoa Kỳ trên ngực họ sẽ lòe loẹt hết dãy huy chương nầy đến dãy huy chương khác và kèn trống rình rang mỗi khi được ban tặng. Sakai và những phi công đồng đội thực hiện các phi vụ chiến đấu không biết bao nhiêu lần mà họ vẫn chưa từng được nếm mùi sự thừa nhận công khai như vậy.
    Lần đầu tiên câu chuyện của Saburo Sakai sẽ cung cấp cho người đọc một sự hiểu biết cặn kẻ về phía “đối phương”. Sakai tiêu biểu cho một lớp người Nhật mà chúng ta ít biết hoặc chưa từng biết đến. Đây là những Samurai (Võ Sỹ Đạo) lừng lẫy, những chiến sỹ thiện nghệ, bỏ cả một đời để phục vụ cho xứ sở họ. Thế giới của họ là một thế giới cách biệt hẳn với thế giới của chính dân tộc họ. Bây giờ, lần đầu tiên, các bạn sẽ có thể nghe được suy tư, cảm xúc và xúc động của những người đã từng chĩa “mũi dùi Nhật Bản” vào không trung ấy.
    Trong lúc viết quyển sách nầy, tôi có được sự may mắn đàm luận với nhiều người bạn Hoa Kỹ trong số những người đã từng lái chiến đấu cơ tham dự mặt trận Thái Bình Dương trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Những người nầy đã nhìn các phi công chiến đấu Nhật Bản, địch thủ của họ, như là một thực thể khó hiểu. Họ không bao giờ nghĩ các phi công chiến đấu Nhật là một con người đúng nghĩa của nó, nà là một cái gì xa lạ và khác biệt đối với họ. Chẳng hạn như Sakai
    Samurai ! Những kẻ đã mang trận chiến trên không ở Thái Bình Dương vào một phối cảnh mới. Các nổ lực tuyên truyền thời chiến của Hoa Kỳ đã bóp méo hình ảnh người phi công Nhật, biến họ thành một bức hoạt kê khó chấp nhận được. Nội dung của bức hoạt kê nầy đã mô tả một kẻ xẩy chân từ trên không trung xuống với đôi mắt kèm nhèm, và hắn ta sở dĩ còn lơ lửng được là nhờ ơn trời.
    Thái độ khinh thường nầy là một thái độ nguy hiểm. Saburo Sakai là một thiên tài bậc nhất trên không, không thua gì các phi công tài ba nào của bất kì quốc gia nào. Anh luôn luôn phải được xếp vào hàng những phi công vĩ đại nhứt mọi thời đại. 64 phi cơ đã rơi trước họng súng của anh. Tiếng chuông báo tử sẽ gõ nhiều hơn nữa, nếu anh không nhận lãnh những vết thương trầm trọng.
    Hành vi và lòng can đảm của các phi công Hoa Kỳ được mang ra thử thách trong suốt cuộc Đệ Nhị Thế Chiến không cần đòi hỏi sự biện giải. Chúng ta (người Mỹ) cũng có sự vĩ đại và tầm thường của chúng ta. Tuy nhiên, rất nhiều trong số những chiến thắng trên không của chúng ta được ghi vào tài liệu cũng chỉ dựa trên giấy tờ
    Chẳng hạn như câu chuyên phi thường của Đại úy Colin P.Kelly Jr, người đọc sẽ không tìm thấy một mảy mai hứng thú nào trong câu chuyện kể của Sakai về cái chết của Kelly vào ngày 10 tháng 12 năm 1941 trong quyển sách nầy.
    Theo câu chuyện về cái chết của Kelly trước đó: ông đã tấn công và đánh chìm thiết giáp hạm Haruna, ông đã tả xung hữu đột mở lối xuyên qua một nhóm chiến đấu cơ đối phương, ông đã tự sát bằng cách bổ nhào xuống một chiến hạm địch, ông đã được truy tặng huân chương Danh Dự của Quốc Hội Hoa Kỳ. Nhưng tất cả chỉ là một câu chuyện sai lầm. Tại vì sự quan sát chiến trường không chính xác hoặc tại vì nôn nóng muốn tìm cho ra một vị “anh hùng” sau trận Trân Châu Cảng của dân chúng Hoa Kỳ ?
    Vào lúc mà chiếc Haruna được báo cáo bị đánh chìm, nó đang ở phía khác của Nam Hải , đảm trách nhiệm vụ yểm trợ cho mặt trận Mã Lai Á. Không có một thiết giáp hạm nào của Nhật ở quần đảo Philippine. Chiến hạm mà Kelly đã tấn công nhưng không đánh chìm, theo Sakai và các phi công Nhật bay bao che trên chiến hạm nầy là một tuần dương hạm hạng nhẹ 4000 tấn. Sau khi tấn công, Kelly rời khu vực trước khi các phi cơ Nhật phát hiện và truy đuổi. Ông không cho phi cơ bổ nhào xuống nhưng vừa trốn chạy vừa thả bom từ cao độ 22.000 bộ và sau đó bị Saburo Sakai bắn rơi gần phi trường Clark ở Philippine. Kelly được truy tặng, không phải là huân chương Danh Dự của Quốc Hội Hoa Kỳ mà là huy cương Chiến Công Bội Tinh.
    Để bổ túc đầy đủ thành tích và câu chuyện của Saburo Sakai, trong vòng một năm Fred Saito đã gặp Sakai mỗi cuối tuần, để khai quật quá khứ chiến đấu của một phi công đại tài Nhật Bản, hiện nay vẫn còn sống ngay sau chiến tranh, Sakai đã sắp xếp lại tập ghi chép đồ sộ về những kinh nghiệm mà anh đã trãi qua. Tập ghi chép nầy, cộng thêm hàng ngàn câu hỏi được đặt ra bởi Saito, một thông tín viên tài ba và kinh nghiệm của Associated Press đã làm sống lại câu chuyện riêng của Sakai.
    Sau đó, Saito đã tìm tòi lục lọi qua hàng ngàn trang hồ sơ của Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản. Ông đã đi khắp nước Nhật, phỏng vấn nhiều sỹ quan và phi công còn sống sót, để thâu thập những câu chuyện do họ kể lại. Nhằm tạo ra tập tài liệu xác thực nầy, quân nhân mọi cấp, từ anh binh nhì thuộc nhóm chuyên viên bảo trì cho đến hàng tướng lãnh và đô đốc đều được hỏi dò. Thật ra, nhiều câu chuyên kể về các trận đánh của Sakai vẫn vấp nhiều khiếm khuyết, bở lẽ những hồ sơ chánh thức của Nhật Bản hoặc Hoa Kỳ không thể dùng làm tài liệu được.
    Tài liệu có giá trị đặt biệt là nhật ký chiến đấu của cựu đại tá phi công Hải Quân Masahisa Saito. Đại tá Saito, cấp chỉ huy của Sakai ở Lae, đã ghi chép tỉ mỉ các biến cố xảy ra trong suốt thời gian ông chiến đấu tại khu vực nầy. Vì đây là một quyển nhật ký cá nhân nên không phải đệ trình lên Tổng Hành Dinh Hoàng Gia, Fred Saito và tôi xem nó như là một tài liệu đơn độc có giá trị nhất của cuộc không chiến trên Thái Bình Dương.
    Có một khuyết điểm vào lúc đó, là các sỹ quan hầu như không báo cáo những khó khăn vấp phải trong khu vực chỉ huy tiền tuyến của họ về tổng hành dinh hậu phương. Sự kiện đặc biệt thường xảy ra trong hệ thống chỉ huy của Hải Quân Hoàng Gia. Nhật ký cá nhân của đại tá Saito đã ghi lại đầy đủ chi tiết con số phi cơ trở về hoặc không trở về từ các phi xuất được thực hiện hầu như hàng ngày ở mặt trận New Guinea. Ông cũng ghi lại nhiều cuộc chiến thắng của phi công Hoa Kỳ với sự chứng kiến trực tiếp của ông. Đại tá Saito vẫn còn sống, và những cuộc phỏng vấn kéo dài với ông đã chứng tỏ sự giá trị của quyển sách nầy.
    Trung tá phi công hải quân Tadashi Nakajima, nhân vật xuất hiện hầu như trong suốt quyển sách nầy, hiện thời là một đại tá trong tân không lực Nhật Bản. Qua nhiều cuộc tiếp xúc với đại tá Nakajima, ông đã cung cấp cho chúng tôi nhiều dữ kiện cần thiết nhất. Đồng thời giúp chúng tôi nhận được sự giúp đỡ lớn lao của trung tướng Minoru Genda, nguyên là một đại tá phi công Hải Quân và là người đã chỉ huy Sakai trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.
    Chúng tôi cũng mang ơn đại tá Masatake Okumiya hiện thời là giám đốc cơ quan tình báo kiêm tham mưu trưởng hổn hợp Nhật Bản. Đại tá Okumiya, một trong những người cộng tác với tôi để viết 2 quyển “Zero” và “Chiến đấu cơ Zero”, đã tham dự nhiều trận không chiến hơn bất kì sỹ quan Nhật Bản nào khác, và vào năm cuối của cuộc chiến, ông đã chỉ huy công việc phòng không nội địa của Nhật Bản. Qua các cố gắng của ông, chúng tôi mới được xem qua những hồ sơ cần thiết trong các văn khố của Bộ Hải Quân Hoàng Gia trước kia.
    Tôi thấy cũng cần phải nói qua thái độ của Sakai đối với đời sống hiện tại của anh, trong tư cách một phi công đại tài nhất của Nhật Bản còn sống sót. Sakai cảm thấy rằng sở dĩ anh còn sống sót trong cuộc bại trận và trong những trận không chiến từ năm 1943 trở về sau đó, chỉ là may mắn. Có nhiều phi công Nhật Bản đại tài khác như: Nishizawa, Ota, Takatsuka, Sasai v.v… những người đã chiến đấu cho đến khi các trận không chiến quá chênh lệch đã hạ gục họ.
    Đây là những lời nói sau chiến tranh của Sakai: “ Hồi ở trong Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản, tôi chỉ biết một đường lối duy nhứt là làm sao để điều khiển một chiếc chiến đấu cơ và làm sao để tiêu diệt cho nhiều kẻ thù của xứ sở tôi. Việc nầy tôi đã làm gần 5 năm, ở Trung Hoa và trên Thái Bình Dương. Tôi không biết đời sống nào khác. Tôi là một chiến sỹ của không trung.
    Với cuộc đầu hàng, tôi bị quăng ra khỏi Hải Quân. Mặc dù người mang đầy thương tích và thời gian phục vụ khá lâu, tôi không được lãnh một món tiền trợ cấp nào cả. Chúng tôi là những kẻ trắng tay, và tiền hưu bổng hoặc trợ cấp tàn phế chỉ được dành cho những cựu chiến binh của một quốc gia chiến thắng.
    Ngay cả việc ngồi trên ghế lái phi cơ tôi cũng bị nhà cầm quyền chiếm đóng cầm đoán, không cần biết đó là loại phi cơ gì. Trong 7 năm chiếm đóng dài đăng đẵng của Đồng Minh, từ năm 1945 đến 1952, tôi bị cấm nhận lãnh bất kì chức vụ công nào. Việc nầy không có gì khó hiểu tôi từng là một phi công chiến đấu.
    Sự kết thúc của cuộc chiến Thái Bình Dương chỉ mở ra cho tôi một cuộc xung đột, còn tồi tệ hơn bất kì cuộc xung đột nào mà tôi đã từng gặp trong khi chiến đấu. Có nhiều kẻ thù mới và ghê gớm hơn, nghèo khổ, bệnh tật, bịnh hoạn và bao nỗi bực bội khác. Nhà cầm quyền chiếm đóng đã xây một hàng rào sừng sững quanh tôi. Hai năm của một kẻ lao động chân tay nhọc nhằn nhứt, tôi chui rúc trong các khu ổ chuột, với quần áo đầy chí rận và hiếm khi no lòng
    Một cú đấm chí tử: cái chết của người vợ thân yêu nhứt của tôi do bịnh hoạn gây ra. Dưới những trận mưa bom, dưới những hiểm nguy của cuộc chiến, Hatsuyo đã tồn tại. Tuy nhiên nàng không thể nào thoát khỏi tay kẻ thù mới nầy.
    Cuối cùng, sau nhiều năm thiếu thốn, đói khổ tôi đã góp nhóp dành dụmủu tiền để mở ra một quán ăn nhỏ. Có công mài sắt… và ít tia sáng đã nhìn thấy trước mắt.
    Tôi đi tìm ngay góa phụ của đề đốc Takijiro Onishi, mà tôi đã gặp nhiều tháng trước đây. Đề đốc Onishi đã mổ bụng tự sát ngay sau cuộc đầu hàng vào năm 1945. Ông không muốn sống trong lúc những người nhận tử lịnh của ông không bao giờ trở về. Bởi lẻ, cha đẻ của Thần Phong Kamikaze không ai khác hơn là Onishi.
    Đối với tôi bà Onishi còn hơn là một góa phụ của một vị đề đốc, bà chính là người dì của trung úy Sasai, một người bạn thân nhất của tôi. Sasai đã bay vào cõi chết trên không phận New Guinea giữa lúc tôi còn nằm trong một bệnh viện.
    Nhiều năm nay bà Onishi tàn tạ, rách rưới, lang thang xin ăn trên đường phố. Tôi xúc động khi nhìn thấy thân thể gầy gò của bà ghém trong manh áo tả tơi, nhưng tôi không biết cách nào để giúp đỡ.
    Bây giờ, với một quán ăn nhỏ, tôi cố thuyết phục bà đến làm việc với tôi. Công ăn việc làm của chúng tôi sớm phát đạt. Tôi lại để ý tìm kiếm và mang về cơ sở thêm nhiều góa phụ khác, cũng như một số anh em của những người bạn thân đã từng bay với tôi và chết trận trước đây.
    Cũng may, mọi việc đều biến chuyển. Hiện thời chiến tranh đã chấm dứt hơn 10 năm rồi. Cơ sở của chúng tôi càng ngày càng phát đạt và những người làm việc với tôi đã phục hồi lại nếp sống của họ.
    Quả thật, những năm sau nầy là những năm đầy lạ lùng đối với tôi. Trong tư cách khách mời danh dự, tôi được lên thăm viếng một số hàng không mẫu hạm và các tàu chiến khác của Hoa Kỳ. Việc thay đổi bất ngờ từ những chiếc chiến đấu cơ Zero, Hellcat cổ lổ sang các phản lực chiến đấu cơ tối tân khiến tôi kinh ngạc. Tôi đã gặp những người từng đối đầu với tôi trên không, ngồi bên nhau nói chuyện, và tìm thấy tình thân mật.
    Nhiều lần tôi được mời cộng tác với tân không lực Nhật Bản, nhưng tôi đã từ chối. Tôi không muốn trở lại quân đội, tôi không quá khứ sống lại trong tôi.
    Nhưng bay, cũng giống như bơi lội, không dễ gì quên được. Tôi đã ở trên mặt đất hơn 10 năm. Tôi luôn luôn thấy như mình đang rờ mó lại tất cả những dụng cụ trên phi cơ tất cả những gì mà người phi công đã biết.
    Không, tôi không bao giờ quên được nghề bay. Nếu Nhật Bản cần tôi, nếu quốc gia của chúng tôi bị đe dọa xâm lăng, tôi lại bay nữa. Nhưng tôi chân thành cầu nguyện rằng đó không phải là lý do để tôi trở về với bầu trời cao.”
    SABURO SAKAI MARTIN CAIDIN
    Đông Kinh, 1956 New York, 1956 [/spoil]

    - - - Updated - - -

    [spoil]Chương I

    Trên hòn đảo chánh Kyushu ở cực Nam Nhật Bản, thành phố Saga nhỏ bé nằm giữa lộ trình đưa đến ha trung tâm quan trọng, mà những năm gần đây đã trở thành quen thuộc đối với hàng nhiều ngàn người Mỹ. Ở Sasebo có căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ với hầu hết hạm đội đã tham dự vào cuộc chiến Triều Tiên, và từ các phi trường ở Ashiya, chiến đấu cơ và oanh tạc cơ Mỹ cất cánh bay ngang qua eo biển nhỏ hẹp Tsushima để tấn công quân Trung Cộng và Bắc Hàn
    Các cuộc viễn chinh xuyên eo biển Tsushima không phải mới mẻ gì đối với thành phố Saga. Tổ tiên của chúng tôi đã từng có chân trong lực lượng Nhật Bản, phát xuất từ Saga, xâm chiếm Triều Tiên vào năm 1592. Hình ảnh của cuộc xung đột mới ở Triều Tiên không phải là không có trước đây. Cuộc chiến Nhật Bản – Triều Tiên thời Trung Cổ, năm 1597, đã bị đẩy vào nước bí sau khi triều đình nhà Minh tung lực lượng Trung Hoa vào phía Triều Tiên, giống như hành động của Trung Cộng ở cuộc chiến hiện đại.
    Như vậy, giòng họ của tôi có một nguồn gốc binh nghiệp, và trãi qua nhiều năm, tổ tiên của tôi đã trung thành phục vụ lãnh chúa Saga cho đến kỳ Trung Ương Tập Quyền vào thế kỷ XIX, tất cả lãnh chúa đều qui về tay Thiên Hoàng.
    Trong thời phong kiến, dân chúng Nhật Bản chia ra làm bốn giai cấp, giòng họ tôi được hưởng đặc quyền của giai cấp cầm quyền, đó là giai cấp Samurai. Sống cách biệt hẳn với các giai cấp khác, giới Samurai kiêu hãnh không quan tâm đến các vấn đề riêng tư, họ tận tùy với công việc điều hành chánh quyền địa phương, và luôn luôn chuẩn bị các biến cố đòi hỏi lòng dũng cảm chiến đấu của họ. Vị lãnh chúa sẽ đảm bảo đời sống của các Samurai, họ không cần chú ý đến gia sản hoặc lợi lộc nào khác.
    Việc phế bỏ các giai cấp vào thế kỷ XIX như một cú đấm chí tử nện vào giới Samurai đầy kiêu hãnh. Chỉ một cú đấm, tất cả những đặc quyền trước đây của họ đều bay hết, và họ bắt buộc phải chuyển sang nghề buôn bán, nghề nông. Họ không thể nào thích nghi với đời sống mới.
    Có lẻ vì vậy mà hầu hết Samurai trở nên nghèo khốn, cố gắng tìm miếng ăn bằng những nghề lao động ti tiện nhứt, hoặc quần quật suốt ngày trên mảnh đất nhỏ bé của họ. Đời sống của ông nội tôi không hơn gì các bạn hữu của ông. Khi rời nghiệp võ, ông được cấp cho một nông trại nhỏ. Ở đó, ông đã quần quật sống một cách thống khổ, và ở đó vào ngày 26 tháng 8 năm 1916, tôi chào đời. Ba tôi có 4 trai, 3 gái, tôi thứ ba.
    Mĩa may thay, tôi lại bước trên con đường gần gũi với con đường mà ông nội tôi đã đi qua. Khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh tháng 8 năm 1945, tôi là phi công dẫn đầu các phi công hạ trên 10 phi cơ địch còn sống sót của xứ sở tôi. Tôi đã chánh thức đốn ngã 64 phi cơ địch trong các trận không chiến. Tuy nhiên, với sự kết thúc của chiến tranh, tôi bị sa thãi khỏi Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản và bị cấm nhận bất kì công việc nào của chính phủ. Không một xu dính túi, không nghề không nghiệp, tôi không thể tìm được một việc làm thích hợp trong một thế giới mà tất cả đều đổ nát quanh tôi. Giống như ông nội của tôi, tôi đã sống bằng sức lao động chân tay, nhọc nhằn không kể xiết. Nhiều năm phấn đấu gay go, tôi tìm cách dành dụm đủ số tiền để mở một nhà in nhỏ và lấy đó làm sinh kế…
    Công việc trồng trọt nhọc nhằn trên mảnh đất nhỏ bé của gia đình oằn xuống đôi vai của má tôi, người đã bỏ cả một đời cho 7 đứa con. Khi tôi lên 7, gánh nặng trên vai má tôi oằn thêm, vì người trở thành góa phụ. Những gì mà tôi nhớ về má tôi vào thời gian đó là hình ảnh một người đàn bà cần cù làm việc, còng lưng hết giờ nầy sang giờ trên thửa đất dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, với đứa con giá nhỏ nhất đai trên lưng.
    Người đàn bà ấy, không bao giờ tôi nghe hở môi than thở một lời. Bà là một trong những người can đảm nhứt mà tôi chưa từng thấy, một mẫu người Samurai, kiêu hãnh và cứng rắn, nhưng không phải là không có một trái tim biết xúc động.
    Thỉnh thoảng tôi bị bọn học sinh lớn tuổi đánh đập, tôi khóc sướt mướt trở về nhà. Những giọt nước mắt của tôi không làm má tôi động lòng, người còn nhíu mày và gay gắt nói: “Con không biết xấu hổ à! Đừng quên con là con trai của một Samurai, con không được quyền khóc.”
    Lúc còn theo học trường tiểu học trong làng, tôi chăm chỉ học hành và luôn đứng đầu lớp trong suốt 6 năm. Nhưng con đường học vấn xa hơn nữa của tôi quá mù mịt. Điều quan trọng là nếu muốn học cao hơn nữa, gia đình học sinh phải đài thọ tiền bạc. Dĩ nhiên, điều nầy quá khả năng đối với gia đình tôi, vì chỉ lo ăn, lo mặc cũng vẫn chưa đũ. Tuy nhiên, bất ngờ người chú bà con xa của tôi ở Đông Kinh đề nghị lo liệu hết mọi khoản phí học hành của tôi. Gia đình tôi đã chấp nhận lòng tốt nầy không một chút đắn đo. Chú tôi là một viên chức có địa vị ở Bộ Giao Thông, và đề nghị của ông: ngoài việc nuôi ăn học còn nhận tôi làm con nuôi. Chúng tôi tiếp đón dịp may nầy với lòng biết ơn.
    Khắp nước Nhật, lãnh địa phong kiến Saga là một trong những lãnh địa nghèo nhất. Trãi qua nhiều thế hệ, giai cấp Samurai ở Saga đã sống một đời sống khắc khổ, và nổi tiếng nhờ kỷ luật bản thân nghiêm ngặt của họ. Saga là tỉnh lỵ duy nhứt xem Bushido (tức tâm niệm của giới Samurai) như là một giáo lý. Một trong những câu chánh yếu của tâm niệm nầy: “Samurai đã sống một đời sống như vậy, hắn luôn luôn chuẩn bị để chết.”. Trong những năm chiến tranh, những tâm niệm Bushido đã trở thành sách giáo khoa cho tất cả học đường Nhật Bản. Chúng đã thâm nhập vào tôi, và giúp tôi rất nhiều trong đời sống lúc còn đi học, cũng như những năm chiến đấu sau nầy.
    Mọi thứ ở Đông Kinh đều làm tôi ngơ ngác. Tôi chưa bao giờ biết qua một thành phố lớn nào hơn Saga, với 50.000 dân cư của nó. Sự ồn ào náo nhiệt ở thủ đô Nhật Bản khó có thể tưởng tượng nổi. Với tiếng động ầm ĩ suốt ngày, những tòa nhà vĩ đại và mọi hoạt động khác, có thể nói nơi đây là một trong những thành phố lớn nhất thế giới . Tôi cũng nhận thấy Đông Kinh vào năm 1929 là một nơi chốn ganh đua trên mọi lĩnh vực, không chỉ các học sinh đã ra trường ganh đua một cách gay go để tìm chổ làm, nhưng ngay cả các học sinh nhỏ cũng ganh đua ráo riết để giành giựt cho được một chổ ngồi trong mấy học đường danh tiếng.
    Những tưởng những gì tôi đã đạt ở thôn quê đã là giỏi giang và dư sức có được chổ học. Tôi nghĩ rằng sự phi thường của tôi trong tư cách là một học sinh dẫn đầu lớp trong suốt cả 6 năm ở bậc tiểu học. Nhưng ở đây, tôi không bao giờ đối đầu nổi với các học sinh cặm cụi đèn sách ngày đêm, luôn luôn rình mò để đánh bại các bạn đồng lớp của mình. Các trường trung học chọn lọc ở Đông Kinh, đều tuyển chọn những học sinh xuất sắc của các trường tiểu học. Hơn nữa cứ 30 học sinh dự tuyển chỉ chọn 1 học sinh là cùng.
    Đó là điều không thể nào ngờ đối với một đứa trẻ nhà quê như tôi. Không khí náo loạn và xa lạ nầy đã khiến tôi ngơ ngác. Không hy vọng vô học trong các học đường danh tiếng, tôi đành ghi tên vô trường Aoyama Gakuin, do các nhà truyền giáo Hoa Kỳ thiết lập nhiều năm trước đó. Mặc dù trường nầy không nổi danh bằng các trường khác, nhưng nó cũng có chút ít tiếng tăm.
    Đời sống của tôi trong gia đình người chú rất dễ chịu. Mặc dù chú tôi nghiêm khắc, ít chú ý đến con cái, nhưng mợ tôi và mấy đứa em bà con của tôi tỏ ra tử tế và thân mật. Trong không khí vui vẻ nầy, tôi lại bắt đầu những ngày của một học sinh trung học, với lòng đầy nhiệt thành và tham vọng. Tôi nhứt quyết phải luôn luôn đứng đầu lớp.
    Không đầy một tháng sau, giấc mộng của tôi tan biến. Hy vọng dẫn đầu lớp như trước kia của tôi đã vỡ thành từng mảnh. Việc nầy hiển nhiên không chỉ do lỗi mấy ông thầy trường làng của tôi mà cũng do chính tôi nữa. Tôi nhận thấy có nhiều học sinh chưa bao giờ đứng đầu lớp hồi còn ở tiểu học lại học giỏi hơn tôi khi lên bậc trung học. Điều nầy khó tin, nhưng là sự thật. Bởi lẽ họ biết nhiều thứ mà tôi không biết cho dù tôi cố học ngày học đêm, tôi cũng không thể nào tiến bộ mau lẹ hơn họ được.
    Kỳ thi đệ nhứt lục cá nguyệt chấm dứt vào tháng bảy. Hạng trung bình trong kết quả học của tôi khiến chú tôi thất vọng não nề, và gây nhiều chán nản, tôi biết sở dĩ chú tôi đài thọ tất cả tiền bạc ăn học cho tôi vì ông cảm thấy tôi là một đứa trẻ đầy hứa hẹn, có thể luôn luôn đứng đầu lớp. Sự bất mãn của ông không thể nào phủ nhận được. Do đó, thời gian nghỉ hè, tôi cấm đầu cấm cổ lo học. Trong khi các bạn đồng lớp vui chơi, tôi miệt mài đèn sách, quyết định lấp đầy khoảng trống học vấn của mình. Nhưng niên học bắt đầu vào thàng Chín đã chứng minh các nổ lực của tôi là vô ích. Tôi không đạt được một tiến bộ nào.
    Việc học hành gặp hết thất bại nầy đến thất bại khác đã làm cho tôi tuyệt vọng cùng cực. Không những các môn học của tôi chỉ đứng trung bình trong lớp, mà ngay cả những môn thể thao tôi cũng thua sút mọi người. Rõ ràng có nhiều học sinh trưởng thành nhanh nhẩu, hoạt bát hơn tôi.
    Thay vì tiếp tục cố gắng để vượt qua các bạn đồng học xuất sắc trong lớp, tôi làm bạn với một số học sinh kém cõi. Tôi cầm đầu bọn nầy, và sau đó tôi bắt đầu khai chiến với các học sinh lớn tuổi. Không ngày nào tôi không tìm cách đánh nhau với họ. Hầu như mỗi đêm tôi đều về nhà với mình mẩy bầm dập. Tuy nhiên, tôi đã dấu kín những cuộc phiêu lưu nầy một cách kín đáo.
    Cú đấm đầu tiên giáng xuống vào cuối niên học của tôi. Một bức thư của thầy học thông báo cho chú tôi biết tôi là một “học sinh cầ phải lưu tâm”. Điều tốt nhất mà tôi có thể làm là bỏ qua những trận đấm đá không quan trọng, nhưng tôi không bỏ qua những phương cách chứng tỏ rằng tôi là một học sinh “tốt hơn”, các học sinh lớn tuổi. Vì vậy, những bức thư của thầy dạy tôi tiếp tục bay về nhà nườm nượp, và cuối cùng, chú tôi được mời đến trường để nghe báo cáo trực tiếp về hành vi xấu xa của tôi
    Tôi chấm dứt niên học thứ nhì hầu như ở cuối danh sách. Như vậy, đối với chú tôi cũng đã quá nhiều rồi.
    Những bài “lên lớp” của ông càng lúc càng gia tăng thịnh nộ, và bây giờ quyết định của ông là không cho tôi ở Đông Kinh nữa.
    Lời nói sau cùng của chú tôi: “ Saburo, chú chán rầy la cháu rồi, và chú thấy không thể làm gì khác hơn, nhưng dù sao hình như chú đã làm cho một người con đầy kiêu hãnh của giòng họ Sakai đi và con đường quấy. Cháu nên trở về Saga.” Không biết làm sao hơn. Tôi không thốt ra một lời bào chữa nào, vì những điều chú tôi nói đều đúng sự thật. Tôi nhận tất cả phần lỗi về tôi. Nhưng tôi không để lộ vẻ gì gọi là tủi hổ khi phải trở về Saga. Tôi quyết định dấu kín nỗi lo lắng, nhứt là với con gái của chú tôi, Hatsuyo, người mà tôi rất yêu mến. Tôi lên đường, như là một chuyến về thăm gia đình ở Kyushu.
    Tuy nhiên, đêm đó, khi xe lửa rời nhà ga Trung Ương Đông King trực chỉ 800 dặm đến Saga, tôi không thể nào cầm được nước mắt. Tôi đã làm cho gia đình tôi thất vọng, và tôi cảm thấy sợ hãi khi phải trở về nhà.[/spoil]

    - - - Updated - - -

    [spoil]Chương II

    Tôi trở về nhà như là một sự nhục nhã cho gia đình tôi cũng như cho làng nước. Gặp nhiều vấn đề rắc rối, sự nghèo đói của gia đình tôi càng lúc càng trầm trọng. Má tôi và người anh lớn cắm cúi trên thửa đất nhỏ từ bình minh cho đến hoàng hôn. Cả hai người, và ba chị gái của tôi, ăn mặc quần áo tả tơi. Mái tranh, nơi tôi đã lớn lên, tiêu điều dột nát.
    Mọi người trong làng đã phấn khởi và đặt hết tin tưởng vào chuyến đi Đông Kinh của tôi, họ chờ đợi chia xẻ sự thành công của tôi. Bây giờ, mặc dù tôi làm cho họ thất vọng, nhưng không ai buông thẳng một lời trách cứ nào. Tuy nhiên trong đôi mắt họ có bóng dáng của sự xấu hổ, và họ thường quay mặt để tránh làm tôi bối rối. Bởi thái độ nầy mà tôi không dám đi lại trong làng. Tôi không thể nào chịu đựng nổi sự trách mắng lặng lẻ của họ. Mong muốn chạy trốn khỏi nơi tủi hổ nầy trở thành mong muốn mãnh liệt trong tôi.
    Bấy giờ tôi nhớ lại tấm yết thị to tướng ở nhà ga Saga kêu gọi thanh niên tình nguyện gia nhập vào hải quân. Đầu quân hình như là lối thoát duy nhứt cho một kẻ sống trong tình trạng khổ sở. Má tôi, từng chịu đựng sự vắng mặt của tôi trong mấy năm, đã than khóc trước quyết định ra đi một lần nữa của tôi. Nhưng bà không còn cách nào khác để chọn.
    Ngày 31 tháng 5 năm 1933, tôi đầu quân ở căn cứ hải quân Sasebo, và trở thành một thủy thủ 16 tuổi. Căn cứ nầy cách phía Đông nhà tôi 50 dặm. Tôi bắt đầu một đời sống mớu của một thứ kỷ luật sắt, của một sự cứng rắn vượt xa cả những cơn ác mộng kinh hoàng nhất trong cuộc đời tôi. Và chính nhờ vào tâm niệm Bushido mà tôi đã tồn tại.
    Chắc chắn rằng đọc giả xứ ngoài sẽ khó tán thành thứ kỷ luật thép mà tôi phải chịu đựng trong Hải Quân. Các hạ sỹ quan không ngần ngại trong việc đánh đập tàn nhẫn tân binh mà họ thấy cần trừng phạt. Trong trường hợp tôi phạm kỷ luật hoặc lổi lầm trong huấn luyện, đêm đến 1 hạ sỹ quan lôi đầu tôi ra khỏi giường hét lên: : “Chống tay vô tường! Cúi gặp xuống, tân binh Sakai! Tôi làm việc nầy không phải oán ghét anh, nhưng vì thương anh, muốn anh trở thành một thủy thủ giỏi! Cúi xuống!”.
    Và hắn vung cây gậy thật dài đập xuống mông tôi. Đau đớn khủng khiếp, và mạnh mẽ không thể tưởng. Không có cách nào khác hơn là nghiến răng để khỏi bật tiếng kêu la. Nhiều khi tôi bị đánh tới 40 gậy. Thường thường tôi ngất xỉu. Tuy nhiên hình phạt không thể bỏ qua vì lý do bất tĩnh. Viên hạ sỹ quan sẽ dội một thùng nước lạnh lên thân xác mềm nhũn của tôi, dựng tôi dậy, và tiếp tục áp dụng “kỷ luật”. Một tân binh phạm lỗi, tất cả 50 tân binh khác đều bị đánh. Do đó, mỗi tân binh đều tìm hết cách ngăn chặn đồng đội phạm lỗi. Mỗi lần bị đánh, chúng tôi không thể nằm ngữa trên giường. Hơn nữa, chúng tôi không được phép buông lời than oán, ngay cả một tiếng kêu trong đau đớn của mình. Để cho một người rên rĩ khóc than vì đau đớn hoặc tủi thân, mọi người sẽ bị đá hoặc lôi cổ ra khỏi giường để lãnh hình phạt.
    Lẽ dĩ nhiên sự đối xử như vậy làm cho chúng tôi oán ghét bọn hạ sỹ quan. Bọn nầy đa số đều 30 tuổi, và hình như không được lên cấp trong suốt cuộc đời binh nghiệp của họ. Ám ảnh quan trọng nhứt của họ là tìm cách khủng bố tân binh. Chúng tôi coi hạng người nầy như những con thú bạo dâm hèn hạ nhứt. Trong vòng 6 tháng, công việc huấn luyện khắc nghiệt đã biến chúng tôi thành bầy gia súc. Chúng tôi không bao giờ dám hó hé trước các mạng lịnh đưa ra, không dám tỏ ý nghi ngờ cấp trên. Chúng tôi không dám làm bất cứ cái gì khác hơn là thi hành lập tức mệnh lệnh của thượng cấp. Chúng tôi vâng lời như những người máy.
    Công việc huấn luyện tan thành một khối lờ mờ sự tập dượt, học hỏi, và tập dượt, của những cây gậy vung lên liên hồi, của những chiếc mông êm ẩm luôn luôn, của thịt da bầm dập và mặt mày nhăn nhó khi ngồi xuống.
    Khi hoàn tất khóa huấn luyện tân binh, tôi không còn là một chàng thanh niên hăng hái và đầy nhiệt tâm như lúc rởi khỏi ngôi làng nhỏ bé đi học tại Đông Kinh nhiều năm trước đây. Đường học vấn thất bại, sự tủi hổ của gia đình và kỷ luật huấn luyện, tất cả hợp lại đè bẹp tôi, tánh tự tôn tự đại của tôi bị hạ sát ván. Nhưng không bao giờ, trong suốt thời gian huấn luyện cũng như sau nầy, nỗi phẫn nộ sâu xa về sự tàn ác của bọn hạ sỹ quan giảm bớt trong tôi.
    Ra trường tôi được chỉ định làm thủy thủ tập sự trên thiết giáp hạm Kirishima. Tôi đã nghĩ, sau thời gian huấn luyện, sự đối xử tàn nhẫn sẽ giảm bớt đi. Nhưng không, và có thể nói tôi còn bị đối xử tệ hơn trước đây. Cách tốt nhất mà tôi phải làm: vượt khỏi số kiếp của một tên thủy thủ hèn mọn nầy. Mỗi ngày tôi không được rãnh rang tới một tiếng đồng hồ, nhưng tôi cũng đã xử dụng thời gian nầy học hỏi thêm. Mục đích của tôi là xin theo học khóa huấn luyện đặt biệt của Hải Quân. Như vậy, một anh linh tình nguyện mới có thể hoàn tất về kỹ thuật và chuyên môn, đủ điều kiện để thăng chức.
    Năm 1935, tôi đậu kỳ thi tuyển vô trường huấn luyện xạ thủ hải quân. Sáu tháng sau, tôi lên cấp Thủy Thủ I, và được chỉ định nhiệm vụ trên biển trở lại, lần nầy trên thiết giáp hạm Haruna, phụ trách một trong những pháo tháp 300 ly. Nghề nghiệp ngày càng tiến, sau nhiều tháng lênh đênh trên Haruna, tôi đã trở thành sỹ quan với cấp bậc Trung Sỹ.[/spoil]

    - - - Updated - - -

    [spoil]Chương III

    Lực lượng võ trang của Nhật Bản chia ra làm hai binh chủng, Lục Quân và Hải Quân. Mỗi bộ tư lệnh đều có không lực riêng trong tay. Một không lực độc lập không được nghĩ đến trước đây hoặc ngay cả trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Nhật Bản cũng không binh chủng Thủy Quân Lục Chiến tự trị như Hoa Kỳ hoặc các cường quốc khác, tức binh chủng được huấn luyện cho các cuộc hành quân vừa trên bộ vừa dưới nước.
    Vào giữa năm 1930, tất cả các phi công hải quân được huấn luyện tại trường phi công Hải Quân ở Tsuchiura, cách Đông Bắc Đông Kinh 50 dặm. Mỗi khóa học có 3 lớp, một lớp dành riêng cho các thiếu úy xuất thân từ Hàn Lâm Viện Hải Quân ở Eta Jima, miền Tây Nhật Bản, một lớp dành cho các hạ sỹ quan đang phục vụ, và lớp cuối cùng dành cho các thanh niên từ 13 đến 19 tuổi muốn khởi nghiệp Hải Quân của họ trong tư cách sinh viên phi công.
    Sau khi Nhật Bản khai chiến toàn diện với Hoa Kỳ, hải quân phát triển mạnh mẽ các căn cứ huấn luyện phi công, và đặt căn cứ trên việc sản xuất phi công chiến đấu. Tuy nhiên, vào năm 1937, quan niệm huấn luyện phi công ồ ạt nầy không hề được đặt ra. Phi công huấn luyện gồm toàn những người được chọn lọc kỹ càng, chỉ các ứng viên xuất sắc trên toàn quốc mới hi vọng được thâu nhận. Năm 1937, năm tôi theo học, chỉ có 70 người được chọn theo học lớp phi công trong tổng số 1.500 người dự thi. Khi tôi biết có tên mình trong danh sách 70 người được thâu nhận, nỗi vui mừng của tôi không thể nào tả xiết. Việc nầy có nghĩa là tất cả những tủi hổ trên đường học vấn ở Đông Kinh của tôi được quét sạch, danh dự gia đình cũng trở lại trong tôi.
    Kỹ nghỉ phép đầu tiên, tôi trở lại nhà của người chú ở Đông Kinh với tất cả sự vui vẻ. Tôi không còn là một thiếu niên cứng đầu và bực tức, đối diện với vấn đề học vấn một cách đầy sợ sệt. Tôi đã trở thành một chàng thanh niên hai mươi tuổi, đầy kiêu hãnh, bãnh bao trong bộ đồng phục phi công hải quân mới toanh, với 7 chiếc nút sáng chói, và mong muốn, mong muốn nhứt, nhận lãnh những lời khen ngợi của gia đình chú tôi.
    Ánh mắt của người em họ Hatsuyo hướng về tôi đăm đăm. Cô học trò bé bỏng ngày nào đã biến mất, nhường lại cho sự chửng chạc, hấp dẫn của một nữ sinh trung học 15 tuổi. Hatsuyo đã đón tiếp tôi thân mật và nồng nhiệt hơn. Tôi nói chuyện rất lâu với người chú. Ông tỏ vẻ hài lòng, tất cả niềm kiêu hãnh đã trở lại trong ông. Quá khứ thất bại của tôi không còn vướng vấp chút nào.
    Chuyến viếng thăm nầy khiến tôi không quên được trong nhiều năm. Sau bữa ăn tối, chúng tôi ngồi trong phòng khách và nghe Hatsuyo dạo dương cầm. Nàng mới bắt đầu học trong vòng 3 năm trở lại. Nhưng tôi không phải là nhà phê bình âm nhạc, vì vậy tiếng đàn của nàng đối với tôi rất tuyệt diệu. Xinh tươi, thoải mái và thân ái, tất cả đã xóa sạch những ngày huấn luyện đầy gian khổ nhọc nhằn. Tuy nhiên, cuộc viếng thăm ngắn ngũi, và tôi sớm trở lại quân trường.
    Căn cứ huấn luyện Tsuchiura tọa lạc bên cạnh một cái hồ rộng lớn, và tiếp cận một sân bay có 2 phi đạo, 3000 m và 2500m. Nhiều nhà chứa phi cơ khổng lồ có thể chứa hàng mấy trăm phi cơ cùng lúc, và căn cứ luôn luôn hoạt động rộn rịp.
    Mỗi chương trình huấn luyện mới của Hải Quân là mỗi kinh ngạc đối với tôi. Những thứ kỷ luật mà tôi đã từng trãi qua so với quân trường mới đền nầy không thấm vào đâu. Kỷ luật ở căn cứ hải quân Sasebo nhiều còn dễ chịu hơn ở Tsuchiura. Ngay cả thứ kỷ luật sắt đá ở trường huấn luyện xạ thủ hải quân cũng ấu trĩ đối với trường phi công. “Ở đây, Tsuchiura, chúng tôi sẽ thấm nhuần dần dần hai đặt tính nầy cho các bạn”. Nếu không thấm nhuần được các bạn sẽ không bao giờ trở thành một phi công hải quân. Không để mất thì giờ nhằm chứng tỏ cho chúng tôi thấy sự hừm hổ ấy ra sao, hắn ta bất chợt chỉ ngay hai khóa sinh và ra lệnh cho họ vật nhau. Kẻ chiến thắng sẽ được phép rời khỏi đấu trường, kẻ thua cuộc chuẩn bị đấu với một khóa sinh khác. Thua cuộc chừng nào hắn ta phải đấu nhiều chừng nấy, hắn có thể lần lượt đấu với cả 69 khóa sinh. Và nếu thua hết, ngày mai hắn lại phải tiếp tục đấu nữa. Cái ngày mai đó, hoặc là hắn chiến thắng một người hoặc là hắn ôm gói ra khỏi khóa học.
    Đối với những khóa sinh nào không muốn bị đuổi ra khỏi khóa phi công, các màn đô vật sẽ trở thành những màn tranh đua dữ dội nhất của họ. Thường thường hễ khóa sinh nào bị hạ đều bất tĩnh. Nhưng bất tĩnh không phải hy vọng được miễn trừ. Một thùng những lạnh hoặc nhiều cách khác để làm hắn tĩnh lại, và cuộc đấu lại tiếp diễn.
    Sau một tháng huấn luyện căn bản trên mặt đất, chúng tôi bắt đầu những bài học phi hành vỡ lòng. Những bài học nầy dạy vào buổi sáng, các môn khác dồn cho buổi chiều. Sau bữa ăn chiều, chúng tôi học thêm 2 giờ nữa.
    Nhiều tháng trôi qua, con số khóa sinh sút giảm hẳn. Khóa huấn luyện đòi hỏi khóa sinh phải hoàn hảo mọi mặt, và khóa sinh không thể nào tránh khỏi lỗi lầm nhẹ nhàng nhứt. Trong khi các phi công hải quân được xem là thành phần ưu tú nhứt của binh chủng hải quân, của ngay cả các lực lượng võ trang Nhật Bản không có chổ nào gọi là chổ sai lầm dành cho họ. Trước khi giai đoạn huấn luyện 10 tháng hoàn tất, 45 trong số 70 khóa sinh bị loại khỏi trường. Thẩm quyền áp dụng kỷ luật thể xác dữ dội không đáng sợ bằng thẩm quyền loại bỏ khóa sinh, với bất kì lý do nào của các huấn luyện viên.
    Vào ngày mãn khóa, một trong những khóa sinh còn bị sa thãi. Một nhóm tuần tiểu nhìn thấy hắn bước vô một quán rượu bị cầm ở Tsuchiura để ăn mừng “ngày thành tài” của hắn. Khi trở về trường, hắn được lịnh trình diện hội đồng kỷ luật, và biện hộ bằng cách qùy gối trước mặt các sĩ quan cán bộ. Nhưng lời biện hộ của hắn như đàn gãy tai trâu.
    Hội đồng kỷ luật tìm thấy hắn phạm 2 tội không thể tha thứ được. Tội đầu tiên, mọi phi công đều biết: một phi công chiến đấu không bao giờ, vì bất kì lý do nào, uống rượu đến say khướt trong đêm trước khi bay. Ngày hôm sau chúng tôi sẽ có một chuyến bay theo đội hình, chuyến bay nầy được xem như một phần thực tập tốt nghiệp mà chúng tôi đã trãi qua. Tội thứ hai, thường tình hơn nhưng nghiêm trọng không kém, không một binh sỹ hải quân nào làm giảm giá trị binh chủng của mình bằng cách bước vô một nơi có để bảng “cấm”.
    Sự huấn nhục ở Tsuchiura có thể là trầm trọng nhứt so với các trường khác ở Nhật Bản. Một trong những môn huấn nhục hốc búa hơn hết: leo cột sắt. Cột nầy rất cao, chúng tôi phải leo lên tận ngọn và chỉ được nám lơ lững một tay. Khóa sinh nào bám không tới 10 phút mà để rơi xuống sẽ nhận ngay một cái đá chớp nhoáng và bị bắt leo trở lên. Cuối môn huấn luyện nầy, khóa sinh nào muốn khỏi bị loại trừ ít ra cũng phải bám lâu đến 15 hoặc 20 phút.
    Tất cả các quân nhân trong binh chủng hải quân Hoàng Gia đều biết lội. Có nhiều khóa sinh người miền núi nên không biết lội như thế nào. Phương pháp huấn luyện rất đơn giản. Các khóa sinh cột dây quanh lưng rồi quăng xuống biển, một là họ lội được hai là họ chìm lĩm. Hiện thời tôi đã 39 tuổi rồi mà vết dây siết chặt vẫn còn để dấu lại trong thân thể tôi. Tôi có thể lội 50 m trong vòng 34 giây. Ở trường phi công, lội khoảng cách đó dưới 30 giây là chuyện thường.
    Mỗi khóa sinh buộc phải lặn sâu xuống nước 50m và duy trì ít nhất 90 giây. Một người bình thường với tất cả nổ lực, có thể nính thở được 40 – 50 giây, nhưng thành tích nầy được xem là trung bình đối với một phi công Nhựt. Riêng tôi có thể nín thở 2’30 giây dưới nước.
    Chúng tôi trãi qua hàng nhiều trăm buổi tập lộn nhào để làm quen với cảm giác thăng bằng, giúp một phần sau nầy khi chúng tôi cho các chiến đấu cơ lộn nhào nhiều vòng trong bất kì cách thức nào. Có lý do đặt biệt để chúng tôi chú tâm vào các buổi tập tành nầy, vì một khi thấy chúng tôi lộn nhào đã thành thuộc, các huấn luyện viên ra lịnh cho chúng tôi leo lên một cái tháp cao và lộn nhào xuống mặt đất cứng. Trong lúc rơi xuống, chúng tôi phải lộn nhào 2 – 3 vòng trong không khí và đáp xuống bằng đôi chân. Đương nhiên, nhiều lỗi lầm xảy ra với những kết quả thảm khốc.
    Môn lộn nhào nầy được xem là một phần huấn luyện thân thể quan trọng, đòi hỏi chúng tôi hoặc là phải thực hành chính xác và đầy đủ những gì mà huấn luyện viên đưa ra hoặc là bị loại khỏi khóa học.
    Môn đi bằng tay cũng được xem là quan trọng. Thêm vào đó là môn cắm đầu xuống đất và giữ thăng bằng thoạt đầu 5 – 10 phút, và cuối cùng khóa sinh có thể giữ thăng bằng đến 15 phút hoặc hơn nữa. Dần dần, tôi có thể giữ thăng bằng hơn 20 phút, trong thời gian nầy mấy bạn đồng khóa đốt thuốc cho tôi hút.
    Đương nhiên, mấy trò xiệc nầy không chỉ có tánh cách luyện tập thân thể mà thôi, mà chúng còn giúp cho chúng tôi phát triển một cảm giác thăng bằng cả tinh thần lẫn thể xác đáng kinh ngạc, và có giá trị cứu mạng sống chúng tôi nhiều năm sau nầy.
    Mỗi khóa sinh ở Tsuchiura đều phải có thị độ sắc bén, việc nầy, dĩ nhiên, là một đòi hỏi tối thiểu khi mới bước chân vô quân trường. Lúc nào chúng tôi cũng phải học nhìn, để chỉ với một cái liếc mắt chúng tôi có thể biết các mục tiêu cách bao xa. Tóm lại, chúng tôi phát triển mọi kỹ thuật giúp chúng tôi thắng thế phi công đối phương.
    Một trong những môn học mà chúng tôi khoái nhứt là tìm tòi các ngôi sao vào ban ngày. Các huấn luyện viên thường nhấn mạnh rằng việc nhận diện một ngôi sao giữa ban ngày còn dễ hơn một chiếc phi cơ ở khoảng cách nhiều trăm thước. Và một phi công khám phá kẻ thù trước tiên rồi chuẩn bị vị thế tấn công thuận lợi, phi công đó có thể đánh “trăm trận trăm thắng”. Sau nhiều lần thực tập, công việc “săn sao” của chúng tôi trở nên thiện nghệ. Chúng tôi có phương pháp nhìn và định vị trí một ngôi sao đặc biệt một cách chính xác và nhanh như chớp. Các phi công chiến đấu Nhật Bản đều làm được.
    Riêng cá nhân tôi không thể đánh giá quá cao điều học hỏi đặt biệt nầy, nó có vẻ không thích hợp với những hoạt động của những chiến pháp trên không, chết hoặc sống chỉ trong nháy mắt. Tôi biết như vậy trong suốt 200 trận không chiến của tôi, ngoại trừ 2 lỗi lầm nhỏ, tôi không bao giờ để vấp vào một cuộc tấn công bất thần bởi các chiến đấu cơ địch, tôi cũng không để mất một đồng đội nào bay bên cạnh bao giờ.
    Những giờ rãnh rỗi trong suốt cuộc huấn luyện ở Tsuchiura, không lúc nào chúng tôi không tìm những phương pháp có thể thu ngắn thời gian phản ứng và cải tiến những cử động chính xác của chúng tôi. Khả năng tạo những cử động chính xác không thể không có được trước những dụng cụ trong buồng lái của một chiến đấu cơ.[/spoil]

    Chương IV
    [spoil]
    Hai mươi lăm khóa sinh của khóa 38 hạ sỹ quan, trong đó có tôi, tốt nghiệp vào cuối năm 1937. Tôi được chọn làm khóa sinh ưu tú trong năm để nhận một chiếc đồng hồ bằng bạc, tặng phẩm của Thiên Hoàng.
    Nhóm hai mươi lăm người chúng tôi là số còn lại trong 70 khóa sinh nguyên thủy tuyển chọn trong số 1500 dự tranh trên toàn quốc. Chúng tooi đã trãi qua một thời gian huấn luyện gắt gao và thông suốt. Tuy nhiên, trước khi chúng tôi nhận nhiệm vụ ở Trung Hoa, nơi chiến tranh phát động vào tháng 7 năm 1937, chúng tôi được huấn luyện bổ túc.
    Mặc dù chúng tôi trãi qua nhiều cuộc huấn luyện như vậy, nhiều người thuộc nhóm chúng tôi đã bị phi công địch bắn hạ, không kịp gặt hái một chiến thắng nào. Ngay cả tôi, với khả năng bay có hạng, tôi vẫn thấy cái chết trước mắt trong trận không chiến đầu tiên, nếu đối thủ của tôi tấn công mạng thêm chút nữa. Quả thật, tôi đã quá vụng về trong trận không chiến đầu tiên nầy, không hổ trợ nổi các phi công đồng đội. Tôi sống sót là do sự thiếu khéo léo của đối thủ.
    Đối với tôi, không chiến luôn luôn là một việc làm hốc búa, một nhiệm vụ quá gay go, với sự căng thẳng không nào chịu đựng nổi. Ngay cả khi cuộc chiến đấu đầu tiên của tôi đã vượt qua, và ngay cả khi nhiều phi cơ địch trở thành nạn nhân của tôi, mỗi lần chấm dứt một cuộc không chiến dữ dội trên không là mình mẩy tôi ướt đẫm mồ hôi. Luôn luôn có “cơ hội” để vấp phải một sai lầm nhỏ nhặt, điều nầy có nghĩa là sẽ biến thành bó đuốc. Xuyên qua tất cả hình thức diễn tập: đảo vòng tròn, đảo thật ngắn, lộn nửa vòng, lộn nhiều vòng, xoáy hình trôn ốc, bổ chúi xuống, bay vượt lên, rơi như chiếc lá, và nhiều hình thức khác nữa, chỉ sơ hở một đường tơ kẻ tóc là đi đời ngay. Hai mươi lăm bạn đồng khóa của tôi, cuối cùng chỉ một mình tôi sống sót. Cuộc chiến trên không kéo dài và đầy gian nan, do đó những ưu thế vào những ngày đầu củ chúng tôi chìm dần vào cơn ác mộng. Trong cơn ác mộng đó, chúng tôi đã vật lộn một cách vô vọng với một dòng thủy triều đối nghịch càng lúc càng cuồng bạo.
    Suốt thập niên 1930, hải quân Nhựt huấn luyện trung bình 100 phi công mỗi năm. Nhưng chương trình huấn luyện khắc nghiệt đã loại bỏ gần hết, để cuối cùng trong vòng 10 năm chỉ khỏang hơn 100 phi công tốt nghiệp. Nếu hải quân được dành thêm ngân khoảng huấn luyện và nếu hải quân giảm bớt thái độ cố chấp trong việc chọn lựa khóa sinh, tôi tin rằng con đường chúng tôi đi trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến sẽ bớt chông gai. Chắc chắn kết quả của cuộc chiến không thể cải biến, nhưng những cú đấm chết người mà đơn vị không quân của chúng tôi nhận lãnh trong hai năm cuối cùng của cuộc chiến sẽ nhẹ bớt đi phần nào. Chỉ sau khi cuộc chiến Thái Bình Dương bắt đầu, và những phi công đầy đủ kinh nghiệm hao mòn đến mức độ nguy ngập cần phải được thay thế ồ ạt, hải quân mới từ bỏ chính sách huấn luyện vô lý của mình. Nhưng lúc đó đã quá muộn rồi. Tài năng của các phi công tốt nghiệp trong những năm chiến tranh đáng nghi ngờ. Tôi biết chắc rằng 45 bạn đồng khóa với tôi đã bị loại khỏi Tsuchiura trước đây, còn tài cán gấp mấy lần những phi công đã hoàn tất huấn luyện trong thời chiến.
    Sau khi tốt nghiệp, tôi được chỉ định đến nhiều không đoàn để thực tập. Thoạt đầu tôi được gởi đến căn cứ Không Quân hải quân ở Oita và Omura ở miền Bắc Kyushu. Cả hai căn cứ nầy là nơi đáp tạm của những phi vụ từ các phi trường ở đất liền, cũng như từ các hàng không mẫu hạm. Chứng kiến tài năng lão luyện của các phi công hàng không mẫu hạm đã khiến tôi hơi xao xuyến, nhứt là những cú bổ nhào của họ, khéo léo không thể tưởng tượng. Tôi ngờ vực khả năng của mình, ngay cả nhiều năm sau.
    Đáp xuống hàng không mẫu hạm đối với tôi khó khăn vô cùng. Suốt một tháng ròng rã tập luyện, tôi mới hết gặp rắc rối, nhưng sau công cuộc tập luyện nầy, tôi chưa từng cất cánh hoặc hạ cánh xuống một hàng không mẫu hạm trong lúc chiến đấu bao giờ. Tất cả những phi vụ chiến đấu của tôi đều thực hiện ở các phi trường trên đất liền.
    Tiếp theo sau 3 tháng thực tập liên tục trên đất liền và hàng không mẫu hạm, tôi được lệnh thuyên chuyển đến căn cứ không quân Kaohsing trên đảo Đài Loan, bấy giờ thuộc lãnh thổ Nhật Bản. Nhịp độ của đời sống hải quân đã đổi khác. Cuộc chiến ở Trung Hoa đến hồi ác liệt, các phòng tuyến lan rộng. Thêm phi công chiến đấu cho cuộc chiến đó, ngay cả những phi công tay mơ như chúng tôi bỗng nhiên trở thành nhu cầu thúc bách.
    Từ Đài Loan, tôi được thuyên chuyển lên Kiukiang ở miền Đông Nam Trung Hoa, và vào tháng 5 năm 1938, tôi nếm mùi chiến đấu lần đầu tiên. Vị chỉ huy trưởng liên phi đoàn ở Kiukiang rất ghét sử dụng bọn phi công mới ra trường vào các phi vụ chánh yếu, ông ta cảm thấy sự thiếu kinh nghiệm của họ sẽ làm mất mặt bọn phi công kỳ cựu đang bay ở Trung Hoa. Do đó, tôi chỉ được cắt đặt thực hiện các phi vụ thấp kém: yểm trợ các cuộc hành quân của Lục Quân. Các phi vụ không có gì nguy hiểm, bộ binh đã đè bẹp tất cả những cuộc chống đối của địch quân trên mặt đất, còn chống đối trên không hầu như hoàn toàn không có. Nhiều tuần lễ trôi qua, chỉ lãnh các nhiệm vụ yểm trợ, tôi cảm thấy bực bội. Hăng hái, nhiệt tâm và kiêu hãnh trong tư cách một trung úy phi công hải quân, tôi quyết định thử tài với địch quân một phen. Vào ngày 21 tháng 5, tôi hớn hở khi dò thấy tên tôi nằm trong danh sách 15 phi công chiến đấu được chọn thực hiện một phi vụ tuần tiểu chánh thức ở Hán Khẩu vào ngày hôm sau. Chuyến đi nầy đầy “hứa hẹn”, vì Hán Khẩu là căn cứ không quân chánh của Trung Hoa Quốc Gia lúc đó.
    Vào năm 1938, loại chiến đấu cơ Zero chưa được mang ra sử dụng trên các mặt trận. Chúng tôi bay loại chiến đấu cơ Mitsubishi 96, Đồng Minh đặt tên là Claude, tốc độ chậm, tầm hoạt động giới hạn, bộ phận hạ cánh cố định và buồng lái lộ thiên.
    Sáng ngày 22, 15 chiến đấu cơ của chúng tôi rời khỏi Kiukiang, từng nhóm 5 chiếc trong đội hình chử V, nhìn rất ngoạn mục. Chín mươi phút bay từ phía Đông Bắc của căn cứ chúng tôi đến Hán Khẩu giống như một phi vụ huấn luyện nhàn nhã. Không có chiếc phi cơ nào của địch xuất hiện tấn công chúng tôi, cũng không có một khẩu phòng không nào thăm hỏi chúng tôi. Dường như khó thể tin rằng có một cuộc chiến đang diễn ra ác liệt ở phía dưới.
    Từ 10.000 bộ trên cao, phi trường Hán Khẩu đánh lừa chúng tôi một cách tuyệt hảo. Toàn là màu cỏ thẩm xanh chiếu lấp loáng dưới ánh mặt trời buổi sớm. Căn cứ không quân quan trọng của địch quân như một sân gôn vĩ đại được chăm sóc cẩn thận. Nhưng các chiến đấu cơ địch không phải để sử dụng một cách giản dị vào môn thể thao nầy. Tôi nhìn thấy 3 chấm nhỏ lướt như bay trên cỏ. Đó là 3 chiến đấu cơ địch.
    Thế rồi chúng vượt lên cùng một độ cao với chúng tôi trong chớp mắt, to lớn, đen đúa và mạnh mẽ. Không một dấu hiệu cảnh báo nào, và trước sự kinh ngạc của tôi, một trong 3 chiến đấu cơ địch tách ra khỏi đội hình và đâm thẳng vô phi cơ của tôi với một tốc độ khủng khiếp. Những gì tôi sắp xếp để đối phó với cuộc không chiến đầu tiên của tôi đều biến mất. Tôi cảm thấy các thớ thịt của tôi xoắn lại, và mặc dù tình trạng hiện nay không lấy gì làm vui vẽ, tôi lại thấy toàn thân rung lên với nỗi kích thích lẫn xúc động, khi thấy phi cơ địch đã “chọn tôi” làm mục tiêu.
    Tôi hành động có vẽ đần độn trong những giây phút khủng hoảng nầy. Tuy nhiên tôi nhấn mạnh rằng các phản ứng trí não của chúng tôi ở độ cao 10.000 bộ, sau 90 phút bay không có mặt nạ dưỡng khí, không còn chính xác bằng lúc chúng tôi ở mặt đất. Không khí loãng, dưỡng khí ít đã ảnh hưởng nhiều đến trí não. Hơn nữa, buồng lái lộ thiên, tiếng động nghe đinh tai nhức óc, cũng như những luồng gió lạnh cóng thổi tạc vô kiếng che gió, và không lúc nào bỏ lơi các cần kiểm soát được. Tôi xoay đầu nhìn mọi hướng một cách lo âu để xem còn bị đối thủ nào tấn công nữa hay không, cùng lúc tay chân tôi hoạt động trên cần điều khiển, bàn đạp bẻ lái, tốc độ, và các dụng cụ khác. Tóm lại, tôi hoàn toàn rối loạn.
    Những thói quen trong thời gian huấn luyện lần lượt được áp dụng. Lời dặn của tất cả các bậc đàn anh: “Luôn luôn đeo dính đuôi phi cơ cầm đầu trong đội hình chử V của anh”. Tôi mò mẫm một tay cột những sợi dây đai của chiếc mặt nạ dưỡng khí (cung cấp dưỡi khí trong vòng hai giờ và chúng tôi chỉ sử dụng mặt nạ khi lâm trận hoặc bay ở độ cao trên 10.000 bộ), nâng tốc độ lên tối đa. Tất cả các thùng chứa xăng phụ của các phi cơ Nhựt khác đều đã được thả ra. Tôi quên khuấy đều nầy. Tay tôi run run đưa ra ấn nút. Bình chứa xăng của tôi rơi xuống.
    Tôi hoàn toàn bối rối. Tất cả những tôi làm đều vụng về, hầu như quên mất hết các qui luật không chiến căn bản. Tôi không nhìn thấy các diễn biến ở 2 bên hoặc phía sau tôi. Phi cơ địch cũng biến mất trước mắt tôi. Tôi chỉ thấy cái đuôi của chiếc phi cơ đầu nhóm. Tôi cứ đảo phi cơ tôi theo, và cuối cùng tôi bay bên cạnh phi cơ dẫn đầu. Tôi lấy lại bình tĩnh, tay chân không sờ soạng trong buồng lái một cách vụng về nữa. Hít một hơi thở thật dài, tôi liếc nhìn thật mau về bên trái. Hai chiến đấu cơ địch bóng loáng đang bay thẳng vô phi cơ của tôi. Đó là 2 chiếc E.16 do Nga Sô chế tạo, với bộ phận hạ cánh có thể rút vào thân phi cơ. Loại E.16 nhanh nhẹn hơn và bay mau hơn loại chiến đấu cơ Claude của chúng tôi nhiều .
    Tôi lại ngần ngừ, tay lơ lững trong không khí, không biết làm gì bây giờ. Thay vì đảo qua một phía hoặc vượt thẳng lên cao, tôi vẫn tiếp tục bay như trước. Nhưng bất ngờ, khi cái chết của tôi ở trước mắt, hai chiến đấu cơ địch vượt lên và bay mất. Cả đời tôi chưa hề biết đến sự may mắn nào huyền diệu hơn sự may mắn nầy.
    Nhưng không có gì gọi là khó hiểu. Đoán trước tôi sẽ là “gà chết” trong trận không chiến đầu tiên nầy, người cầm đầu phi vụ chỉ định một trong những phi công kỳ cựu bay theo phía sau để bảo vệ phi cơ tôi. Khi thấy tôi lâm nguy, viên phi công nầy lách ra như chớp và chĩa mũi thẳng vào hai chiến đấu cơ địch, phá vỡ ngay ý định tấn công của chúng.
    Tôi vẫn bay như đuôi mù, không biết ngay cả việc tôi đã xê dịch vị trí và đặt phi cơ của tôi cách 500 m phía sau một trong những phi cơ địch. Tôi đang “mơ mộng” . Cuối cùng tôi bừng tỉnh và phóng về phía trước.
    Chiếc phi cơ địch, trước mắt tôi, đã nằm trong tử điểm. Tôi ấn cò súng. Không một tiếng nổ nào nghe thấy. Tôi ấn cò súng liên hồi, miệng không ngớt nguyền rủa hai khẩu đại liên. Cuối cùng tôi mới nhận ra tôi quên mở khóa an toàn của mấy khẩu súng trước khi chạm địch.
    Viên hạ sỹ quan Nhật bay bên trái thấy tôi sờ soạng một cách vụng về trong buồng lái, hắn không còn kiên nhẫn được nữa đã lướt về phía trước, và khai hỏa vào chiếc chiến đấu cơ địch đang tháo chạy. Đạn không trúng, chiếc E.16 đảo về phía phải chỉ cách tầm súng của tôi 200 m. Lần nầy tôi đã sẵn sàng, tôi ấn tay vào cò súng. Những viên đạn bay ra thành hình vòng cung, nhưng hoang phí. Tôi lại để mất một cơ hội bằng vàng khác.
    Nếu tôi tiến gần hơn, tôi sẽ hạ đối thủ dễ dàng. Tôi gia tăng hết tốc lực. Viên phi công địch lộn nhào nhiều vòng và rớt xoáy xuống theo hình trôn ốc, tránh thoát hết tất cả những viên đạn tôi vừa bắn ra. Sau đó, phi cơ địch cố xoay lại để nghinh chiến. Đó là một lối bay nghèo nàn đáng kinh ngạc. Hiển nhiên hắn không có dịp may. Một trong những chiếc Claude đang quần trên cao bổ chúi xuống. Viên phi công địch cố chạy thoát một lần nữa thay vì cố tiêu diệt tôi. Tuy nhiên, hắn không làm được việc nầy. Bây giờ hắn chỉ cách trước mặt tôi có 150 m, và tôi rót ngay một tràng đạn vô đầu máy chiếc phi cơ. Một luồng khói túa ra ở mũi và chiếc phi cơ chúi thẳng xuống mặt đất. Cho đến khi nó biến thành mảnh vụn trong chiếc nấm khói phía dưới, tôi mới biết các khẩu đại liên của tôi không còn một viên đạn nào. Mọi phi công chiến đấu đều phải cố duy trì một số đạn cho lượt về, nhằm chống đỡ các chiến đấu cơ tuần thám của đối phương. Tôi đã bắn xã láng.
    Tôi nhìn quanh một cách đầy lo âu, và tim tôi chùng xuống. Không còn một chiếc phi cơ nào khác quanh tôi. Tôi đã lạc bầy. Chiến thắng của tôi đáng buồn cười, nó đã được các đồng đội dâng lên đến miệng tôi trên một chiếc dĩa bằng bạc. Những hành động quờ quạng vừa qua đã làm tôi xấu hổ, và mắt tôi dần dần bao phủ trong màn lệ. Chắc chắn tôi đã khóc cho đến khi, đảo mắt một lần nữa, tôi nhìn thấy 14 chiếc Claude đang bay vòng tròn chầm chậm trong đội hình, kiên nhẫn chờ đợi tôi lấy lại “tinh thần” và kết hợp với họ.
    Trở lại Kiukiang, tôi kiệt sức khi leo ra khỏi buồng lái. Viên chỉ huy phi vụ hùm hổ chạy lại phi cơ tôi, mặt mà đỏ gấc vì phẩn nộ: “Sakai! Mọi việc …” ông ta lắp bắp: “Anh là một thằng ngu, Sakai! Anh sống được cũng lạ! Cả đời tôi chưa bao giờ thấy một lối bay vụng về và buồn cười như vậy! Anh…”. Ông ta không thể nó tiếp được nữa. Tôi cúi gầm mặt, buồn rầu và hối hận. Tôi muốn ông ta đấm đá tôi cho hả cơn tức. Nhưng viên đại úy không làm như vậy, ông quay lưng và bước đi.[/spoil]

    - - - Updated - - -

    Chương V [spoil]

    Vào thời gian nầy chúng tôi không thể tìm hiểu được quốc tịch các phi công lái loại chiến đấu cơ do Nga Sô chế tạo. Có nhiều lí do để tin rằng có một số “phi công chí nguyện Nga” lái phi cơ vượt biên giới để giúp đỡ Trung Hoa, nhưng chúng tôi đã thất bại trong việc nhận dạng xác phi công Nga bên cạnh các phi cơ địch bị bắn hạ.
    Hải quân Nhật tin tưởng mạnh mẽ rằng một nhóm phi công “Lê Dương” đã gia nhập không lực Trung Hoa. Nhóm phi công nầy đủ quốc tịch, lái nhiều loại phi cơ khác nhau, vì chúng tôi đụng đầu không chỉ với phi cơ Nga mà còn phi cơ Mỹ, Anh, Đức và của vài quốc gia khác. Dĩ nhiên, thỉnh thoảng các phi công Trung Hoa Quốc Gia cũng lái những phi cơ nầy.
    Có lần một phi cơ Hoa Kỳ chế tạo rơi gần Thượng Hải, binh sỹ của chúng tôi vội vã tiến đến nơi và mang về xác của một phi công Mỹ. Giấy tờ trong xác chết đã cho biết như vậy.
    Tài nghệ nghèo nàn đáng chán nản của tôi được khỏa lấp bởi việc tôi hạ được chiến đấu cơ Soviet. Ngày hôm sau, tôi kẻ ngay một ngôi sao xanh trên thân chiếc Claude mà tôi đã lái, như vậy có tất cả 6 ngôi sao. Các phi công Nhật, nhứt là các phi công mới ra trường như tôi, không thực hiện các phi vụ với cùng một phi cơ, bởi lẻ không đủ số. Cứ mỗi khi đến lượt bay, chúng tôi nhảy đại lên chiếc nào có thể sử dụng được. Điều nầy lại hổ trợ cho các phi công thiếu kinh nghiệm, bởi lẻ phi công địch mỗi khi thấy hàng tá ngôi sao xanh, hoặc nhiều hơn nữa kẻ trên thân phi cơ của chúng tôi, hắn sẽ nể mặt ngay. Mỗi ngôi sao xanh là một phi cơ địch bị hạ.
    Cuộc chiến ở Trung Hoa là một cuộc chiến không thể tin được. Nó không bao giờ được xem là một “cuộc chiến” giữa các lực lượng của chúng tôi. Đó chỉ là một biến cố Hoa – Nhựt. Tôi phỏng đoán lúc người Mỹ tung quân vào Triều Tiên, trong khi Quốc Hội của họ không tuyên chiến chánh thức, đó chỉ là một “ hành động chính trị” , như chính phủ Nhựt đã cảm thấy nhiều năm trước khi xảy ra cuộc xung đột hiện thời. Chúng tôi không tuyên chiến, vì vậy cuộc xung đột chỉ là một “ biến cố ” đối với chúng tôi.
    Ngay khi tình thế cho phép, chúng tôi dựng lên một chính phủ bù nhìn dưới sự lảnh đạo của Uông Tinh Vệ, công khai chống đối với Quốc Dân Đảng của Thống chế Tưởng Giới Thạch. Tuy nhiên, viễn ảnh ngại nhất của cuộc chiến là sự xung đột ác liệt trong xứ giữa các lực lượng Tưởng và Mao.
    Các lực lượng trên bộ và trên không của Nhật Bản ở Trung Hoa thường đối đầu với chiến thuật biển người. Hàng nhiều đạo quân với cả triệu binh sỹ Tàu cố gắng tràn ngập chúng tôi. Tuy cán cân quân số chênh lệch hẳn người Trung Hoa hiếm khi nắm được ưu thế, bởi vì binh sỹ của họ huấn luyện kém cõi và trang bị nghèo nàn. Hết loạt nầy đến loạt khác, địch quân ùa đến các đơn vị võ trang hữu hiệu của chúng tôi, nhưng chỉ để bị đánh bật ra và rước lấy những thương vong trầm trọng. Ngay cả sự yểm trợ như thác lũ của Đồng Minh trên phương diện tiếp tế xuyên qua Miến Điện, Mông Cổ, Xiêng Khoang, vẫn không giúp được quân của họ Tưởng trên chân quân của chúng tôi. Các nguồn tiếp tế nầy tỏ ra hữu hiệu trong việc giúp họ Tưởng chạy vắt giò về Trùng Khánh, hơn là giúp ông ta tập trung một cuộc phản công xứng hợp nhằm chống lại chúng tôi. Đúng là một cuộc chiến chỉ có một bên đánh, và tình trạng nầy kéo dài cho đến khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào tháng 8 năm 1945.
    Tuy nhiên, Nhựt không có ý định chinh phục, hoặc không thể chinh phục cả khối người Trung Hoa khổng lồ, và chiếm lấy lảnh thổ bao la nầy. Thay vào đó, lực lượng của chúng tôi chỉ chiếm lấy những thành phố then chốt tại khu vực chiến lược , cắt đứt hệ thống giao thông của địch quân và góp các sắc thuế của nhiều nông dân Trung Hoa nằm trong thẩm quyền của các lực lượng chiếm đóng Nhật Bản mà thôi.
    Nhưng bên ngoài các thành phố quan trọng có thành lũy bao quanh, tử thần luôn luôn chờ đợi các đơn vị Nhật Bản. Du kích của họ Tưởng, cũng như của Cộng Sản Trung Hoa, phục kích sẵn hết để chờ tiêu diệt các nhóm quân Nhựt rơi vào vòng. Có nhiều viên chức Trung Hoa trong các thành phố chiếm đóng làm việc với chúng tôi. Tuy nhiên, bên ngoài họ ton hót và hợp tác rất chặt chẽ nhưng bên trong họ lại tiếp xúc với du kích quân hoạt động ở các vùng quê và miền núi. Nhiều khi các cuộc tiếp xúc như vậy lại được duy trì với sự chấp nhận của các vị chỉ huy Nhật Bản nhằm gây thuận lợi cho nhiều vấn đề cai trị trong các thành phố chiếm đóng.
    Quả thật đây là một cuộc chiến kì lạ.
    Nhiều lần thực hiện các phi vụ yểm trợ bộ binh, quang cảnh phía dưới đã làm cho tôi kinh ngạc. Tôi thấy các nông dân Trung Hoa cắm cúi làm ruộng, không để ý đến các trận đánh xáp lá cà hoặc khai hoả vào nhau giữa quân Hoa – Nhựt các đó không đầy 2 cây số. Nhiều lần tôi cũng bay xà trên đường phố của các thị trấn có tường lũy xung quanh đang bị chúng tôi bao vây và pháo kích. Những dãy tiệm buôn dọc theo đường phố vẫn hoạt động, mua bán như thường lệ, mặc dù máu của quân phòng thủ Trung Hoa vung vẩy trên mặt đường.
    Tuy nhiên, nhiệm vụ ở Trung Hoa không có gì gay go, nếu không nói là đáng chán, đối với các đơn vị không quân Nhựt. Hiển nhiên, ưu thế trên không nghiêng hẳn về phía chúng tôi. 16 tháng sau khi tôi đến Kiukiang lực lượng bộ binh của chúng tôi tiến sâu vô lảnh thổ địch quân, đánh chiếm Hán Khẩu dễ dàng và chúng tôi dời đến phi trường ở đây.
    Lúc bấy giờ báo chí có loan tải vụ tôi hạ được chiếc chiến đấu cơ của Nga Sô. Má tôi có gởi cho tôi một bức thơ với lời lẻ tràn đầy hãnh diện. Điều là tôi thích thú nhứ là bức thư của Hatsuyo Hirokawa, con gái của chú tôi, hiện thời đã 16 tuổi. Nàng viết: “ Ba em vừa được bổ nhiệm vào chức Giám Đốc sở Bưu Điện ở Shikoku. Em đang theo học trường nữ sinh trung học Tokushima, và anh có thể tượng tượng từ Đông Kinh đến Shikoku đã có sự thay đổi lớn lao. Bức thơ nầy của anh khiến em xúc động, và khiến cho các bạn của em đều thích thú. Mỗi ngày tụi em đều chúi mũi trên báo để dò thêm tin tức của anh. Chúng em không muốn bỏ sót tin tức nào vầ chiến công của anh ở Trung Hoa.
    Bỗng nhiên, Saburo, em muốn giới thiệu với anh cô bạn thân nhứt của em ở Tokushima, tên Mikiko Niori. Mikiko đẹp nhất lớp của em, và cũng học giỏi “số dách”. Ba cô ta dạy học ở đại học Kobe. Trong số mấy cô được em cho coi qua thơ của anh, Mikiko tỏ vẻ thích nhất. Nàng năn nĩ em giới thiệu anh cho nàng đó.”
    Thơ có gởi kèm bức hình chụp chung của Hatsuyo và một lá thơ của cô gái mà tôi chưa từng gặp mặt. Cô ta đẹp, đúng như lời Hatsuyo đã nói, và những lời cô ta mô tả về thành phố và gia đình cô ta khiến tôi khoái chí.
    Mấy bức tho gây phấn khởi tinh thần của tôi vô cùng. Tôi nhớ rõ cái ngày vui vẽ tột độ ấy, ngày 3 tháng 10 năm 1939, tôi vừa đọc thơ vừa lau chùi mấy khẩu đại liên trên chiếc chiến đấu cơ của tôi. Mọi người ở phi trường được nghỉ xả hơi. Còn gì đáng lo? Chúng tôi hầu như đã quét sạch bọn phi công quốc tế và Trung Hoa trong mỗi cuộc đụng độ.
    Nhưng không khí lạnh trang thình lình bị phá vỡ. Còi báo động trên đài kiểm soát hụ vang. Ngay lúc đó, một loạt tiếng gầm thét lướt đến và mặt đất rung chuyển với những làn sóng bom đinh tai nhứt óc. Có ai đó thét lớn một cách không cần thiết: “ Không kích”.
    Không có thời giờ để chạy vô hầm trú ẩn. Tiếng bom nổ kéo thành dâu như tiếng sấm liên tục. Khói bốc cao trên phi đạo. Tôi nghe cả tiếng miểng bom lướt vèo vèo qua không khí. Nhiều phi công khác cùng với tôi chạy ra khỏi xưởng cơ khi để chui vô hầm trú ẩn. Tôi bò dưới đất để tránh miểng bom, và sau đó chúi đầu vô giữa 2 bồn chứa nước vĩ đại. Tôi cũng khá mau chân. Một kho súng gần đó nổ tung lên, bao trùm lửa khói, và mấy trái bom như những cây gậy chọc trên mặt đất, nện vào 2 màn tai tôi, và vít tung lên hàng bụm đất vĩ đại.
    Bom bổng nhiên dứt tiếng, tôi ngốc đầu dậy để nhìn những gì xảy ra. Tai tôi tràn ngập tiếng la hét, rên rĩ. Những người nằm xung quanh tôi đều bị thương trầm trọng, và khi tôi bắt đầu bò đến 1 phi công nằm gần nhất, tôi nghe ở bắp đùi và mông tôi đau nhói như dao cắt. Tôi đưa tay rờ và cảm thấy máu thấm ướt qua quần. Đau đơn quá đổi, nhưng cũng may vết thương không sâu.
    Đầu óc choáng váng, tôi gượng đứng dậy và chạy ngược về sân bay. Tôi vừa chạy vừa ngước nhìn lên bầu trời, tôi thấy 12 oanh tạc cơ bay trong đội hình, đảo một vòng thật rộng ở độ cao ít nhất 20.000 bộ. Đó là loại oanh tạc cơ SB hai máy do Nga Sô chế tạo, oanh tạc cơ chánh của không lực Trung Hoa. Hiệu quả vượt bực của cuộc tấn cống bất thần nầy không thể phủ nhận được. Cho đến khi bom từ phi cơ rơi xuống và nổ tung mọi người mới biết.
    Đa số 200 oanh tạc cơ và chiến đấu cơ của Hải quân và Lục quân đậu san sát dọc theo phi đạo đang bốc cháy. Những bựng lửa vĩ đại túa ra từ các bồn chứa xăng nổ tung, biến thành những cột khói trên không. Xăng từ các phi cơ chưa cháy đang thoát ra ngoài qua các lổ hỏng do miểng bom xoi thủng. Lửa bén xăng chát lan từ phi cơ nầy sang phi cơ khác. Các oanh tạc cơ nổ bùng như cây pháo và các chiến đấu cơ loà sáng như diêm quẹt.
    Tôi chạy quanh dãy phi cơ bốc cháy như điên cuồng cố tìm xem còn chiếc nào nguyên vẹn hay không. Một vài chiếc chiến đấu cơ nằm riêng rẽ thoát khỏi cuộc hủy diệt. Tôi leo lên buồng lái của một chiếc, rồ máy và cất cánh tức khắc ngay khi chạy ra phi đạo.
    Các oanh tạc cơ địch tăng thêm độ cao khi chiếc chiến đấu cơ nhanh nẹhn hơn của tôi đuổi theo ráo riết. 20 phút sau khi cất cánh, hầu như tôi bắt kịp đối phương. Một mình trên không , nhưng tôi không để ý đến điều nầy. Tôi cũng biết rằng chiến đấu cơ của tôi trang bị yếu, sự đe doạ không đủ trầm trọng đối với 12 oanh tạc cơ địch. Phía dưới tôi là thành phố Ichang nằm cạnh bờ sông Giang Tử, vẫn còn nằm trong tay quân phòng ngự Trung Hoa. Bị bắn hạ ở đây, cho dù bị thoát chết khi rơi xuống, nhưng không thể nào thoát chết trong tay binh sỹ của họ Tưởng. Nhưng tôi phải tấn công, không thể trì hoãn.
    Tôi bay sát đến từ phía sau và ở phía dưới dãy phi cơ địch đang lướt đi. Súng địch khai hoả, nhưng không trúng tôi. Tôi tiến sát hơn nữa, và tập trung hoả lực vào chiếc oanh tạc cơ bên trái. Khi bay lãng ra và vượt lên tôi nhìn thấy khói từ phi cơ địch túa ra. Chiếc oanh tạc cơ rơi khỏi đội hình, bắt đầu mất hướng khi tôi đảo lại và sắp bổ nhào xuống vồ thêm một cú ân huệ. Nhưng tôi bỏ dỡ lợi thế. Ngay khi đẩy cần điều khiển, tôi nhớ lại Ichang nằm cách phía Tây Hán Khẩu ít nhất là 150 dặm. Nếu tôi truy đuổi chiếc oanh tạc cơ què quặt thêm nữa, tôi sẽ không đủ xăng để quay về căn cứ, và như vậy nghĩa là tôi bắt buộc đáp xuống đất địch.
    Sự liều lỉnh chống lại một nhóm địch quân vượt trội khác hẳn với sự liều mạng. Tiếp tục tấn công là tự sát, hành động nầy không thể gọi là can đảm. Tôi quay về căn cứ. Dĩ nhiên tôi không biết chiếc oanh tạc cơ địch có về đến phi trường của nó được hay không.
    Trở lại Hán Khẩu, sự huỷ diệt chỉ do 12 chiếc oanh tạc cơ địch gây ra khủng khiếp không thể tưởng. Hầu hết phi cơ của chúng tôi tan tành. Vị chỉ huy trưởng căn cứ mất cánh tay trái, nhiều sỹ quan cũng như phi công và nhân viên bảo trì lớp chết lớp què quặt.
    Tôi đã quên mấy vết thương của tôi, nhiệt độ của cuộc truy đuổi và sự căng thẳng của trận chiến làm cho con đau tạm thời biến mất. Leo xuống và rời khỏi phi cơ một vài bước , tôi ngã quỵ trên phi đạo.
    Các vết thương lành lặn một cách chậm chạp. Một tuần lễ sau, trong khi vẫn còn nằm trong bệnh viện, tôi nhận được thơ của Hatsuyo, với những tin tức còn tàn phá hơn cuộc oanh tạc vừa qua.
    Hatsuyo viết: “Em rất buồn khi phải viết thơ nầy, nó chứa đựng một tin tràn ngập đớn đau cho anh. Mikiko, người bạn thân nhất của em, chết thình lình trong một tai nạn lưu thông vào ngày 3 tháng 10. Em không biết nói gì. Em rối loạn và đau đớn. Em tức giận Thượng Đế. Tại sao, tại sao một người toàn vẹn như Mikiko lại phải chết lúc mới 16 tuổi, và nàng hoàn toàn ngây thơ vô tội? Em đã tự oán ghét mình khi báo tin nầy cho anh, một trong những phi công đang chiến đấu. Nhưng không còn ai khác để em kể lể ngoài anh…”.
    Bức thơ của Hatsuyo còn kèm theo mấy giòng do má của Mikiko viết: “ Con Mikiko bất hạnh ngày ngày thường nói về anh với gia đình chúng tôi. Sau khi gởi thơ cho anh, nó nôn nóng trong chờ phúc đáp. Nhưng thơ của anh chỉ đến vào ngày cử hành tang lễ của nó. Ôi ! nếu nó được đọc thơ của anh trước thì vui vẻ biết bao! Tại sao đấng toàn năng mang nó đi sớm như vậy. Tôi không hiểu nổi. Tôi đã kêu gào nhiều ngày. Tôi muốn anh biết rằng bức thơ của anh đã được đặt trong áo quan của con gái tôi, và bức thơ sẽ theo nó về trời. Xin anh nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của chồng tôi, và của chính tôi về những giòng chữ mà anh đã viết cho con tôi. Hiện tại, chúng tôi cầu nguyện linh hồn của Mikiko sẽ che chở anh trên không trung, trước lằn tên mũi đạn của quân thù.”
    Đầu óc tôi trống rỗng. Tôi choáng váng và hụt hẫng. Nhiều giờ, sau khi nằm trên giường, tôi viết một bức thơ dài cho má của Mikiko để chia buồn với bà. Trong thơ tôi gởi kèm một số tiền để góp vào việc xây mộ cho nàng, hành động nầy theo đúng với tập tục của tổ tiên chúng tôi.
    Trải qua nhiều ngày, lòng nhớ quê hươngcủa tôi nổi lên mạnh mẽ, tôi mong muốn gặp lại gia đình, má tôi và các anh chị tôi.
    Niềm mong ước nầy chờ đợi không mấy lâu. Hai ngày sau tôi nhận được lịnh thuyên chuyển, chỉ thị tôi trình diện Liên Phi Đoàn Omura, căn cứ không quân gần nhà tôi nhứt. Viên đại úy phòng nhân viên, mặt mày lạnh lùng, cảnh cáo tôi: “ vì lí do an ninh, khi về Nhựt anh không được kể với ai về thảm họa vừa xảy ra. Anh hiểu chớ?.”
    “ Dạ, thưa đại úy vì lý do an ninh, tôi sẽ không kể lại với ai về thảm hoạ vừa xảy ra.” Tôi đáp rồi chàovà bước ra sân bay leo lên một vận tải cơ. Nó sẽ mang tôi về quê nhà.[/spoil]

    Chương VI[spoil]

    Với tâm trạng đen tối, tôi trở về căn cứ Omura. Cuộc không tập tàn phá phi trường Hán Khẩu, mất một số bạn thân, cái chết của Mikiko, và các vết thương của tôi, tất cả khiến tôi rũn chí. Hơn nữa, mặc dù căn cứ gần sát bên nhà tôi, tôi không được phép về thăm gia đình cho đến khi các vết thương của tôi hoàn toàn lành lặn.
    Trước tiên tôi đến gặp vị chỉ huy trưởng căn cứ Omura với tất cả sự e dè. Khi tôi được chỉ định về phục vụ tại căn cứ nầy vào năm trước đây, thái độ khinh bỉ và không thiện cảm của ông đối với tất cả các phi công mới ra trường thật đáng buồn. Thái độ nầy làm tôi lo âu. Nhưng tôi đã kinh ngạc khi vị chỉ huy trưởng mỉm cười rạng rỡlúc tôi đứng nghiêm trước bàn giấy của ông. Ông nhìn tôi trong giây lát, ngắm nhìn bộ quân phục, mặt mày, và đôi mắt của tôi đang nhìn thẳng về phía trước. Dần dần tôi hiểu thái độ hiện thời của ông. Tin tức về việc tôi đơn độc chống lại 12 oanh tạc cơ địch, mặc dù kết quả không rõ đã bay trước bước chân tôi trở về Nhật Bản của tôi. Thái độ khinh thường trước đây của ông đã chuyển hướng, vị chỉ huy trưởng báo cho tôi biết, tôi có thể nghỉ ngơi thoải mái ở Omura và trong thời gian nầy tôi sẽ khỏi phải thi hành một công tác nào cả. Việc nầy đáng kinh ngạc, những tay lính mới chưa từng được đối xử như vậy bao giờ.
    Ở nhà ăn, tôi biết được các phi vụ ở Trung Hoa của tôi, với việc hạ được 1 chiến đấu cơ và tấn công 12 oanh tạc cơ địch, được thêm mắm dậm muối rất nhiều, khiến tôi trở thành một vị anh hùng nho nhỏ đối với các phi công thực tập ở căn cứ. Những người này bao quanh lấy tôi, nôn nóng nghe câu chuyện không chiến trên lục địa Trung Hoa.
    Suốt một tuần lễ, tôi ăn ngũ thoả thích và nhìn bọn phi công thực tập, thực hiện các phi vụ huấn luyện của họ. Sau đó, tôi nhận được lá thơ của cô gái tôi chưa từng quen biết tên là Fujiko Niori. Nàng viết: “ Tôi là chị của Mikiko, và tôi muốn nhân cơ hội nầy để chân thành cảm ơn bức thơ của anh đã gởi cho má tôi, cùng những lời lẽ tử tế và lưu tâm mà anh đã dành cho em gái của tôi. Bức thơ của anh là một tia nắng ấm chiếu rọi vào nỗi tuyệt vọng đang trùm lấp gia đình tôi sau cái chết của Mikiko. Tất cả chúng tôi đều than van rằng Mikiko đã rời bỏ chúng tôi trong lúc nó đang hạnh phúc nhất, tôi không hổ thẹn để nói với anh như vậy. Tôi phải thú nhận, trước khi được thơ của anh, tôi luôn mang cảm tưởng rằng tất cả các phi công chiến đấu chỉ thích đánh nhau, họ thiếu nhiệt tình và sự xúc động. Dĩ nhiên, bức thơ của anh đã làm tôi thay đổi ý kiến. Tôi thành thật ước muốn được kết bạn với anh, nếu anh cho phép nhứt là nhân danh em gái của tôi. Nỗi vui mừng của tôi sẽ trọn vẹn nếu anh phúc đáp bức thơ nầy.”
    Trong phong bì kèm theo một tấm hình của Fujiko. Cô gái 18 tuổi nầy còn đẹp hơn cô em nàng.
    Tôi lập tức viết thơ trả lời. Nói cho nàng biết tôi chỉ bị thương nhẹ ở Trung Hoa và hiện thời đã trở về Nhựt để chữa trị cho lành hẳn. Tôi nói với nàng theo lời các bác sỹ cho biết, tôi sẽ sớm được bay trở lại và, ngay khi bình phục, tôi hy vọng sẽ gặp mặt nàng.
    Bức thơ thứ nhì Fujiko kể cho tôi nghe dài dòng về đời sống của nàng và những việc xảy ra hàng ngày trong thành phố Tokushima trên đảo Shikoku. Tháng kế đó, không bao nhiêu công việc ở căn cứ Omura, tôi bỏ nhiều thì giờ viết thơ cho Fujiko và đọc đi đọc lại những bức thơ nàng đã gởi cho tôi.
    Vào tháng 11 năm 1939, tôi nhận được 24 giờ phép đầu tiên trong năm. Với các vết thương đã hoàn toàn bình phục, tôi nôn nóng trở về nhà. Từ căn cứ về nhà tôi không quá 1 giờ xe lửa. Mùa gặt đã qua rồi, đồng ruộng quạnh hiu khi mùa đông đến, nhưng quang cảnh nầy không làm tôi chú ý mấy. So với quang cảnh lục địa Trung Hoa đầy buồn chán, tỉnh nhà của tôi không khác nào một vườn hoa và khi xe lửa hướng về ngôi làng, tôi ngắm nhìn dãy núi Kyushu vương cao trên bầu trời, với màu xanh thẳm của những cánh rừng dày bịt, những dòng suối sáng lóng lánh dưới ánh nắng ban trưa.
    Khi bước xuống con đường dẫn vô ngôi nhà nhỏ bé, cũ kỷ, tôi không còn tin vào đôi mắt của mình nữa. Một đám đông đang tụ họp trong sân, trên đường cùng cất tiếng chào mừng tôi. Tôi ngạc nhiên khi thấy má tôi cùng đi với xã trưởng và nhiều viên chức khác trong làng bước ra đón tôi.
    Vị xã trưởng cất cao giọng: “ Mừng anh trở về, Saburo, vị anh hùng của ngôi làng nghèo khó của chúng ta.”. Tôi bẻn lẻn, tôi chưa bao giờ mơ tưởng sự việc như vầy có thể xảy ra. Tôi ấp úng mãi mới nói cho vị xã trưởng biết tôi không có gì gọi là anh hùng cả, tôi chỉ là một hạ sỹ quan bắn rơi được 1 chiến đấu cơ duy nhứt của địch.
    Ông ta ngắt lời: “Tánh khiêm nhường rất tốt, nhưng tất cả chúng tôi đều biết anh đoạt được cái đồng hồ bằng bạc của Thiên Hoàng ở trường phi công hải quân, và điều nầy có nghĩa là anh được chọn làm phi công nhiều hứa hẹn nhứt của đất nước chúng ta.”
    Tôi lặng yên. Những hình ảnh của 5 năm về trước chiếu rọi lại trong trí tôi, lúc tôi bước xuống cùng con đường nầy, với tâm trạng của một kẻ gây tủi nhục cho gia đình làng xã, với những bạn bè hồi còn để chổm quay mặt ngượng ngùng. Nếu những người nầy biết tôi đã vụng về, hầu như chết sửng trong buồng lái phi cơ khi đụng trận lần đầu tiên ra sao, hoặc nếu họ biết hành vi của tôi khiến cho vị đại úy phẩn nộ đến nỗi không thốt nên lời như thế nào! Và hiện thời … tất cả những thứ nầy! Thật là quá mức!
    Sau đó, một con heo to lớn được quay ngay trong sân. Hàng đống thức ăn, rượu sakê và rượu nếp. Tôi vẫn còn đứng ngơ ngác trước quang cảnh đón tiếp không ngờ nầy cho đến khi má tôi gọi lại bên cạnh khẽ nói: “ Tất cả mọi người đều tốt với con. Các thức ăn nầy được họ góp lại để mừng ngày trở về của con! Đừng nhắn mày nhíu mặt bữa. Hãy vui lên.”
    Mọi người đều muốn nghe đủ chuyện ở Trung Hoa, và thường ngắt lời tôi để hỏi rõ nhiều chi tiết liên quan đến trận không chiến chống lại chiến đấu cơ địch, và việc tôi đã tấn công nhóm oanh tạc cơ địch ra sao. Ai ai cũng tỏ vẻ kính nể. Đôi mắt má tôi sáng long lanh, trong niềm hãnh diện. Ba anh chị tôi, mặc quần áo mới, ngồi mỉm cười, mặt mày rạng rỡ!
    Khi thực khách ra về, tôi sớm tìm hiểu và biết gia đình tôi vẫn nghèo khổ, như lúc tôi bước chân vô hải quân. Má tôi trấn an tôi, cho biết cả làng giúp đỡ gia đình tôi rất nhiều và không tử tế bằng những người lân cận.
    Trong thời gian ở Trung Hoa, tôi đã gởi hơn nửa phần tiền lương về nhà, vì tiền bạc bên ấy không tiêu dùng nhiều. Tôi không bao giờ uống rượu và, quả thật tôi không giao du với bất cứ cô gái nào.
    “ Saburo,” má tôi tiếp, “cả nhà cám ơn con đã gởi đều đặn hết số lương của con về. Nhưng hiện thời má không muốn con gời nữa. Con phải để dành mà tiêu dung đã đến lúc con phải nghỉ đến con, và bắt đầu dành dụm để một ngày nào đó còn lập gia đình.”
    Tôi phản đối mạnh mẽ. Tôi có dành dụm chút ít tiền, nhưng không hề dự định gì vào những năm sắp tới. Nhưug bỗng nhiên tôi nhớ đến Fujiko. Tôi hiểu rõ, nếu tôi vẫn ở trong làng nầy thay vì gia nhập hải quân và trở thành một phi công , gia thế của nàng sẽ không cho phép nàng giao du với tôi.
    Trở về Omura, vi chỉ huy trưởng trả lại nghiệp bay cho tôi, và tôi bắt đầu thực hiện một loạt phi vụ tập luyện để lấy lại phong độ. đầu tuần lễ thứ hai của tháng giêng năm 1940, tôi nhìn thấy tên tôi trên bảng thông cáo. Theo đó, tôi được chọn với nhiều phi công khác để bay biểu diễn trên thành phố kỷ nghệ rộng lớn Osaka vào ngày 11 tháng 1 năm 1940, ngày quốc khánh của chúng tôi.
    Tôi vội vã gởi thơ cho Fujiko, báo cho nàng biết chuyến đi của tôi. Trong thơ phúc đáp, nàng hỏi tôi sẽ ở đâu tại Osaka, vì “ba má và tôi muốn gặp anh tại Osaka vào ngày nầy.” Cả gia đình nầy đều có mặt ! Quả thật đó là một danh dự đối với tôi. Muốn đi, gia đình nàng phải mất trọn một ngày từ Tokushima xuyên qua biển Nhật Bản để đến Osaka.
    Phi vụ biểu diễn không có gì khó khăn. Quá trưa hôm đó, sau khi phi vụ hoàn tất, chúng tôi vô ngụ trong một khách sạn ở Osaka.
    Khi tôi đang cạo râu và thay đổi bộ quân phục mới, một trong những hạ sỹ quan chạy ùa vô phòng hả họng rống lên:
    - Phi công Sakai ! Mau lên! Vị hôn thê của anh đang chờ gặp anh dưới lầu!
    Mọi người cười ồ. Tôi đỏ mặt và vội vã đi ra ngoài .
    Fujiko đang bối rối. Tôi ngừng lại trên thang lầu và nhìn nàng. Trong chiếc Kimono xinh xắn, Fujiko cùng với cha mẹ đứng chờ tôi ngoài hành lang. Tôi khom mình chào họ.
    Đêm đó tôi được gia đình Fujiko mời ăn cơm tại một trong những nhà hàng danh tiếng nhất ở Osaka. Tôi chưa bao giờ đặt chân vô một nhà hàng như vậy trước đây.
    Song thân của Fujiko thật phi thường đối với tôi. Cả hai đã làm mọi cách để gây cho tôi sự thoãi mái. Nhưng tôi không tránh khỏi ké né, vì hiển nhiên tôi nghĩ mình đang bị xâm xoi, ngắm nghía như một chành rể tương lai của họ. Điều làm tôi rụt rè hơn nữa khi tôi biết được gia đình Niori là một trong những gia đình tiếng tăm nhứt ở Nhật Bản, xuất thân từ một giòng họ Samurai xuất sắc trong xứ, và thân phụ của Fujiko hiện thời là giáo sư đại học, một địa vị đầy danh vọng thời ấy. Trong bữa ăn, tôi đã từ chối ly sakê do ông Niori tự tay rót cho tôi. Ông cười và thúc giục tôi uống mãi, cuối cùng tôi phải nói cho ông biết tôi không uống rượu, vì tôi là một phi công chiến đấu. Câu đáp của tôi rõ ràng đã làm cho cả gia đình hài lòng.
    Đêm hết quá mau và những lời từ giã được trao đổi tuy nhiên lời cầu hôn của tôi chưa thốt ra.
    Trở về Omura, tôi vùi đầu trong công việc huấn luyện bổ túc từ sáng sớm cho đến tối mịt. Mùa Xuân lướt qua rồi mùa Hạ đến và đi. Tôi vẫn ở Omura, vẫn miệt mài với chương trình huấn luyện. Những gì làm cho tinh thần tôi phấn khởi chính là những bức thơ của Fujiko đến đều đặn. Những bức thơ dâng đầy niềm hi vọng và mộng mơ trong tôi ấy.
    Nhưng tôi trở nên nôn nao. Nhiều bức thơ tôi nhận được từ mấy người bạn phi công vẫn còn bay ở Trung Hoa kể lại những chiến công mà họ đã gặt hái được từ tuần nầy qua tuần khác. Hầu hết mấy người bạn nầy đều đã hạ trên 10 phi cơ địch, gây thất điên bát đảo cho kẻ thù trên không phận Trung Hoa. Tin lành sau cùng đã đến, tôi được lịnh thuyên chuyển đến căn cứ không quân Kaohsiung ở Đài Loan. Từ Trung Hoa trở về nước đúng 1 năm, và bây giờ tôi lại được gần gũi với cuộc chiến. Hiện thời Kaohsiung trở thành căn cứ không quân hải ngoại chánh yếu của Nhật Bản , và sự thuyên chuyển nầy có nghĩa là tôi sẽ lâm trận ngay sau đó.
    Trước khi lên đường tôi đi mua ngay một vật mà tôi đã ao ước suốt năm nay. Đó là chiếc máy chụp hình hiệu Leica, thấu kính 2.0 Sonar, lúc đó được xem là máy chụp hình tốt nhất thế giới. Giá chiếc máy nầy hơn 3 tháng lương, và tôi đã vét hết số tiền dành dụm. Các chiến đấu cơ của chúng tôi không được trang bị loại máy chụp hình tự động như của người Mỹ, và chiếc máy Leica thích hợp để chụp không ảnh từ phòng lái.
    Ở Kaohsiung, tôi đã gặp phải một sự sửng sốt tột cùng. Trên sân bay, tôi nhìn thấy nhiều chiến đấu cơ loại mới, xa lạ, khác hẳn loại 96 Claude. Đây là loại chiến đấu cơ Zero Mitsubishi vừa chế tạo, trơn bóng và tối tân. Zero đã gây cho tôi sự thích thú chưa từng thấy. Phòng lái của loại phi cơ nầy có nấp che, động cơ cực mạnh và bộ phận hạ cánh có thể rút được vào thân. Thay vì chỉ có 2 khẩu đại liên hạng nhẹ như loại 96 Claude, loại chiến đấu cơ Zero được trang bị đến 2 khẩu đại liên và 2 đại bác 20 mm.
    Chiến đấu cơ Zero được chúng tôi mang ra thử thách lần đầu tiên trong cuộc xâm chiếm Đông Dương thuộc Pháp, trong nhiệm vụ bao che cho các đơn vị lục quân đánh chiếm những vị trí then chốt trên mặt đất. Điều nầy có nghĩa là Zero phải bay không ngừng nghỉ suốt 800 dặm từ Kaohsiung đến đảo Hải Nam. Đó là một khoảng cách không thể nuốt trôi đối với các loại chiến đấu cơ trước đây, nhứt là không trình phần nhiều nằm trên mặt đại dương. So với Claude tầm ngắn, Zero như một kỳ quan đối với chúng tôi.
    Tuy nhiên, khi tiến vô Đông Dương, chúng tôi không gặp một sự chống đối nào, ngoại trừ một vài cuộc đụng độ nhỏ ở biên giới, gây ra bởi một số đơn vị Pháp không kịp thông báo. Cuộc xâm chiếm xúc tiến một cách “Hoà dịu” sau thoả hiệp với nhà cầm quyền địa phương Pháp, tránh được sự lan rộng của chiến tranh.
    Tôi vẫn chưa nếm mùi chiến đấu với loại chiến đấu cơ Zero cho đến khi tôi được bổ nhiệm trở lại Liên Phi Đoàn Trung Hoa, tôi nhận thấy phi công địch mất hẳn tinh thần chiến đấu. Sự hùm hổ trong trận không chiến đầu tiên của tôi không còn nhìn thấy ở đối phương nữa. Các phi công địch tìm mọi cách để tránh né chúng tôi, và họ chỉ chấp nhận đụng độ khi nào chiếm được ưu thế, lao từ trên mây xuống đánh úp chúng tôi. Thái độ co đầu rụt cổ nầy bắt buộc chúng tôi càng lúc càng tiến sâu vô nội địa, dồn họ vào thế phải chấp nhận đánh nhau.
    Tôi được chỉ định một nhiệm vụ như vậy vào ngày 11 tháng 8 năm 1941, với mục đích ép buộc đối phương lâm trận. Đó là một phi vụ 800 dặm không ngừng nghỉ từ Ichang đến Chengtu. Khu vực nầy quen thuộc, ở trên Ichang, bấy giờ nàm trong tay địch quân, mà tôi đã từng đối đầu với 12 oanh tạc cơ Nga Sô trước đây.
    Trong phi vụ xâm nhập nầy, chúng tôi có thêm nhiệm vụ hộ tống 7 oanh tạc cơ loại Mitsubishi I hai máy, người Mỹ gọi là Betty. Quá nửa đêm, các oanh tạc cơ cất cánh từ Hán Khẩu và được chúng tôi đưa đến Ichang. Sau đó, chúng tôi tiếp tục hướng đến phi trường Wenkiang. Chúng tôi ở trên mục tiêu trước bình minh và bay quần chầm chậm chờ ngày lên hẳn. Chúng tôi nhìn chiếc Zero dẫn đầu, nghiêng cánh và chúi xuống. Đó là ám hiệu khai hoả.
    Từng chiếc một, chúng tôi túa xuống phi trường, nơi tôi nhìn thấy nhiều chiến đấu cơ Nga Sô chạy trên phi đạo, chuẩn bị cất cánh. Nhân viên địch dưới đất chạy túa mọi nơi, hướng đến hầm trú ẩn.
    Tôi sà thật thấp, lướt đến phía sau một chiến đấu cơ E.16 của địch vừa cất đầu lên khỏi mặt đất. Đó là một mục tiêu ngon ăn, và chỉ một viên đại bác tầm ngắn đã biến chiếc phi cơ thành cây đuốc. Tôi xẹt ngang qua phi đạo đảo sang phải thật ngặt và vượt thẳng lên để quành lại kiếm ăn nữa. Súng phòng không địch vây tôi mọi mặt, nhưng tốc lực của chiến đấu cơ Zero mau không thể tưởng, khiến xạ thủ địch bó tay.
    Nhiều chiến đấu cơ khác Zero khác bổ nhào xuống, cày nát mặt phi đạo. Một số chiến đấu cơ Nga phát hoả hoặc vỡ tan. Tôi lại đâm đầu xuống để chụp một chiếc phi cơ khác trong tầm mắt. Một viên đạn đại bác thứ ha, và một trái cầu lửa hình nắm nổ lên.
    Không còn gi để xạ kích nữa. Cuộc tấn công của chúng tôi đã dọn sạch phi cơ địch trên phi trường, không một chiếc nào ngốc đầu lên nổi. Đa số bốc cháy hoặc nổ tung. Trở lên 7000 bộ, chúng tôi nhận thấy nhiều nhà chứa phi cơ và các cơ sở khác bao trùm trong lửa đó. Đó là một nhiệm vụ trơn tru từ đầu đến cuối. Chúng tôi thất vọng vì thiếu màn đánh nhau trên không, nên tiếp tục đảo vòng, hy vọng các cột khói sẽ lôi cuốn phi cơ địch.
    Thình lình 3 chiến đấu cơ Zero tách khỏi đội hình và chúi xuống đấat. Xa xa phía dưới, tôi nhìn thấy một phi cơ hai cánh sơn màu sáng chói sáng bay sà sát mặt đất. Trong nháy mắt, 3 chiến đấu cơ Nhựt nhảy xổ vào phi cơ địch, tung ra hàng loạt đạn đại liên và đại bác nhưng không có kết quả, vì viên phi công địch lộn nhào tránh né tài tình. Cả 3 chiến đấu cơ đều bay vượt qua chiếc phi cơ 2 cánh.
    Bây giờ đến lượt tôi. Tôi chúi xuống và kế hoạchi phi cơ địch nằm trom tầm súng, tôi bóp cò. Chiếc phi cơ đảo thật ngặt về phía trái và thoát khỏi. Một chiếc Zero khác nhập cuộc, và cả 5 chúng tôi hùa nhau đuổi bắt chiếc phi cơ quỉ quái. Tài tránh né của viên phi công địch quả đáng bực thầy. Chiếc phi cơ hai cánh như hồn ma bóng quế. Nó lộn nhào, rơi xuống thoe hình trôn ốc, vượt lên cao và xoay ngang xoay dọc tài tình đến nỗi khi thoạt nhìn thấy khó thể thực hiện được. Chúng tôi không thể nào nhắm chiếc phi cơ một cách chính xác.
    Sau đó, bất ngờ chúng tôi bay đến gần đỉnh của một ngọc đồi thấp phía Tây Chengtu. Viên phi công địch thay vì tránh né, đã bay vượt lên ngọn đồi, và khi vượt lên hắn xoay một vòng chậm chạp. Đó là một lỗi lầm chết người mà không một phi công nào dám để mắc phải. Bụng hắn loé sáng trước mắt tôi, và những viên đạn đại bác của tôi đã xé rách, xuyên thấu tận buồng lái. Đang lúc chiếc phi cơ hai cánh rơi xuống như một chiếc chong chóng một chiến đấu cơ Zero khác bồi thêm một loạt đạn vô ích vào một xác chết. Nó chạm vô sườn đồi và nổ tung.
    Tôi ghi hai điểm, và đây là điểm đầu tiên với một chiếc Zero.
    Đó là phi vụ chiến đấu cuối cùng của chúng tôi ở mặt trận Trung Hoa. Không lâu sau đó chúng tôi nới tầm hoạt động lên Yungcheung, một thị trấn nhỏ ở mãi tận giòng sông Hoàng Hà. Suốt nhiều tuần lễ, các phi vụ tuần thám của chúng tôi thất bại trong việc khám phá ra phi cơ địch.
    Đầu tháng chín, tất cả các phi công hải quân trở về Hán Khẩu, nơi mà chúng tôi bởi sự xuất hiện của phó đô đốc Eikichi Katagiri, tư lịnh không lực hải quân ở Trung Hoa. Vị đô đốc nói cho biết tất cả chúng tôi được thuyên chuyển về Đài Loan, ở đó chúng tôi sẽ lảnh một sứ mạng quan trọng nhứt. Phó đô đốc không tiết lộ nhưng tất cả chúng tôi đều biết rõ Nhật Bản sắp khai chiến với các cường quốc Tây phương.
    Giữa tháng chín, chúng tôi quay về Đài Loan. Sau đó , toàn thể 150 phi công chiến đấu cơ và con số tương đương phi công oanh tạc cơ di chuyển từ căn cứ không quân Kaohsiung (trên đảo Đài Loan) đến căn cứ Tainan để gia nhập và tân hạm đội Tainan.
    Cuộc chiến Thái Bình Dương đang trên đà bùng nổ.[/spoil]

    - - - Updated - - -

    Chương VII[spoil]

    Vào ngày 2 tháng 12 năm 1941, phó đô đốc Fushizo Tsukahara, tư lệnh hạm đội II, lần đầu tiên gởi các phi công thám thính đến quần đảo Philippine. Ngày 4 và 5, các phi cơ nầy trở lại một lần nữa để chụp hình 2 phi trường Clark và Iba và những nơi đồn trú quan trọng khác của địch quân gần Manila, từ trên độ cao 20.000 bộ. Các không ảnh đã cho chúng tôi nhìn thấy rõ ràng tại phi trường Clark có 32 oanh tạc cơ B.17, 3 phi cơ hạng trung, và 71 phi cơ nhỏ. Theo xét đoán của hải quân, địch quân có khoảng 300 chiến đấu cơ đủ loại ở Lữ Tống. Sau nầy chúng tôi khám phá ra com số phi cơ của địch quân ở Philippine nhiều gấp hai lần con số vừa nói.
    Không phải chỉ phi cơ của chúng tôi độc quyền thực hiện các phi vụ thám thính mà thôi. Nhiều phi cơ thám thính loại Catalina PBY của Hoa Kỳ cũng thỉnh thoảng được nhìn thấy trên không phận Đài Loan. Loại thủy phi cơ hai máy nầy xuất hiện vào những ngày mây sà thấp, bay chậm ở độ cao 1500 bộ, nhởn nhơ chụp hình các nơi đồn trú và phi cơ đậu trên mặt đất của chúng tôi.
    Các phi công Mỹ đã gây kinh ngạc cho chúng tôi. Với những chiếc phi cơ chậm chạp và cũ kỹ, coi rất dễ ăn, vậy mà chúng tôi không tóm được một chiếc PBY nào cả. Mỗi lần có báo động, hàng chục phi công, chúng tôi nhảy xổ lên không, nhưng mấy chiếc PBY Catalina chui vo trong mây dày đặt và biến mất tiêu. Với những không ảnh được chụp ở một độ thấp như vậy, phải nói rằng người Mỹ có trong tay mọi thứ mà họ muốn biết về các đơn vị không quân của chúng tôi.
    Khi chúng tôi đến Tainan để gia nhập vào tân hạm đội, chúng tôi trải qua một giai đoạn huấn luyện mới không ngừng nghỉ. Từ bình minh cho đến tối mù, 7 ngày một tuần, bất chấp mọi thời tiết, chúng tôi tham dự vào các chuyến bay huấn luyện để cải tiến các phi vụ hộ tống, các phi vụ với đội hình đông đảo, các phi vụ đột kích v.v…
    Kế hoạch tấn công Philippine nguyên thủy của chúng tôi đòi hỏi phải xử dụng 3 hàng không mẫu hạm nhỏ để mang chiến đấu cơ Zero đến gần các hòn đảo của địch. Đó là 3 hàng không mẫu hạm Ryujo, 11.700 tấn, Zuiho 13.950 tấn, một tàu tiếp tế cho tiềm đỉnh được cải biến, Taiho 20.000 tấn một tàu buôn cải biến. Về mặt lý thuyết, 3 hàng không mẫu hạm nầy có khả năng chở đến 90 chiến đấu cơ, nhưng khả năng thực sự chỉ khoảng 50 phi cơ, và con số nầy còn phải giảm xuống vào những ngày giông gió. Phó đô đốc Tsukahara nhận thấy ba chiếc tàu nầy hầu như không đáp ứng các dự định của ông.
    Tuy nhiên, nếu chiến đấu cơ Zero có thể bay thẳng từ Đài Loan đến Philippine và trở về không ngừng nghỉ, bấy giờ chúng tôi sẽ không cần đến các hàng không mẫu hạm. Nhưng các vị phụ tá của Tsukahara không tin một chiến đấu cơ một máy có thể thực hiện nỗi nhiệm vụ có tầm xa như vậy. Phi trường Clark cách căn cứ chúng tôi 450 dặm, và phi trường Nichols, một mục tiêu quan trọng khác gần Manila, cách 500 dặm. Điều đó có nghĩa là chúng tôi phải bay suốt từ 1000 đến 1200 dặm. Từ trước đến nay chưa có chiến đấu cơ nào thực hiện được những phi vụ chiến đấu như vậy bao giờ. Những cuộc thảo luận ồn ào xảy ra giữa bộ tham mưu không quân xem chiến đấu cơ Zero có khả năng thi hành nhiệm vụ nầy hay không. Chỉ có một đường lối duy nhứt để xác định vấn đề nầy.
    Từ đó trở về sau, chúng tôi bay ngày lẫn đêm để đo lường tầm hoạt động của chiến đấu cơ Zero. Nếu thực hiện các phi vụ đơn độc, loại chiến đấu cơ Zero có thể duy trì trên không tối đa 6 đến 7 giờ. Chúng tôi kéo dài thời gian nầy ra từ 10 đến 12 giờ, và thực hiện trong đội hình đông đảo. Riêng tôi đã lập được thành tích trong việc hạ thấp mức tiêu thụ xăng xuống không quá 17 galong (khoảng 68 lít) một giờ, trung bình, các phi công chúng tôi chúng tôi giảm mức tiêu thụ xăng từ 35 galong(khoảng 140 lít) xuống còn 18 galong (khoảng 72 lít). Thông thường, một chiếc Zero mang theo được 182 galong xăng.
    Để duy trì xăng, ở cao độ 12.000 bộ chúng tôi chỉ bay với tốc lực khoảng 200 cây số giờ. Tốc lực đầy đủ bình thường của một chiếc Zero khoảng 500 cây số, và dưới tình trạng khẩn cấp ngắn ngủi có thể lên đến tối đa khoảng 650 cây số. Nhiều phương pháp tiết kiệm nhiên liệu có tánh cách kỹ thuật khác cũng được thực hiện.
    Các phương pháp mới nầy đã nới rộng tầm hoạt động của chiến đấu cơ Zero một cách đáng chú ý. Các vị chỉ huy đã báo cáo những tin tức đầy phấn khởi lên Phó Đô Đốc Tsukahara, và dẫn đến việc xoá bỏ 3 hàng không mẫu hạm nhỏ trong kế hoạch tấn công Philippine của ông. Hai chiếc được đưa về Nhật Bản và một chiếc di chuyển đến yểm trợ cho các cuộc hành quân của chúng tôi ở Palau. Do đó, không hạm đội II trở thành một không hạm đội không có một tàu chiến nào cả.
    Chúng tôi tò mò tìm hiểu sự chống đối mà chúng tôi sẽ gặp từ người phía người Mỹ. Chúng tôi hiểu biết rất ít về các loại phi cơ và tài ba của phi công Hoa Kỳ. Chúng tôi chỉ phỏng đoán sẽ đối đầu với những phi công địch có nhiều khả năng hơn những phi công mà chúng tôi đã đối đầu ở Trung Hoa.
    Không ai tỏ vẻ nghi ngờ về sự khôn ngoan trong việc phát động chiến tranh của Nhật Bản. Chúng tôi, tất cả hạ sỹ quan chúng tôi, đã được huấn luyện để chỉ biết nhắm mắt tuân lịnh. Khi được lịnh bay và đánh, chúng tôi cứ cắm cúi thi hành.
    Lúc hai giờ sáng ngày 8 tháng 12 năm 1941, một liên lạc viên chạy vô chổ trú ngụ của chúng tôi ở Tainan, đánh thức nhóm phi công chúng tôi dậy. Đã đến rôi, ngày N, đó là ngày khai chiến theo như chúng tôi biết. Các phi công ngồi dậy lặng lẽ mặc quần áo và từng tốp nhỏ bước ra ngoài. Đêm trong lành, không trăng, với những vì sao chiếu lấp lánh khắp chân trời. Yên tĩnh của đêm bị phá vỡ bởi tiếng giày trận của chúng tôi khua vang trên nền đá, và tiếng nói thì thào của các phi công lúc bước ra phi đạo. Đại úy Masahisa Saito, chỉ huy trưởng của chúng tôi, cho biết chúng tôi sẽ cất cánh lúc 4 giờ, và ông thuyết trình về những chi tiết liên quan đến phi vụ tấn công vào các phi trường Mỹ ở Philippine. Sau đóm chúng tôi chờ đợi. Binh sỹ chạy việc mang điểm tâm đến tận chổ chúng tôi ngồi, bên cạnh phi cơ nằm sẵn trên phi đạo.
    Khoảng 3 giờ sáng, sương mù bắt đầu sà thấp xuống phi trường, một hiện tượng hiếm thấy trong khu vực bán nhiệt đới. Vào lúc 4 giờ, sưng mù trở nên dày đặt. Không thể nào nhìn thấy hơn năm thước. Chiếc loa trên đài kiểm soát vang tiếng: “ Cất cánh được hoản vô hạn định.” Nổi bồn chồn của chúng tôi càng lúc càng gia tăng khi màn đêm loãng dần. Chúng tôi luôn luôn nhìn đồng hồ, chửi rủa sương mù thậm tệ. Ba tiếng đồng hồ trôi qua trong tình trạng nầy, và sương mù đã không tan mà còn dày đặt hơn.
    Bỗng nhiên loa phóng thanh lại lên tiếng: “ Chú ý đây là một công bố quan trọng!.” Các phi công chăm chú lắng nghe. “Vào lúc 6 giờ sáng nay, một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản đã thành công khi tung ra cuộc tấn công hủy diệt bất thần các lực lượng Mỹ trên quần đảo Hạ Uy Di (Hawai).”
    Tiếng hò reo dữ dội nổi lên trong màn đêm. Các phi công nhảy múa và vổ lưng nhau. Nhưng nỗi vui mừng không được trọn vẹn. Đa số bọn phi công chúng tôi đều chửi thề khi bị đóng đinh trên mặt đất trong khi những phi công Nhật Bản khác đang nghiền nát kẻ thù.
    Cuộc tấn công vừa được công bổ làm cho chúng tôi suy nghĩ nhiều. Người Mỹ hiện thời đã đề cao cảnh giác, khó thể tin rằng họ không gom góp hết sức mạnh để chờ đợi chúng tôi ở Philippine. Căng thẳng gia tăng khi buổi sáng ló dạng. Sương mù đã phá các kế hoạch của chúng tôi, nó sẽ cho phép người Mỹ tung phi cơ họ từ Lữ Tống về để vồ số phi cơ hiện còn nằm trên mặt đất của chúng tôi ngay khi sương mù vừa tan. Chúng tôi chuẩn bị chống trả. Các xạ thủ đại liên ghìm súng, và mọi người vểnh tai nghe tiếng oanh tạc cơ địch bay đến.
    Lạ lùng thay, cuộc tấn công không xảy ra! Lúc 9 giờ sáng, sương mù bắt đầu tan, và âm thanh phấn khởi từ chiếc loa phóng thanh báo cho chúng tôi biết sẽ cất cánh trong vòng 1 giờ nữa. Tất cả những phi công chiến đấu cơ và oanh tạc cơ đều leo lên phi cơ của mình mà không đợi nhận lịnh thêm.
    Đúng 10 giờ, đèn báo hiệu lấp loáng xuyên qua màn sương mù mong manh. Hết chiếc oanh tạc cơ nầy đến chiếc oanh tạc cơ khác lần lượt cất cánh. Một, hai, ba, rồi sáu chiếc đã ở trên không trung. Chiếc thứ bảy đang chạy trên phi đạo và khi cách điểm khởi khoảng 500 thước bỗng nhiên bộ phận hạ cánh bên phải sụm xuống. Với một tiếng rít kéo dài khủng khiếp, chiếc phi cơ trườn bụng bên phải trên mặt sân bay, lửa bao phủ toàn thân. Trong ánh lửa chập chờn, chúng tôi nhìn thấy phi hành đoàn nhảy ra, chạy cuống cuồng khỏi chiếc phi cơ. Kế đó, một tiếng nổ dữ dội phát ra rung rinh cả phi trường. Bom chất trên phi cơ nổ tung. Không một người nào trong phi hành đoàn sống sót.
    Những mảnh vụn được dọn dẹp hối hả. Không đầy 15 phút, oanh tạc cơ kế đó được lịnh chuẩn bị cất cánh. Đến 10 giờ 45 phút, tất cả phi cơ đều ở trên không 53 oanh tạc cơ và 45 chiến đấu cơ Zero.
    Chiến đấu cơ chia làm 2 nhóm, một nhóm hộ tống các oanh tạc cơ, một nhóm bay phía trước để nghinh chiến. Tôi chắc chắn, sau khi cuộc tấn công trì hoãn quá lâu, kẻ thù đang chờ đợi chúng tôi với tất cả sức mạnh của họ. Tôi bay trong đợt thứ năm và đội hình chúng tôi nâng cao lên 19.000 bộ.
    Ngay khi vượt qua mũi Cực Nam của đảo Đài Loan, tôi nhìn thấy 9 oanh tạc cơ bay thẳng về phía hòn đảo. Hiển nhiên, chúng đang trên đường tấn công pho trường của chúng tôi. Chín phi công, trong đó có tôi, trước khi cất cánh đã được chỉ thị chống trả bất kì phi cơ nào của địch quân phát hiện trên không trình đến Lữ Tống, trong khi các phi công khác cứ tiếp tục bay như kế hoạch đã định.
    Chúng tôi tách khỏi đội hình chính và bổ nhào xuống các oanh tạc cơ địch. Trong hai giây, tôi đã nằm trong vị trí khai hoả, và tiến sát vào nhằm tỉa chiếc oanh tạc cơ dẫn đầu. Sắp sửa ấn cò súng, tôi nhận ra đây là các oanh tạc cơ của Lục Quân Nhật Bản ! Tôi lắc cánh để báo hiệu cho các chiến đấu cơ khác. Tôi chửi thề. Không một nào ở bộ Tư lệnh Lục Quân trong khu vực thèm để ý đến việc phối hợp với các phi vụ của hải quân. Bọn ngu đần ngồi trong mấy chiếc oanh tạc cơ nầy đang thực hiện một phi vụ huấn luyện thường lệ.
    Chúng tôi kết hợp vào đội hình lúc bay qua quần đảo Batan, nằm giữa đường Đài Loan và Lữ Tống. Quần đảo nầy do quân nhảy dù Nhật vừa chiếm đóng, nhằm để đón nhận một phi cơ nào đó của chúng tôi bắt buộc phải đáp xuống trên đường từ Philippine trở về. Và rồi quần đảo Philippine hiện ra trong tầm mắt, một màu xanh xậm nổi bật giữa màu xanh lơ của đại dương. Bờ biển trãi dài phía dưới chúng tôi, ngoạn mục và hiền hoà. Không một chiếc phi cơ địch nào xuất hiện trên bầu trời. Bấy giờ chúng tôi bỏ Hải Nam lại sau lưng, và vào lúc 1 giờ 35, chúng tôi trực chỉ phi trường Clark.
    Quang cảnh trước mắt không thể nào tin nổi. Thay vì đụng đầu với một bầy chiến đấu cơ đông như ruồi, bu lấy chúng tôi, chúng tôi nhìn xuống và thấy khoảng 60 oanh tạc cơ và chiến đấu cơ địch đang nằm xếp hàng ngay dọc theo phi đạo như một đàn vịt. Chúng tôi khó có thể hiểu được thái độ của đối phương. Trân Châu Cảng vừa bị tấn công cách đây năm giờ, chắc chắn họ đã nhận được tin tức và lẽ ra họ phải đề phòng một cuộc tấn công khác nhằm vào phi trường nầy.
    Chúng tôi vẫn không tin rằng người Mỹ không tung chiến đấu cơ lên để chờ đón chúng tôi. Cuối cùng, sau nhiều lần đảo quanh phi trường, tôi phát hiện 5 chiến đấu cơ địch đang bay trên cao độ khoảng 15.000 bộ phía trên chúng tôi khoảng 7.000 bộ. Tức khắc, chúng tôi nhả thùng xăng phụ và chuẩn bị hoả lực.
    Tuy nhiên, phi công địch từ chối tấn công và vẫn giữ độ cao như cũ. Thật lạ lùng. 5 chiến đấu cơ Mỹ bay vòng quanh trên cao độ 15.000 bộ trong lúc chúng tôi bay vòng quanh phía dưới. Chúng tôi vẫn chưa được lệnh tấn công vì phải chờ các oanh tạc cơ của chúng tôi đến.
    Lúc 1 giờ 45, từ phía Bắc, 27 oanh tạc cơ cùng các chiến đấu cơ Zero hộ tống lướt thẳng đến mục tiêu dội bom. Cuộc oanh tạc hoàn hảo. Dây bom rời khỏi bụng phi cơ, trãi lên mục tiêu thật chính xác, sự chính xác mà tôi chưa từng thấy trong suốt cuộc chiến. Cả căn cứ không quân địch như bật tung với những tiếng nổ. Mảnh của phi cơ, nhà chứa phi cơ và các cơ sở khác bay tứ phía. Những cột lửa và khói vĩ đại cuồn cuộn bốc lên.
    Nhiệm vụ hoàn tất, các oanh tạc cơ đảo cánh và bắt đầi bay trở về. Chúng tôi bay theo để hộ tống khoảng mười phút rồi quay lại phi trường Clark đang bao trùm trong khói lửa. Chúng tôi bay vòng ở độ cao 13.000 bộ, vẫn không gặp sự chống đối nào, và nhận được lịnh xạ kích.
    Với hai đồng đội ở hai bên, tôi chúi thẳng xuống mặt đất, mục tiêu được chọn là hai oanh tạc cơ B.17 còn nguyên vẹn trên sân bay. Tất cả 3 chiến đấu cơ cùng khai hoả vào hai chiếc phi cơ khổng lồ, sà sát mặt đất và lướt thẳng lên.

    Năm chiến đấu cơ địch nhảy xổ vào chúng tôi. Đó là loại P.40 mà tôi chưa từng đụng độ bao giờ. Tôi cho phi cơ rớt theo hình trôn ốc rồi vượt lên thình lình, thoát khỏi tay kẻ thù. 5 phi cơ địch phân tán tức khắc. 4 chiếc chui vào các cột khói đen bốc lên từ mặt đất và biến mất.
    Chiếc thứ năm rơi theo hình trôn ốc về phía trái, một lỗi lầm. Nếu bay theo đồng bọn, nó đã có thể thoát thân an toàn. Lập tức, tôi vung ngang và lướt thẳng lên chiếc P.40 từ phía dưới. Phi cơ địch lấy thăng bằng và bắt đầu vượt lên cao, bụng nó phơi bày trước mắt tôi, cách 200 thước. Một loạt đạn đại liên và đại bác xuyên qua buồng lái, thổi bay mái che của chiếc phi cơ. Nó lảo đảo trong không khí, rồi rơi xuống và đâm đầu xuống đất.
    Đó là nạn nhận thứ ba của tôi và cũng là phi cơ Hoa Kỳ đầu tiên bị bắn rơi ở Philippine.
    Sau đó, tôi khụng đụng đầu một đối thủ nào nữa, nhưng tôi nhìn thấy những đồng đội khác đang quần thảo với một nhóm phi cơ địch. Gần nữa đêm hôm đó, chúng tôi trở lại Tainan với báo cáo: 9 phi cơ địch bị bắn rơi, 35 chiếc bị hủy diệt trên mặt đất. Súng cao xạ của phi trường Clark hạ một chiếc Zero và 4 chiếc khác rơi trên đường về căn cứ, nhưng không một chiếc nào bị hạ trong không chiến.[/spoil]

    Chương VIII[spoil]

    Ngày thứ hai của cuộc chiến, ngày 9 tháng 12 năm 1941, chúng tôi phải đương đầu với những trận đánh tồi tệ nhứt, những trận mưa bão. Chúng đã gây thiệt hại trầm trọng cho các đơn vị không quân của chúng tôi.
    Ngày thứ ba của cuộc chiến, một ngày tôi không bao giờ quên. Đó là ngày tôi bắn rơi oanh tạc cơ B.17 đầu tiên, và cũng là pháo đài bay đầu tiên của Mỹ mất trong khi chiến đấu. Sau chiến tranh, tôi biết được viên phi công của chiếc oanh tạc cơ nầy là đại úy Colin P. Kelly Jr, một vị anh hùng không quân Hoa Kỳ.
    Vào ngày hôm đó, chúng tôi bay bao che cho một đoàn công voa Nhựt chuyển quân đổ bộlên Vigan, bao gồm một tuần dương hạm hạng nhẹ 4.000 tấn và 6 khu trục hạm hộ tống 4 chuyển vận hạm ( Sau nầy chúng tôi được biết người Mỹ lại sai lầm khi cho rằng đoàn công voa nầy bao gồm thiết giáp hạm Haruna 29.000 tấn, 6 tuần dương hạm, 10 khu trục hạm và 15 đến 20 chuyển vận hạm).
    Trong khi bay bao che ở cao độ 18.000 bộ, tôi nhận thấy có 3 tia nước bắn lên gần đoàn công voa. Thật ra đây là 3 cột nước do 3 trái bom gây ra, nhưng vì bay quá cao nên chúng tôi không nhìn thấy rõ. (không chiếc tàu nào bị trúng bom, nhưng theo người Mỹ thì chiếc thiết giáp hạm “tưởng tượng” bị trúng bom trực tiếp, và chìm lĩm, chỉ còn thấy khói và dầu trên mặt nước.).
    Mặc dù được các chiến đấu cơ chúng tôi bao che kỷ lưỡng như vậy, đối phương vẫn tấn công được. Điều nầy khiến tất cả chúng tôi đều bực tức. Ngay cả bóng dáng oanh tạc cơ địch, chúng tôi vẫn không nhìn thấy. Một vài giây sau khi nhìn ngang liếc dọc, tôi thấy một chiếc B.17 lẻ loi, bay cách 6.000 bộ phía trên chúng tôi, trực chỉ về hướng Nam. Tôi báo động cho các phi công bạn biết và đảo mắt tìm kiếm phi cơ khác của địch, vì chúng tôi chưa từng nghe nói một oanh tạc cơ lâm trận mà không có chiến đấu cơ hộ tống bao giờ. Nhưng không ngờ việc nầy thật sự xảy ra. Chiếc B.17 nầy đã thực hiện phi vụ tấn công đơn độc. Chắc chắn viên phi công có thừa can đảm.
    Chiến đấu cơ dẫn đầu của chúng tôi báo hiệu truy đuổi, chỉ để lại ba chiếc phía sau bao che cho đoàn tàu chuyển vận. Chớp mắt, chúng tôi đuổi kịp chiếc B.17 và còn cách phi trường Clark khoảng 50 dặm, chúng tôi dàn đội hình khai hoả. Ngay lúc đó, 3 chiếc Zero khác đột nhiên xuất hiện và lướt ngang đường bay của chiếc B.17. Đây là 3 chiến đấu cơ của phi đoàn Kaohsiung tham dự cuộc tấn công phi trường Nichols vào sáng sớm nầy. Cả 3 cùng khai hoả, nhưng chiếc oanh tạc cơ vẫn lướt đi an toàn.
    Bảy chiến đấu cơ chúng tôi nhập với 3 chiến đấu cơ ở phi đoàn Kaohsiung. Mười chiến đấu cơ khó có thể tạo ra một cuộc tấn công nhịp nhàng vào một oanh tạc cơ. Để tránh né hoặc bắn lầm lẫn nhau, thay vì tấn công một lượt, chúng tôi bay thành hàng dọc chiếc nầy khai hoả rồi vung ra ngoài để nhường cho chiếc kế tiếp. Chúng tôi sửng sốt, vì không một viên đạn đại liên hoặc đại bác nào trúng chiếc oanh tạc cơ.
    Đây là lần đầu tiên chúng tôi chạm mặt với một chiếc B.17, và kích thước bất thường cũng như tốc độ mau lẹ lạ lùng của nó làm cho chúng tôi ước lượng tầm súng sai lầm. May mắn, xạ thủ địch cũng tệ không thua chúng tôi.
    Sau đó, tôi nhận thấy chúng tôi đang ở trên phi trường Clark. Chắc chắn viên phi công B.17 đã gọi chiến đấu cơ Mỹ giúp đỡ. Chúng tôi phải ra tay nhanh chóng. Tôi quyết định đánh cận tập từ phía sau. Tôi lướt đến trong khi các họng súng của chiếc oanh tạc cơ rực lửa nhưng không trúng tôi. Tôi lướt thêm nữa và khai hoả. Những mảnh kim khí bay tung ra từ cánh phải của chiếc B.17. Tôi lãng ra và chiếc Zero từ phía sau tôi xông tới, rót thêm một loạt đạn vô đối thủ. Tuy nhiên khi chiếc Zero khác nối đuôi theo, phi cơ địch chúi mũi cố đáp xuống phi trường Clark với đôi cánh đã lệch hẳn. Tôi chúi theo sau chiếc pháo đài bay què quặt, giữ khoảng cách nhiều trăm thước, và chụp hình với chiếc máy ảnh Leica. Lúc cách mặt đất khoảng 7.000 bộ, 3 người nhảy dù ra khỏi phi cơ, và chiếc B.17 biến mất vào một đám mây.
    Sau đó, chúng tôi nghe người Mỹ loan tin các phi công chiến đấu cơ chúng tôi đã bắn hạ mấy người nhảy dù ra khỏi máy bay của họ. Tin nầy chỉ có tánh cách tuyên truyền. Tôi là phi công duy nhứt bay gần chiếc oanh tạc cơ lúc đó và tôi không hề bắn ra một viên đạn nào cả. Vật duy nhứt mà tôi bắm là chiếc máy chụp hình Leica của tôi.
    Không một phi công Nhựt nào khác nhìn thấy chiếc B.17 rơi, vì vậy “chiến công” bị phủ nhận vào thời gian đó.
    Xế trưa hôm đó, trở về Đài Loan, chúng tôi nhận thấy cánh của 2 chiến đấu cơ Zero đầy vết đạn đại liên do các xạ thủ chiếc B.17 gây ra. Và mười ba năm sau nầy, tôi có dịp gặp đại tá không quân Hoa Kỳ Frank Kurtz ở Đông Kinh, ông ta đã nói với tôi:
    “ Ngày Colin bị bắn rơi, tôi đang ở trên đài kiểm soát của phi trường Clark. Tôi nhìn thấy phi cơ của ông ta bay đến và anh đang bay bên phải, phía trên, trong lúc ông ta cố đáp xuống. Ba chiếc dù rơi xuyên qua mây mù, tôi thấy hình như ở cao độ 2.500 bộ. Rồi năm cây dù nữa bung ra. Colin, dĩ nhiên, không rời khỏi phi cơ.”
    Chúng tôi tiếp tục các phi xuất thường lệ từ Đài Loan đến Philippine trong mười ngày kế tiếp và sau đó nhận lịnh thuyên chuyển đến căn cứ không quân Jolo ở quần đảo Sulu, nằm giữa Mindano và Borneo, cách phi trường Tainan 1.200 dặm đường bay. Ngày 30 tháng 12, tôi cất cánh vào lúc 9 giờ sáng với 26 chiến đấu cơ Zero khác, bay không ngưng nghỉ đến nhiệm sở mới. Nơi đây mạng lịnh đang chờ sẵn chúng tôi, và chúng tôi thực hiện một phi vụ 270 dặm xa hơn về phía Nam đến Tarakan, nằm cuối bờ biển phía Đông Borneo. Phi vụ không xảy ra điều gì quan trọng, chúng tôi không gặp một phi cơ địch nào.
    Phản công của đối phương đối với các đơn vị chúng tôi được tung ra lần đầu tiên vào tháng Giêng. Gần nửa đêm, một oanh tạc cơ B.17 đơn độc bất ngờ oanh tạc Tarakan. Một dây bom rơi xuống những doanh trại của công binh kiến tạo tại đây, sát hại hơn 100 người cùng gây bị thương cho nhiều người khác, và nhiều toà nhà sụp đỗ.
    Không một chiếc Zero nào có thể cất cánh kịp thời, bởi vì phi trường Tarakan là một trong những phi trường xấu nhứt của quần đảo Đông Indies. Ngay cả những hoạt động ban ngày, chúng tôi phải cất cánh và đáp xuống trên phi đạo ngập bùn. Trong thời gian chúng tôi đến đây, hai chiếc Zero đã bị thiệt hại do phi đạo gây ra.
    Bị oanh tạc chỉ huy trưởng căn cứ phẫn nộ, ra lịnh cho tôi và trung sỹ Kuniyoshi Tanaka cất cánh để bay tuần tiểu trên phi trường. Tanaka từng bắn hạ 12 phi cơ địch ở Trung Hoa, và 8 chiếc khác trong cuộc chiến Thái Bình Dương.
    Bay đêm rất nguy hiểm và khó khăn, vì trong thời gian đó chiến đấu cơ Zero chưa được trang bị dụng cụ bay đêm, cả tôi lẫn Tanaka không biết phải làm gì nếu bị oanh tạc cơ địch tấn công trước. May cho chúng tôi, và cho căn cứ, chúng tôi không bị phá rầy trở lại.
    Vào ngày 21 tháng 1, một trong những đoàn công voa của chúng tôi rời hải cảng Tarakan mang quân đổ bộ đến Balikpapan ở Borneo. Bộ Chỉ Huy Tối Cao ra lịnh cho nhóm chúng tôi cung cấp không yểm, nhưng chúng tôi chỉ có thể thực hiện một cuộc tuần thám trên đoàn công voa mà thôi.
    Thay vì được cung cấp một số lượng chiến đấu cơ to tát theo nhu cầu xử dụng của chúng tôi, vào những tháng đầu năm 1942, chúng tôi chỉ có trong tay không hơn 70 chiến đấu cơ Zero cho toàn thể khu vực Đông Indies rộng lớn. Và các chiến đấu cơ lại còn bão trì, sửa chữa sau 150 giờ bay do đó chỉ còn trung bình 30 chiến đấu cơ khả dụng.
    Giữa tháng Giêng, oanh tạc cơ B.17 bắt đầu được đưa đến căn cứ Malang của đối phương ở Java, và tung ra các cuộc tấn công sơ khởi nhắm vào lực lượng trên bộ của chúng tôi ở Philippine và Đông Indies. Loại phi cơ nầy làm bộ binh điêu đứng, nhưng vì con số ít ỏi nên không thể ngăn nổi các cuộc hành quân của chúng tôi.

    Vào mùa xuân năm 1942, những oanh tạc cơ B.17 mới với các pháo tháp phía sau đuôi, xuất hiện trên chiến trường. Chúng tôi sớm tìm ra yếu điểm của loại phi cơ nầy để tấn công.
    Chiều ngày 24 tháng Giêng, Tanaka trở về phi trường với hai đồng đội sau một cuộc tuần thám ở Kalikpapan. Cả ba phi công đều kiệt sức, tuy không ai bị thương. Tanaka báo cáo đã đụng độ với 8 pháo đài bay B.17 vào buổi sáng và cuộc tấn công của hắn không có kết quả. Tanaka cho biết có nhìn thấy đạn đại liên và đại bác của hắn trúng vào thân phi cơ địch rõ ràng, nhưng chiếc oanh tạc cơ không rơi. Hắn có vẻ chán nán: “ Mấy chiếc oanh tạc cơ khốn nạn nầy thật khó ăn khi chúng bay trong đội hình phòng vệ.”
    Tanaka tiếp tục kể việc hắn đã tấn công khiến cho các oanh tạc cơ địch thả bom không chính xác xuống đoàn công voa phía dưới ra sao. Chỉ có một chiếc tàu dầu khổng lồ trúng bom và, khi hắn rời Balikpapan để quay về, lửa vẫn còn bốc cháy dữ dội.
    Ngày hôm sau, tôi lại thực hiện cuộc tuần thám ở Balikpapan với một phi cơ khác do trung sỹ Sadao Uehara lái. Cả 2 chiếc Zero của chúng tôi là tất cả những gì còn lại mà căn cứ có thể tung ra giúp đoàn công voa, các chiến đấu cơ khác đều được cắt đặt vào nhiệm vụ riêng. Biết được Tanaka chạm địch ở cao độ 20.000 bộ, chúng tôi bay cao hơn hắn 2.000 bộ, về phía dưới, chiếc tàu dầu trúng bom ngày hôm trước vẫn còn bốc cháy như một cây đuốc.
    Khoảng 10 giờ, nhiều chấm đen nhẻ xuất hiện trên nền trời, tiến đến Java. Các chấm đen lớn mau dần cho đến khi hai nhóm phi cơ, mỗi nhóm 4 chiếc hiện ra rõ ràng. Các pháo đài bay, bay sát cánh nhau, giống như Tanaka đã mô tả ngày hôm qua. Nhóm phi cơ sau bay cao hơn nhóm dẫn đầu, và khi chúng tôi lướt đến, nhóm thứ hai bau sát vào nhau hơn, lập thành một “cái hộp phòng vệ”.
    Tám chiếc B.17 bay ngang phía dưới tôi nửa dặm. Tôi lộn lại, với Uehara theo sát bên một cánh, và chúi xuống tấn công. Địch quân vẫn còn nằm ngoài tầm súng của tôi, nhưng tôi cũng quất một quả đại bác khi lướt qua. Tôi nhìn thấy những trái bom từ bụng oanh tạc cơ rơi xuống đoàn công voa phía dưới. Tôi lộn nhào nhiều vòng, lướt thẳng lên, và nhìn thấy những cột nước tung cao. Không trái bom nào trúng mục tiêu. Bầu trời trong sáng. Tôi quày phi cơ lại, cách 500 thước phía trên nhóm oanh tạc cơ bay phía sau, và chúi xuống hết tốc lực trong khi mọi loại súng đều khai hoả. Vô hiệu. Quanh tôi hầu như không nơi nào là không có bóng dáng phi cơ địch. Tôi chúi xuống trót lọt và bắt đầu vượt lên để chúi xuống tấn công nữa.
    Chúi xuống, lộn nhiều vòng, tập trung hoả lực vào một oanh tạc cơ. Lần nầy tôi đã túm được đối thủ. Tôi thấy những viên đạn bùng nổ, những đốm đỏ và đen túa dọc theo thân phi cơ. Chắc chắn nó sẽ rớt ngay lập tức. Nhưng không có gì xảy ra. Không có lửa, không có khói… chiếc B.17 vẫn tiếp tục bay trong đội hình.
    Tôi đảo vòng vượt lên và lộn lại tấn công hiệp thứ ba. Lần nầy tôi nhắm vào chiếc oanh tạc cơ trúng đạn của tôi trước đó. Tôi nhìn thấy những viên đạn bùng nổ và những mảnh kim khí túa ra từ cánh và thân phi cơ địch. Tôi lướt ngang qua, bung ra một vòng thật rộng, quày trở lại và vượt lên cao.
    Chiếc B.17 vẫn còn trong đội hình. Không lửa, không khói. Mỗi lần tôi chúi xuống tấn công, mọi khẩu súng của địch thủ đều khai hoả dữ dội, nhưng cũng may đội hình chặt chẽ đã giới hạn hoả lực rất nhiều. Chiếc Zero của tôi nguyên vẹn. Tôi lại tấn công thêm hai lần nữa với sự hổ trợ của Uehara, và mỗi lần chúng tôi đều nhìn thấy đạn đại liên và đại bác nện vào thân phi cơ địch, nhưng không thấm tháp gì hết.

    Chúng tôi vừa hoàn tất đợt tấn công thứ sáu, tám oanh tạc cơ tẻ ra làm hai, một đảo qua trái, một đảo qua phải. Tôi gia tăng hết tốc lực đuổi theo nhóm có chiếc B.17 bị hư hại và rơi hẳn lại phía sau ba chiếc kia. Với tốc lực tối đa, tôi lướt đến trong khoảng 50 thước, và bóp mạnh cò súng xuống. Bao nhiêu đạn đại bác và đại liên cuối cùng tôi đều rót hết vào đối thủ què quặt. Một bụm khói đen bốc lên, chiếc oanh tạc cơ chúi mũi xuống và biến mất trong đám mây phía dưới.
    Trở về Tarakan, tôi báo cáo chi tiết phi vụ cho thượng cấp của tôi là Trung úy Singo. Các phi công khác bu quanh để nghe tôi kể lại quang cảnh của trận đụng độ và tất cả đều cho rằng tôi trở về được là một phép lạ, sau khi phải đối đầu với hoả lực tập trung của 8 pháo đài bay. Nhân viên dưới mặt đất chỉ tìm thấy ba lổ đạn gần đầu cánh chiếc chiến đấu cơ của tôi. Hai ngày sau, một phi cơ thám thính Nhựt báo cáo có một chiếc B.17 đã vỡ tan khi cố đáp xuống một hòn đảo nhỏ nằm Balikpapan và Surabaya[/spoil]



    Chương IX[spoil]

    Nhiều năm sau chiến tranh, tôi có đọc quyển “Lịch sử những cuộc hành quân của hải quân trong thời Đệ Nhị Thế Chiến” của đề đốc Samuel Eliot Morison. Morison chứng tỏ là một sử gia có tài và làm việc của ông đã cung cấp một sử liệu đồ sộ. Tuy nhiên, đáng tiếc là có một đoạn lịch sử đặt biệt liên quan đến cuộc chiến trong sách nầy ít dựa vào căn bản của sự thật. Tôi muốn nói đến mặt trận quần đảo Đông Indies thuộc Hoà Lan, mặt trận đã mang đến chiến thắng cho chúng tôi, nhứt là việc đánh chiếm pháo đài quan trọng Java. Theo quan điểm của Đề đốc Morison, sự chiến thắng của chúng tôi ở mặt trận nầy là “do núp lén và sức mạnh, hơn là do sự khéo léo”. Một điều đáng lưu ý trong cuộc chiến bại của các hạm đội Đồng Minh và Hoà Lan vào tháng Hai năm 1942, là không chỉ một Morison mà còn nhiều sử gia tăm tiếng của Hoa Kỳ đều bỏ qua, không đề cập tới các chi tiết của trận không chiến lớn nhất mặt trận Thái Bình Dương trong tài liệu của họ.
    Qua vai trò một hạ sỹ quan phi công, dù đã tham dự trực tiếp vào trận đánh đó, cái nhìn của tôi dĩ nhiên sẽ có nhiều giới hạn hơn cái nhìn của những sử gia “ôm đồm” cả một cuộc chiến rộng lớn trong tay. Tuy nhiên, sự góp phần cá nhân của tôi về mặt trận tháng Hai nầy có thể giúp soi sáng sự tìm hiểu những chi tiết liên quan đến cuộc chiến Thái Bình Dương.
    Mặt trận Java kết thúc hẳn vào ngày 26 tháng hai với sự chiến bại của các lực lượng trên biển của Đồng Minh trong khu vực. Yếu tố quan trọng gây ra cuộc chiến bại nầy là các chiến hạm của Đồng Minh thiếu sự bao che về mặt trên không, vì trước đó, vào ngày 15 tháng hai, các đơn vị không quân của họ đều bị tiêu diệt trong một cuộc không chiến dữ dội và lớn nhất ở Surabaya, với tổng số gần 80 chiến đấu cơ của cả hai phía tham dự. Nhưng không có bài tường thuật nào của người Mỹ về cuộc chiến, mà tôi đã từng đọc qua, đề cập đến trận không chiến nầy.
    Vào ngày 4 tháng Hai năm 1942, tôi bay đến phi trường Balikpapan với nhiều phi công Zero khác. Ngày hôm đó, tôi thực hiện các phi vụ tuần tiễu trong khu vực . Niệm vụ khó khăn, vì hoạt động không quân địch đã gia tăng mạnh mẽ.
    Tuần lể kế đó, các phi cơ thám thính của chúng tôi báo cáo rằng địch quân đã tập trung trong trong khu vực Surabaya một số lượng chiến đấu cơ từ 50 đến 60 chiếc, loại Curtiss P.36 Mohawk, Curtiss P.40 Tomahawk và Brewster F.2A Buffalo, nhằm chống lại cuộc đổ bộ Java của chúng tôi.
    Bộ Tư Lệnh Tối Cao Nhựt ra lệnh cho tất cả các chiến đấu cơ khả dụng, đóng tại các căn cứ trên đất liền nằm trong khu vực mặt trận, tập trung về Balikpapan vừa mới chiếm giữ. Vào buổi sáng ngày 19 tháng Hai năm 1942, 23 chiến đấu cơ Zero thuộc các đơn vị không quân ở Kaohsiung và Tainan đều cất cánh và qui tụ về Surabaya.

    Đây là cơ hội đầu tiên, theo chúng tôi đoán biết, chúng tôi sẽ được đối đầu với các loại chiến đấu cơ mạnh mẽ của địch quân. Khi bay vô không phận Surabaya vào lúc 11 giờ 30, ở cao độ 16.000 bộ, chúng tôi đụng đầu với khoảng 50 chiến đấu cơ Đồng Minh, đang bay ở cao độ 10.000 bộ và xoay vòng trên thành phố, ngược chiều kim đồng hồ, theo đội hình hàng dọc. Như vậy, lực lượng đối phương nhiều hơn gấp đôi chúng tôi.
    Chúng tôi thả bình xăng phụ và vượt xuống, ngang hàng với các địch thủ. Các chiến đấu cơ Đồng Minh phá vỡ đội hình vòng tròn và gia tăng hết tốc lực hướng về phía chúng tôi. Họ sẵn sàng và nôn nóng đánh nhau, khác xa các chiến đấu cơ Hoa Kỳ mà chúng tôi đã đối đầu ở phi trường Clark vào ngày 8 tháng 12 năm 1941.
    Không đầy một phút, hai bên đã dàn xong các đội hình qui cũ và bước vào một trận đấu ác liệt.
    Tôi nhìn thấy một chiếc P.36 đang gầm thét xông đến, rồi nhích cánh lộn thật mau về phía bên trái chờ phản ứng của đối thủ. Ngu dại thay, đối thủ vẫn duy trì hướng bay cũ. Tôi lập tức xoay sang phải thật ngặt, lấy thăng bằng, và lướt thẳng vào đuôi của chiếc P.36 với tên phi công đang sửng sốt.
    Liếc nhìn lại phía sau thấy trống không, tôi thâu ngắn khoảng cách giữa tôi với viên phi công địch. Hắn lộn về bên trái, nhưng với một cái nhích nhẹ ở cần kiểm soát, tôi theo sát đuôi hắn. Còn cách 50 thước, tôi thổi vừa đạn đại liên vừa đạn đại bác ra. Tức khắc, cánh phải của đối thủ long ra, bay trong không khí, rồi tới cánh bên trái cũng bị xé đứt. Xoay như chong chóng, chiếc P.36 chúi xuống vỡ tan dưới mặt đất cùng với viên phi công.
    Tôi đảo một vòng thật rộng để vượt lên, và trở về đội hình chánh. Có ít nhất 6 phi cơ đang rơi xuống như những bó đuốc. Bóng màu ô liu của một chiếc P.36 đang xoay tít hướng về phía tôi. Tôi quay lại để chặn đầu, nhưng một chiếc Zero khác vượt thẳng từ dưới lên, chụp chiếc P.36 bằng một tràng đại bác, rồi lách ra như chớp trong khi chiếc phi cơ Hoà Lan nổ tung.
    Phía bên trái một chiếc P.40 theo sát đuôi một chiếc Zero đang tháo chạy. Tôi cấp tốc xoay lại nhằm chận đứng chiến đấu cơ địch. Nhưng hành động của tôi thừa thải, chiếc Zero đã quất ngược mũi lên, lộn nhào về phía sau, ở trên chiếc P.40 một chút, rồi đạn đại liên và đại bác nện cùng lúc. Chiếc P.40 biến thành cây đuốc.
    Cách đó không xa, một chiếc P.40 khác loé sáng, kéo một vệt lửa dài gấp 3 lần thân phi cơ, và một chiếc P.36 lảo đảo như một chiếc lá trên không, viên phi công đã gục chết trên tay lái.
    Phía dưới tôi một phi cơ dẫn đường không võ trang của chúng tôi đang bị 3 chiến đấu cơ của Hoà Lan rượt đuổi. Viên phi công Nhật đang cuống cuồng lẫn trốn.
    Một lần nữa, tôi lại lướt đến quá chậm. Một chiếc Zero hùng hổ bổ nhào xuống và đạn đại bác của nó phá tung bồn chứa xăng của chiếc chiến đấu cơ Hoà Lan bay đầu tiên. Rồi vừa vượt lên chiếc Zero vừa “đấm” vô bụng chiếc P.36 thứ nhì, phi cơ địch đứt hẳn một bên cánh ngay khi chiếc thứ ba lộn vòng trở lại để chận đầu chiếc Zero. Quá muộn buồng lái của chiếc P.36 nầy cũng ăn đạn và vỡ tan tức khắc.
    Chiếc Zero lướt dọc theo phi cơ của tôi, viên phi công đưa tay vẫy và cười rạng rỡ rồi bay đi hộ tống chiếc phi cơ quan sát ra khỏi khu vực.
    Một chiếc P.36 tháo chạy, lướt ngang phía trên tôi. Tôi gia tăng tốc lực cấp tốc, vượt thẳng lên và ấn cò đại bác. Quá sớm. Áp lực của vòng xoay để lấy lại thăng bằng của đối thủ đã làm lệch đường nhắm của tôi. Chiếc P.36 lộn nhào nhiều vòng về phía trái và chúi thẳng xuống đất. Tôi cắt thẳng vào đường xuống của phi cơ địch và ấm cò súng. Một vệt khói màu đen kéo lê thật dài. Tôi bồi thêm hai viên đại bác nữa, và lãng ra ngoài khi cuộn lửa đỏ bao trùm cả thân chiếc chiến đấu cơ Hoà Lan nầy.
    Một chiếc Zero với hai sọc xanh kẻ trên thân phi cơ lướt ngang qua cách 200 thước trước mặt tôi. Không dấu hiệu nào báo trước, chiếc Zero nổ tung, lửa loà sáng. Trung úy Masao Asai, phi đội trường của chúng tôi thiệt mạng. Lúc đó tôi không hiểu lý do gây ra sự nổ tung nầy.
    Trở lên cao độ 8.000 bộ, tôi nhận thấy khoảng 20 chiến đấu cơ đang lượn vòng quanh trong đội hình. Một vài chiến đấu cơ Hoà Lan tồn tại chỉ còn là mấy chấm đen ở xa. Trận đánh đã kết thúc, sáu phút sau khi phát khởi.
    Thật kỳ lạ, với bầu trời không còn một chiếc phi cơ địch nào, các pháo khẩu phòng không của Hoà Lan vẫn im tiếng khi chúng tôi lượn vòng trên thành phố của họ, chờ đợi xem còn chiếc chiến đấu cơ Zero nào truy đuổi địch trở về hay không.
    Trong khi những chiến đấu cơ khác lượn vòng, tôi bay về phía trước, trên eo biển ngăn đôi Surabaya và đảo Madura… Nơi đây có một phi trường được ngụy trang cẩn thận. Tôi bay thật chậm, ghi toạ độ phi trường trên bản đồ, nằm ở mũi phía Tây Madura. Chưa ai báo cáo về phi trường bí mật nầy, tin tức của tôi chắc chắn sẽ được cơ quan tình báo đón nhận một cách hài lòng.
    Khi bắt đầu bay lên cao để quày lại kết hợp vớu những chiến đấu cơ khác, tôi nhìn thấy một chiếc P.36 bay phía dưới sà thấp trên thành phố. Mục tiêu ngon lành. Viên phi công địch bay nhởn nhơ, không biết tôi đang đến gần.
    Sự nôn nóng của tôi làm mất cơ hội chiến thắng nhanh chóng. Cách tầm súng quá xa tôi đã vội vã bóp cò. Bị động, viên phi công Hoà Lan lập tức chúi mũi xuống, gia tăng hết tốc lực để tháo chạy. Chửi thề cho sự ngu dốt của mình, tôi cũng gia tăng tốc lực rượt theo.
    Khả năng bay của chiến đấu cơ P.36 kém hơn loại chiến đấu cơ Zero của chúng tôi. Zero mau lẹ hơn, nắm ưu thế về võ trang, và nhanh nhẹn khi nhào lộn hoặc vượt lên, nhưng lại rất yếu khi chúi xuống với tốc độ cao. Hơn nữa, tôi khai hoả quá sớm, cho phép chiếc P.36 kéo dài khoảng cách giữa hai phi cơ đến 200 thước. Tôi không thể tiến gần thêm được.
    Nếu ở một độ cao hơn nữa, chiếc P.36 chạy thoát dễ dàng bằng cách cứ bay chúi xuống. Nhưng lúc ấy mặt đất phía dưới đang dâng cao, bắt buộc viên phi công phải vượt lên. Bây giờ tôi có thể sử dụng ưu thế của chiếc Zero.
    Viên phi công Hoà Lan bay sà sát mặt đất theo hình chữ chi rất ngặt. Tôi cắt thẳng vào mỗi nét của chữ chi (giống như chữ Z), thâu hẹp khoảng cách lại. Hắn bay càng lúc càng thấp hơn, lách vào khoảng trống của cây cối và nhà cửa, vừa trốn chạy vừa hy vọng tôi bỏ cuộc vì thiếu nhiên liệu. Tôi hiểu điều nầy. Đánh ván cuối cùng, tôi gia tăng tốc lực khẩn cấp ngay khi căn cứ không Malang hiện ra trước tầm mắt. Cách 50 thước, tôi nhắm vào buồng lái của chiếc P.36 và ấn cò súng. Đại bác hết đạn nhưng hai tràng đại liên đã xé nát viên phi công. Chiếc chiến đấu cơ nhào xuống và vở tan trong một ruộng lúa.
    Tôi là phi công cuối cùng trở về kết hợp với những chiến đấu cơ khác đang bay quần trên cao độ 13.000 bộ cách phía Bắc Madura 20 dặm.
    Chúng tôi mất trung úy Asai và 2 phi công khác. Trở về Balikpapan, theo báo cáo của các phi công khác, có tất cả 40 chiến đấu cơ địch bị bắn hạ. Tôi luôn luôn trừ đi 30% báo cáo của bất kì nhóm phi công nào, một trận không chiến dữ dội, như trận không chiến vừa rồi chẳng hạn. Bởi lẻ, trong cảnh hỗn đấu, hai hoặc ba phi công có thể cùng xạ kích một chiếc phi cơ địch, và mỗi người đều cho rằng mình bắn hạ một chiếc. Tuy nhiên, lần nầy con số có vẻ ít sai sự thật, vì kể từ ngày đó chúng tôi hầu như không còn đụng độ với số lượng đông đảo các chiến đấu cơ Hoà Lan nữa. Đồng thời, phi trường bí mật ở Madura bị oanh tạc, tiêu diệt hầu hết số phi cơ P.40, Buffalo và Huricane còn lại trên mặt đất của địch quân.
    Đêm nào chúng tôi cũng đều nghe đài phát thanh của địch quân cho biết 5 hay 6 chiến đấu cơ bị bắn hạ trong ngày. Điều nầy sai sự thật, vì nhóm chúng tôi là nhóm duy nhất bay loại phi cơ Zero trong khu vực, và con số thiệt hại lớn nhất của chúng tôi chỉ xảy ra vào hai ngày 19 và 20 tháng hai, với 6 phi cơ và phi công bị bắn hạ.
    Và ngày 25, tám chiến đấu cơ Zero được lịnh rời khỏi Balikpapan bay đến “dọn dẹp” căn cứ không quân Malang nơi mà cơ quan tình báo tin rằng có nhiều oanh tạc cơ của Đồng Minh. Trên đường đến Malang, chúng tôi đụng đầu với một chiếc thủy phi cơ của Hoà Lan, và tôi đã tách khỏi đội hình để nhận nó xuống đại dương.
    Sau khi bay quần trên phi trường khoảng 6 phút, chúng tôi nhào xuống làm thịt ba chiếc B.17 đang đậu trên mặt đất. Hoả lực phòng không của địch dữ dội, xoi thủng nhiều chiến đấu cơ của chúng tôi, nhưng không lôi được chiếc nào xuống đất.
    Nạn nhân kế, cũng là nạn nhân chính thức thứ mười ba của tôi, xuất hiện vào ngày cuối của tháng hai.
    Tôi tham dự vào một phi vụ gồm 12 chiến đấu cơ hộ tống 12 oanh tạc cơ từ Malang đến tấn công cuộc di tản bắt buộc của Đồng Minh ra khỏi đảo Tjilatjap. Chiến hạm của địch quân rời khỏi hải cảng trước chúng tôi đến. Các chiến đấu cơ chúng tôi quần chầm chậm trong khi các oanh tạc cơ phóng hoả tiễn vào những cơ sở của địch quân trên hải cảng. Cuộc không kích suông sẽ và, sau khi hộ tống các oanh tạc cơ đến biển Java, chúng tôi quay lại Malang để lục lọi phi cơ địch.
    May mắn đến với chúng tôi hôm nay. Bốn chiến đấu cơ, thuộc loại mà tôi chưa từng đụng độ, bay quần trên không, gần một đám mây dầy đặc, ở cao độ 25.000 bộ. Khi tiến đến gần, tôi nhận ra đó là loại chiến đấu cơ Buffalo của Hoà Lan. Tôi không bao giờ hiểu nổi sự thiếu đề cao cảnh giác của mấy viên phi công Hoà Lan nầy, cho dù trước đó họ đã biết có sự hiện diện của chúng tôi.
    Chúng tôi tiến sát, và một chiếc Zero đốt ngay một chiếc Buffalo với một quả đại bác. Tôi xông đến chiến đấu cơ thứ nhì, lúc nó đang xoay thân. Đúng là nó muốn nghinh chiến. Tôi cắt thẳng vòng xoay của chiếc phi cơ, mũi hơi chếch để bay lãng ra, cách địch thủ 200 thước, và bóp cò súng liên tục. Nhiều viên đại bác trúng đầu máy chiếc Buffalo và khói bốc ra cuồn cuồn trôi ngược về sau. Hình như viên phi công cũng bị trúng đạn, vì chiếc phi cơ lộn nhào chầm chậm nhiều vòng cho đến khi biến mất trong mây. Nó khó có thể tồn tại trước cơn nóng dữ dội trong những đám mây đó.
    Nhiều tháng sau, chúng tôi chuyển hết căn cứ nầy đến căn cứ khác rồi trở về Philippine, và thực hiện các phi vụ yểm trợ cho Lục Quân lúc các hệ thống phòng thủ ở đảo Corregidor bị chọc thủng. Sau đo, đơn vị chúng tôi được chuyển đến đảo Bali ở Nam Dương (Indonesia) để chuẩn bị cho cuộc hành quân quan trọng kế tiếp về phía Nam.
    Tôi không bao giờ hiển nỗi những phúc trình của người Mỹ về các trận không chiến vào khoảng thời gian nầy. Đáng kinh ngạc hơn hết là một phúc trình của đại tá Jack D.Dale. Theo đó, phi đoàn chiến đấu cơ P.40 của ông đã hạ 71 phi cơ Nhựt và ông chỉ thiệt mất 9 chiếc trong suốt 45 ngày chiến đấu ở Java. Đây là một con số không thể tưởng tượng nổi, khi mà mất mát của chúng tôi vào giai đoạn nầy không hơn 10 chiếc Zero.
    Đại tá Dale còn mô tả cả đội hình mà ông đã xử dụng để chiến đấu, khiến cho chúng tôi nhìn 16 chiến đấu cơ của ông thành 48 chiếc. Đó là đội hình chữ S phân tán. Trong tất cả những trận đụng độ giữa tôi với các chiến đấu cơ P.40 của Hoa Kỳ, tôi chưa bao giờ thấy đội hình nào như đại tá Dale mô tả.
    Đại tá Dale cũng đã phúc trình: “Một đêm tôi chúng tôi có nghe đài phát thanh Đông Kinh loan báo: nhiều trăm chiến đấu cơ P.40 được tung ra tấn công đều khắp. Đó là những chiến đấu cơ Curtiss loại mới, võ trang đến 6 đại bác.” Katsutaro Kamiya, phụ trách phần phát thanh Anh Ngữ của đài Đông Kinh, nói với tôi rằng không bao giờ có loại tin tức như vậy được loan đi, bởi lẻ giản dị là đài chỉ loan đi những tin tức chiến thắng của Nhựt mà thôi.

    Các phúc trình của đại tá Dale cũng ít dựa vào sự thật như phúc trình “đánh chìm” thiết giáp hạm Haruna của đại úy Kelly.[/spoil]

    - - - Updated - - -

    Chương X[spoil]

    Đầu tháng ba năm 1942, 150 phi công của phi đoàn chiến đấu cơ Tainan, trú đóng rãi rác trong một khu vực rộng lớn ở Philippine và Nam Dương, được tập trung về Bali, thuộc quần đảo Đông Indies. Việc chiếm giữ toàn thể xứ Nam Dương hình như không còn xa nữa. Một đại đội bộ binh Nhật Bản là lực lượng quân sự trấn đóng cả hòn đảo Bali. Cuộc tấn công nầy được xem là sai lầm vì lực lượng chúng tôi nhận thấy người bản xứ tỏ ra thân hữu đối với người Nhựt.
    Bali giống như một thiên đường. Khí hậu tuyệt diệu, cảnh sắc địa phương tươi đẹp. Tôi chưa từng thấy một nơi nào như vậy ở Thái Bình Dương.
    Thời gian nhàn rỗi của chúng tôi bỗng nhiên căng thẳng vì xảy ra cuộc xung đột giữa Lục quân và Hải quân. Nguyên do vào một buổi chiều, một chiếc B.17 xuất hiện và các xạ thủ phòng không trên đảo tài ba đến nỗi cuối cùng để cho chiếc phi cơ bay mất. Một phi công nóng tánh hét vang: “ Đ.M, mấy thằng chó đẻ nầy bắn cái gì vậy?” Sự giận dữ nầy là do lúc ấy tất cả các phi công chúng tôi đều xem loại pháo đài bay là những con mồi ngon lành nhất.
    Tuần lễ trôi qua, sự căng thẳng giữa phi công hải quân và quân phòng thủ gia tăng mạnh mẽ. Chúng tôi không có phi vụ chiến đấu nào trong giai đoạn nầy, do đó chúng tôi dễ sanh ra bực bội. Tình trạng nầy bùng vỡ vào một đêm khi trung sỹ Honda đánh nhau với hai binh sĩ bộ binh. Tôi can Honda, nhưng vô ích. Thêm nhiều binh sĩ khác ùa vào, Honda bất chấp. Vừa lúc ấy viên Trung úy bộ binh can thiệp, đuổi lính của ông ta về doanh trại. Không nói một lời nào với chúng tôi, nhưng tôi nghe ông ta chửi rủa: “Đồ ngu, các anh ở đây là để đánh với địch quân, không phải người cùng quê hương xứ sở. Những phi công nầy, mỗi người đều là một “Samurai”, họ không thích làm gì khác hơn là chiến đấu.”
    Sáng hôm sau viên trung úy bước vô căn phòng của chúng tôi. Trái với dự đoán của chúng tôi, ông ta mĩm cười nói: “Thưa quí vị, tôi hân hạnh báo tin cho qúi vị biết quân phòng ngự ở Banchung (Java) đã túm được một chiếc B.17 còn nguyên vẹn, có thể bay được.”
    Chúng tôi ồ lên vui vẽ: Một chiếc B.17 có thể bay được. Viên trung úy khoát tay: “ Không may, Đông Kinh đã ra lịnh gởi chiếc oanh tạc cơ nầy về Nhựt lập tức. Tin tức nầy tôi chỉ nhận được ngay khi chiếc B.17 cất cánh bay về quê nhàvào sáng nay.”
    Tiếng càu nhàu thất vọng nổi lên khi mọi người nghe tin cuối cùng nầy. Viên trung úy vội vã nói: “ Tuy nhiên tôi bảo đảm với quí vị là tôi sẽ cung cấp cho quí vị tin tức càng nhiều càng tốt về chiếc phi cơ bị bắt giữ nầy.”
    Một tuần lễ trôi qua, chúng tôi vẫn ở trên mặt đất. Ngay cả không khí yên bình ở Bali cũng đè nặng lên chúng tôi. Nếu ở hoàn cảnh khác, có lẽ chúng tôi sẽ vui hưởng sự nhàn rỗi nầy. Nhưng chúng tôi đến đây để chiến đấu. Nhiều năm nay chúng tôi đâu làm gì khác hơn là học hỏi để chiến đấu như thế nào, tất cả những gì chúng tôi muốn là được trả về không trung.
    Thế rồi một buổi sáng, một phi công chạy ùa vô chổ ở của chúng tôi với tin giựt gân. Thật là choáng váng! Đó là tin đồn, hình như chúng tôi sẽ được gởi về Nhựt Bản. Mọi người bắt đầu tính sổ thời gian ở hải ngoại của mình.
    Tôi cảm thấy, cũng như tất cả những người khác, một khi về quê hương thế nào tôi cũng sẽ được nghỉ phép. Tôi rời Nhật Bản tháng 5 năm 1938, và ngoài một năm nằm điều trị các vết thương, tính ra tôi đã ở được nước ngoài được 35 tháng. Khi nghĩ sẽ được gặp lại gia đình nỗi nhớ nhà trong tôi bỗng nhiên thống thiết. Tôi dành hết thì giờ vào mỗi buổi chiều để đọc thơ của má tôi và Fujiko. Họ viết dài dòng về buổi lể tưng bừng ở quê hương khi Tân Gia Ba rơi vài tay Nhựt, và những buổi lể chào mừng chiến thắng liên tục khác của chúng tôi. Cả nước Nhựt phấn khích với những cuộc chinh phục vũ bão của các lực lượng Nhật Bản, nhứt là về mặt trận trên không. Tôi mơ ước được gặp lại Fujiko, một cô gái đẹp nhứt trong đời tôi. Với mơ tưởng, và nghĩ rằng có thể nàng sẽ trở thành vợ của tôi, tôi cảm thấy tràn ngập hạnh phúc.
    Tin đồn biến thành sự thật. Vào ngày 12 tháng 3, thiếu tá phi công hải quân Tadashi Nakajima từ Nhựt đến, và cho biết ông sẽ thay thế đại úy Eijo Shingo trong chức vụ chỉ huy trưởng phi đoàn. “ Đại úy Shingo được hoán chuyển cùng với một số phi công .” Nakajima nói, “bây giờ tôi sẽ đọc danh sách những phi công được lịnh trở về Nhựt.”
    Mọi người im phăng phắc khi ông bắt đầu đọc. Người đầu tiên không phải là tôi, như tôi đã hy vọng. Người thứ hai, thứ ba cũng không. Tôi mất hết tin tưởng khi vị thiếu tá đọc qua hơn 70 tên. Tên tôi không có. Xúc động. Tôi không biết tại sao tên tôi lại bị loại ra khỏi danh sách, trong khi tôi ở nước ngoài lâu hơn mọi người khác.
    Sau đó, tôi bước đến vị chỉ huy trưởng và hỏi: “Thưa thiếu tá, tôi biết tên tôi không nằm trong số những phi công về quê hương. Xin phép thiếu tá, thiếu tá có thể cho tôi biết lý do tại sao không? Tôi không tin rằng tôi…”
    Thiếu tá Nakajima khoát tay chận lời tôi mỉm cười: “ Không, anh không về xứ với những người khác. Tôi cần anh đi với tôi, Sakai. Chúng ta sẽ đến một căn cứ không quân mới, nơi tốt nhất để đương đầu với đối phương. Đó là Rabaul, ở New Britain. Từ lâu tôi đã để ý, anh là một phi công tài ba nhứt của phi đoàn nầy, và anh sẽ bay chung với tôi. Hãy để cho mấy người khác đi bảo vệ quê hương.”
    Câu chuyện kết thúc. Dưới hệ thống chỉ huy của hải quân, tôi không dám hó hé nhiều hơn với vị chỉ huy trưởng. Tôi trở về doanh trại, buồn bã, tuyệt vọng. Nhưng nhiều tháng sau nầy tôi mới biết nhờ sự ưu ái mà thiếu tá Nakajima dành cho tôi, tôi mới còn sống sót. Tất cả những phi công về xứ đề được thuyên chuyển đến lực lượng Đặc Nhiệm Midway sau đó. Lực lượng nầy đã bị đối phương đánh tan vào ngày 5 tháng 6 năm 1942. Hầu hết những người rời khỏi Bali đều thiệt mạng.
    Nhiều tuần lễ kế tiếp, tôi sống trong tình trạng tinh thần tồi tệ chưa từng thấy. Tôi cảm thấy đau yếu, chán nãn, và tuyệt vọng.
    Nhiệm sở kế đó của chúng tôi, Rabaul, cách phía Đông Bali 2.500 dặm. Khoảng cách quá xa đối với sức bay của loại chiến đấu cơ Zero. Thay vì dy chuyển nhóm phi công chúng tôi bằng vận tải cơ hoặc thủy phi cơ, hay là bằng chiến hạm có tốc lực mau, chúng tôi đã khủng khiếp khi nhận thấy bị lùa như bầy súc vật xuống một chiếc tàu buôn nhỏ bé, cũ kỹ và suy nhược. Hơn 80 đứa chúng tôi được nhét vô chiếc tàu hôi hám, chạy khập khiểng trên mặt nước với tốc độ 12 hải lý một giờ nầy.
    “Lực lượng” bảo vệ chúng tôi chỉ đơn độc một chiếc tàu săn tiềm thủy đỉnh nhỏ bé 1.000 tấn.
    Chưa bao giờ tôi cảm thấy phơi lưng trước kẻ thù bằng lúc tôi ngồi trên chiếc tàu đáng sợ đó. Chúng tôi không thể hiểu nổi ý nghĩ của giới chỉ huy cao cấp trong việc nầy như thế nào. Chỉ cần một trái thủy lôi phóng đi từ một chiếc tiềm thủy đỉnh núp lén hoặc 1 trái bom 500 cân Anh thả xuống từ một chiếc oanh tạc cơ, chiếc tàu mỏng manh nầy sẽ tan thành hàng ngàn mảnh. Một việc không thể tin, nhưng mà có vẻ thật, rằng các vị chỉ huy của chúng tôi muốn thí mạng phân nữa phi công chiến đấu của cuộc chiến, đặt biệt là những phi công kinh nghiệm nhứt, bằng một cuộc hải hành khủng khiếp như thế. Bất mãn và rầu rĩ, tôi đâm ra xuống tinh thần và nhuốm bịnh. Tôi nằm mẹp trên giường nhỏ dưới tàu hầu hết chuyến đi hai tuần lễ từ Bali đến Rabaul.
    Cuộc hải hành đầy gian nan vất vả. Trời oi bức không thể chịu đựng nổi. Suốt cả tuần không ai khô ráo. Mồ hôi đổ ra như tắm. Mọi phi công đều lâm bịnh. Sau khi vượt qua đảo Timor, do lực lượng của chúng tôi chiếm đóng, chiếc tàu hộ tống quay trở về. Bấy giờ bịnh của tôi trở nên trầm trọng. Nhiều khi tôi cảm thấy đang hấp hối.
    Nhưng ngay cả sự khốn khổ tồi tệ nhứt, cũng có phần thưởng của nó. Ở bên cạnh tôi suốt chuyến đi là một trung úy trẻ tuổi, vừa được bổ nhiệm chỉ huy phân đội của tôi. Trung úy Junichi Sasai là một trong những người nổi bật nhất mà tôi đã gặp từ trước tới nay. Xuất thân từ Hàn Lâm Viện hải quân Nhật Bản, giữa ông ta và hạ sỹ quan hiển nhiên là có một sự ngăn cách. Theo hệ thống quân giai nghiêm ngặt của hải quân, ngay cả khi chúng tôi hấp hối đi nữa, ông ta cũng không cần phải bước vô hầm tầu hôi hám nầy. Tuy nhiên Sasai lại khác hẵn. Ông không chú ý đến “lề luật bất thành văn” của hải quân, theo đó, sỹ quan không được thân mật với thuộc cấp. Trong lúc mê sảng tôi la hét, mình mẫy ướt đẫm mồ hôi, hầm tàu chật hẹp xông lên mùi hôi hám khó chịu, Sasai vẫn ngồi bên cạnh giường, tận tâm chăm sóc tôi. Sự ưu ái của ông đã khiến bịnh tôi dần dần bình phục.
    Cuối cùng, chiếc tàu lướt vô hải cảng Rabaul, hải cảng chánh của quần đảo New Britain. Tôi nặng nhọc lê thân xuống cầu thang, bước lên bến tàu. Tôi không tin những gì đã nhìn thấy. Nếu Bali là một thiên đường, Rabaul là một địa ngục thật sự. Chúng tôi có một phi đạo nhỏ hẹp và lấm bụi để sử dụng. Đó là một phi đạo tồi nhứt mà tôi chưa từng thấy ở bất cứ nơi nào. Ngay phía sau phi đạo khốn khổ nầy là một ngọn núi lửa đầy doạ nạt, vươn cao 700 bộ trên bầu trời. Cứ một vài phút mặt đất rung chuyển, và núi lửa gầm lên hồi lâu rồi phun khói dày đặc, lẫn lộn chất phún thạch. Xa hơn nữa là một dãy núi màu xanh mét, trần trụi bóng cây.
    Ngay khi xuống tàu, nhóm phi công di chuyển ngay đến sân bay. Trên con đường lấm bụi, chân chúng tôi ngập sâu trong đá bọt và tro than do núi lửa gây ra. Sân bay hoang phế. Bụi và tro dâng cao trong không khí. Những tiếng càu nhàu đầy thất vọng khi các phi công nhận thấy nhiều chiến đấu cơ Claude, bộ phận hạ cánh cố định và buồng lái lộ thiên cỗ lỗ nằm giữa bãi đậu. Tất cả những thứ đó quá nhiều đối với tôi. Tôi phát đau trở lại và ngã quị xuống. Trung úy Sasai đưa tôi vô một bịnh xá chưa hoàn tất, nằm trên một ngọn đồi, cạnh sân bay.
    Sáng hôm sau, tiếng còi báo động không tập lôi tôi ra khỏi giấc ngủ thiêm thiếp. Qua cửa sổ tôi nhìn thấy 12 chiếc Maurader, oanh tạc cơ hai máy, sà thấp trên hải cảng thả nhiều trái bom ngay xuống chiếc Komaki Maru, chiếc tàu chở chúng tôi từ Bali đến đây. Thủy thủ đoàn chạy tán loạn lên bến tàu và nhảy xuống nước. Trong một vài phút chiếc tàu bốc cháy và chìm dần. Các oanh tạc cơ mang dầu hiện của Úc Đại Lợi, bấy giờ quay sang tấn công sân bay và các phi cơ đậu trên đó.
    Các oanh tạc cơ Maurader quay lại ba ngày liên tiếp, xạ kích tất cả những gì di động trên mặt đất. Các cuộc tấn công là những liều thuốc tốt nhất đối với tôi. Tôi xin bác sỹ cho tôi xuất viện ngay lập tức. Tôi muốn đặt đôi tay ngứa ngáy của tôi lên cần kiểm soát của một chiếc Zero trở lại. Vị bác sỹ cười: “Ở đây thêm vài bữa nữa, Sakai. Anh xuất viện để làm gì bây giờ? Không có một chiếc phi cơ nào cho anh bay đâu. Khi nào phi cơ đến tôi sẽ cho anh xuất viện.”
    Bốn ngày sau, gần bình phục hẳn, tôi rời bệnh viện. Với 19 phi công khác, tôi leo lên một chiếc thủy phi cơ 4 máy vừa bay đến vào buổi sáng hôm đó. Chúng tôi sẽ sớm được bay trở lại vì chiếc thủy phi cơ nầy cất cánh từ hàng không mẫu hạm Kasuga, chiếc tàu có nhiệm vụ chở 25 chiến đấu cơ Zero mới cho phi đoàn của chúng tôi. Nhưng các cuộc không thám và oanh tạc liên tục của đối phương đã ngăn trở Kasuga chạy vô Rabaul. Chiếc tàu phải đậu ở gần đảo Buka, cách xa đây 200 dặm, và cho thủy phi cơ chở chúng tôi đến đó nhận phi cơ.
    Hai giờ sau chúng tôi trở về Rabaul, cười đùa như bọn học trò với 25 chiến đấu cơ mới, tất cả đều được võ trang và sẵn sàng lâm trận. Tuy nhiên, một phi cơ thám thính của địch quân đã nhìn thấy các chiến đấu cơ mới của chúng tôi, và nó biến mất trước khi chúng tôi cất cánh. Rabaul trở nên yên tĩnh, ngoại trừ những cơn mưa phún thạch không lúc nào giảm bớt của ngọn núi lửa.
    Nhiều tuần lễ kế đó, các chiến đấu cơ và oanh tạc cơ Nhựt không ngớt được đưa đến Rabaul. Chúng tôi gom góp năng lực mớu cho cuộc tấn công đang xúc tiến, nhằm chống lại Úc Đại Lợi và hải cảng Moresby ở New Guinea. Các kế hoạch của Nhật Bản, như chúng tôi được nói cho biết, là đánh chiếm toàn khắp New Guinea.
    Đầu tháng tư, 30 phi công trong nhóm chúng tôi được thuyên chuyển đến một căn cứ không quân mới ở Lae, nằm trên bờ biển phía Đông New Guinea. Đại tá Masahisa Saito hướng dẫn chúng tôi đến căn cứ mới nầy.
    Vào ngày 8 tháng 4, với 8 phi công khác, tôi bay đến Lae. Khi bay quần trên phi trường, tôi không nhìn thấy đâu là nhà chứa phi cơ, cơ xưởng bảo trì, đài kiểm soát. Tất cả chỉ là một phi đạo nhỏ bé, dơ bẩn, và giống như sân đáp trên một chiếc hàng không mẫu hạm. Ba mặt của phi đạo bao quanh bởi dãy núi chớn chở của bán đảo Papuan. Mặt thứ tư, tức mặt tôi đang tiến đến, là đại dương bao la.
    Hai mươi mốt phi công khác đã đến đây trước, đứng chờ chúng tôi ở cuối phi đạo. Phi đạo dài 3.000 bộ, chạy từ góc phải của sườn núi xuống tận mé biển. Ngay cạnh bãi biển là một nhà chứa phi cơ nhỏ, đầy lổ đạn và mảnh bom. Ba vận tải cơ của Úc Đại Lợi nằm bừa bãi trong nhà chứa, và dụng cụ bị phá hủy rãi rác khắp nơi. Đây là vết tích do phi cơ chúng tôi gây ra trong cuộc đổ bổ một tháng trước đây
    Phi trường Lae được người Úc thiết lập để không vận đồ tiếp tế và quặng vàng lấy được ở mỏ Kokoda, nằm tận bên trong dãy núi Owen Stanley.
    Hải cảng ở đây cũng hoang tàn không thua sân bay. Một chiếc tàu buôn 500 tấn của Úc nằm trong bùn, gần cầu tàu, chỉ có cột buồm ló lên khỏi mặt nước. Tôi nhận thấy phi trường Lae tồi tệ hơn phi trường Rabaul hoặc ngay cả những phi trường tiền phương ở Trung Hoa.
    Trung sỹ Honda, phi công bên cánh của tôi ở mặt trận Java, đã kể lại các hoạt động của những ngày trước khi chúng tôi đến. Vào ngày 5 tháng 4, 4 chiếc Zero cất cánh từ Lae, hộ tống 7 oanh tạc cơ tấn công hải cảng Moresby và bắn rơi 2 chiến đấu cơ địch. Đổi lại, một chiếc Zero bị mất. Vào ngày kế đó, cùng một số Zero đó cất cánh, nhưng lần nầy bắn rơi đến 5 phi cơ địch. Ngày hôm sau, 7 tháng 4, hai chiếc Zero nghinh chiến 3 oanh tạc cơ địch trên không phận Salamaua và rượt theo bắn rơi hai chiếc. Các xạ thủ địch hạ một chiếc Zero của chúng tôi.
    Chiều hôm đó, chúng tôi tập họp trong Bộ Chỉ Huy phi trường để nghe thuyết trình. Tôi sử dụng mấy tiếng “Bộ chỉ huy” có vẽ hơi lớn lối để chỉ một căn nhà không có vách tường. Vách, màn che và mấy cánh cửa đều bằng chiếu. Căn phòng chỉ vừa đủ để nhét 30 phi công, chính giữa là chiếc bàn to lớn, đơn sơ, làm bằng cây thông. Một vài cây đèn cầy và một cây đèn dầu soi sáng căn phòng.
    Sau khi nghe đại tá Saito thuyết trình, chúng tôi đi về chổ ở. Trên đường đi, trung sỹ Yonekawa, cũng như Honda, anh ta là phi công bên cánh của tôi ở mặt trận Java, chỉ cho tôi những cơ sở của căn cứ.
    Hai trăm thủy thủ đảm trách các vị trí phòng không toạ lạc phía bên kia phi đạo. Đó là lực lượng trú phòng cho cả nơi nầy, cộng thêm 200 nhân viên bảo trì và 30 phi công . trong suốt thời gian chúng tôi ở đây, và cho đến khi Lae bị Đồng Minh chiếm đóng vào năm 1943, không một dự tính nào nhằm cải thiện tiện nghi của chúng tôi, và cũng không có lực lượng tăng viện nào khác được đưa đến. Chổ ở của chúng tôi và sỹ quan không khác gì nhau. Chỉ huy trưởng căn cứ, chỉ huy phó và một phụ tá ở chung trong một căn nhà nhỏ nối liền với doanh trại sỹ quan.
    Trong khi căn cứ Rabaul mướn một số dân địa phương tạp dịch, căn cứ Lae không có vấn đề nầy. Làng gần nhứt cách đây hai dặm. Không thể bắt dân làng phơi lưng dưới họng súng của phi cơ địch đến tấn công hầu như vào mọi ngày.
    Đó là căn cứ Lae. Thức ăn tồi tệ, công việc hàng ngày nặng nhọc và, không có gì thay đổi. Chúng tôi không có hợp tác xã quân đội, không có bất cứ một tiện nghi tối thiểu nào khác. Đàn bà ? Ở Lae, mọi người đều hỏi: “ Đàn bà là cái gì?.”
    Tuy nhiên, tinh thần của chúng tôi rất cao. Chắc chắn chúng tôi thiếu tiện nghi và vật chất, ngay cả một số tiện nghi thiết yếu nhứt, trong đời sống hàng ngày, nhưng chúng tôi không lấy đó làm phàn nàn. Chúng tôi không có một đòi hỏi riêng tư nào ngoài đòi hỏi được chiến đấu. Phi công ở Lae không giống như phi công ở những căn cứ khác. Mỗi chúng tôi đều là thành phần chọn lọc của không lực hải quân. Các sỹ quan của chúng tôi cũng được chọn trong số những người “chỉ thích ấn tay vào cò súng” trên một chiếc Zero.
    Vào ngày 11 tháng 4, tôi chiến đấu trở lại. Sau gần hai tháng bắt buộc nằm lì trên mặt đất, được chiến đấu cơ trở lại làm tôi phấn khởi. Ngày hôm trước, 10 tháng 4, tôi không được sắp xếp thực hiện phi vụ, và phải ở lại mặt đất trong khi những phi công khác vui hưởng một ngày chiến đấu. Sáu chiến đấu cơ Zero hộ tống bảy oanh tạc cơ đến Moresby, bắn rơi hai oanh tạc cơ địch đang cố cất cánh để rời phi trường ở đó. Cùng ngày, ba chiếc Zero khác cũng trực chỉ Salamaua và bắn rơi một oanh tạc cơ địch, cùng gây hư hại cho nhiều chiếc khác.
    Phi vụ của tôi vào ngày 11 là một phi vụ thông thường. Cùng với 8 chiến đấu cơ khác mới vừa đến Lae, chúng tôi cất cánh và bay thành nhóm theo đội hình cũ chữ V hướng về Moresby. Sau đó, dãy núi Owen Stanley sừng sững trước mặt chúng tôi, cao hơn mặt biển 15.000 bộ. Mặc dù dãy núi cao chớn chở như vậy, trên đỉnh không có một đám mây nào vướng vất, và dốc thẳng đứng giống như những bức tường vĩ đại mọc đầy cây cối.
    Trên cao độ 16.500 bộ, chúng tôi vượt ngang qua đỉnh núi và lập tức bước vào một thế giới mới : thế giới của địch quân. Bốn mươi phút sau khi cất cánh căn cứ Moresby nằm phía dưới chúng tôi. Tôi có thể nhìn thấy nhiều phi cơ đủ loại trên mặt đất. Súng phòng không im tiếng dĩ nhiên chúng tôi bay quá tầm hoả lực của đối phương. Chúng tôi có thể đạt được kết quả nếu tấn công ngay vào các phi cơ đậu trên mặt đất. Nhưng theo chỉ thị, đây chỉ là một phi vụ thám thính thông thường, ngoại trừ không chiến chúng tôi không được phép tấn công.
    Chúng tôi lướt qua Moresby và vòng ra biển San Hô sau đó quay lại lối cũ một lần nữa, lướt ngang qua căn cứ địch. Chúng tôi ngạc nhiên khi khi nhận thấy hình như các xạ thủ và phi công địch không hay biết có sự hiện diện của chúng tôi, nên họ không đưa ra một sự kháng cự nào.
    Chúng tôi lướt qua phi trường. Lần nầy mặt trời đến từ phía sau chúng tôi. Lúc bay thật chậm, chúng tôi phát hiện bốn chiến đấu cơ P.39, loại Airacobra mà tôi gặp lần đầu tiên. Bốn phi cơ nầy hầu như bay cách ngay phía trước chúng tôi 3 dặm, nhưng chúng tôi không hiểu có bị phát hiện hay chưa. Tôi quăng bình xăng phụ và gia tăng tốc lực, với hai đồng đội bay sát cánh bên phải. Tôi lướt dọc theo phi cơ cầm đầu nhóm và báo hiệu cho trung úy Sasai biết sự phát hiện địch của tôi, và yêu cầu bao che cho chúng tôi tấn công. Ông nắm tay đưa về phía trước. “ Tiến ! chúng tôi sẽ bao che cho anh.”
    Tuy nhiên chưa thấy động tĩnh của mấy chiếc Airacobra. May mắn cho chúng tôi, lúc ấy mặt trời chiếu thẳng vô phi cơ địch nên các phi công Mỹ không nhìn thấy chúng tôi bay đến. Phi cơ địch chia làm hai cặp, bay trước và bay sau, cách khoảng 300 thước.
    Tôi để Honda bay phía sau và trên tôi, trong khi Yonekawa ít kinh nghiệm hơn bay ngay phía dưới tôi. Bây giờ, chúng tôi chỉ còn cách phi cơ địch 500 thước, chếch về bên trái một chút. Chúng tôi sẵn sàng đánh trong vài giây nữa. Nếu phi công địch vẫn bị mặt trời làm cho mù loà, chúng tôi có thể hạ gục họ trước khi họ kịp nhận ra chúng tôi.
    Thay vì tiến sát lại chúi xuống để tấn công, chúng tôi hạ thấp và xoay trở lại thật ngặt.
    Hai chiến đấu cơ địch bay sau chót bây giờ ở ngay trên đầu tôi, vẫn không biết có sự hiện diện của chúng tôi. Tôi nâng khoảng cách gần lại, rồi còn chừng 50 thước, tôi nghiêng thân và bấm cò đại bác, qui tất cả hoả lực vào thân phi cơ địch. Những mảnh kim khí vở ra và bay túa trên không, một giòng khói và lửa kéo thành vệt dài về phía sau.
    Tôi quay các họng súng về phía chiếc P.39 thứ hai. Một lần nữa, những viên đạn soi thủng thân phi cơ, nổ bên trong và xé chiếc phi cơ thành từng mảnh.
    Tôi lướt ra ngoài và xoay ngay lại, chuẩn bị khai hoả trực tiếp vào hai chiến đấu cơ dẫn đầu. Nhưng trận đánh đã kết thúc ! Cả hai chiếc P.39 lảo đảo chúi xuống mặt đất, kéo dài hai vệt lửa và khói dày đặc. Hai chiếc Zero theo tôi đã mau tay hơn tôi tưởng. Tôi nhìn thấy chiến đấu cơ của Hiroyoshi Nishizawa đang lấy đà vượt lên. Chiếc thứ hai hạ đối thủ với chỉ một viên đại bác, do Toshio Ota lái, vừa lấy lại thăng bằng sau khi lướt thẳng lên để trở lại đội hình như cũ.
    Không ngờ trận đánh chấm dứt chỉ trong vòng năm giây, với bốn chiến đấu cơ trở thành bốn mảnh vụn trên mặt đất phía dưới kia. Điều đáng ghi nhận là cả hai phi công đồng đội vừa ghi điểm của tôi: Nishizawa, 23 tuổi và Ota chỉ mới 20 tuổi. Như đã nói trước đây, các phi công ở Lae đều là thành phần chọn lọc. Để lựa chọn, tài năng phi hành của họ phải vượt bực. Đa số chúng tôi đều là phi công kỳ cựu. Nishzawa và Ota chỉ là những người chân ướt chân ráo, cần phải học hỏi thêm nhiều, tuy nhiên họ sớm trở thành những phi công hàng đầu của phi đoàn Lae, hạ trên mười phi cơ địch. Chúng tôi thường bay chung với nhau, và được các phi công khác gọi là “ Bộ ba quét sạch ”.[/spoil]

    Chương XI[spoil]

    Đồng Minh đổ người và vật liệu vào pháo đài của họ ở hải cảng Moresby không ngừng nghỉ, và Bộ Tư Lệnh Tối Cao Nhựt thúc giục chúng tôi đánh mạnh hơn, đánh nhiều hơn vào các phi trường, các chổ trú quân, và các cơ sở trên hải cảng càng lúc càng mọc lên như nấm của địch quân.
    Vào ngày 17 tháng 4, tôi thực hiện một phi vụ hộ tống đầu tiên của tôi trên đất địch. Mười ba chiến đấu cơ Zero, thay vì sáu hoặc bảy chiếc như trước đây, bao che cho các oanh tạc cơ.
    Với bảy chiến đấu cơ được cắt đặt bay sát cánh các oanh tạc cơ ở cao độ 16.000 bộ, và với nhóm sáu chiến đấu cơ của tôi bay thấp hơn 1.500 bộ, chúng tôi vượt qua dãy núi Owen Stanley. Moresby hiện ra trong tầm mắt. Thình lình bảy chiến đấu cơ bay chung nhóm các oanh tạc cơ phía trên túa ra, lập thành màn lưới bao che, xoay tròn phía trên các oanh tạc cơ. Nhiều chiến đấu cơ P.40 của địch chúi xuống từ một độ cao hơn để tấn công các oanh tạc cơ của chúng tôi. Tuy nhiên, chúng bị phát hiện quá sớm, và vòng xoay của bảy chiến đấu cơ Zero nứt ra, đánh bật cú đấm của địch quân đang giáng xuống. Bảy oanh tạc cơ trở về vị trí cũ.
    Ngay lập tức, súng cao xạ từ mặt đất bắn lên, sáu chiến đấu cơ chúng tôi lập tức phân tán và lộn nhào thật mau để tránh né một vòng rào hoả lực cao xạ thứ hai nổ phía trên, nhưng cách xa chúng tôi.
    Ngay khi chúng tôi trở lại đội hình, các oanh tạc cơ và chiến đấu cơ hộ tống gia tăng tốc lực tối đa để vượt lên cao nữa. Nếu các oanh tạc cơ vẫn duy trì đường bay cũ loạt cao xạ thứ ba sẽ bắn trúng.
    Các oanh tạc cơ của chúng tôi vượt qua phi trường Moresby và đang đảo chầm chậm để thả bom. Bây giờ mặt trời chiếu từ phía sau chúng tôi, và các chiến đấu cơ địch lại đang lướt đến. Tôi đảo lại, chĩa thẳng vào mũi dùi tấn công của đối phương. Năm chiến đấu cơ khác thuộc nhóm của tôi cũng đeo dính một bên. Nhưng chúng tôi không có cơ hội để khai hoả, các chiến đấu cơ địch lãng ra và phân tán. Chúng tôi quay trở lại vị trí hộ tống, nhưng chỉ có hai chiếc Zero theo tôi. Chiếc của Miyazaki và hai chiếc khác đã chui xuống phía dưới các oanh tạc cơ.
    Tôi không có thời giờ để lo lắng cho ba chiếc phi cơ đó. Cao xạ địch đang cố gắng điều chỉnh tầm bắn, và một loạt đạn đã nổ cách phía dưới các oanh tạc cơ đang dội bom 1.500 bộ. Tuy nhiên, tất cả đều đã vượt qua, bụng đã trống rỗng, các oanh tạc cơ gia tăng tốc lực, giữa những tiếng nổ rền vang liên tục của súng cao xạ, và đảo về phía trái. Miyazaki đang bay cách phía dưới các oanh tạc cơ 1.500 bộ. Không có vô tuyến, tôi không thể nào gọi hắn trở lại vị trí, và chúng tôi không dám rời các oanh tạc cơ.
    Chúng tôi bỏ Moresby và súng phòng không địch lại phía sau. Tôi thở ra nhẹ nhõm. Quá sớm! Khoảng một dặm phía trên chúng tôi, một chiến đấu cơ P.40 chúi xuống với tốc lực khủng khiếp. Nó xuống nhanh đến nỗi tôi không kịp nháy mắt. Giống như một tia chớp soi thẳng vào các oanh tạc cơ, cách tôi sáu trăm thước.
    Và tôi không hiểu làm cách nào mà chiếc P.40 nầy lọt qua khỏi khoảng trống chỉ một vài thước giữa hai oanh tạc cơ thứ ba và thứ tư. Chuyện khó thể tin nỗi, nhưng mà nó đã xảy ra. Với những họng súng rực lửa, sau khi lọt qua nhóm oanh tạc cơ xong, chiếc P.40 rót tất cả vào chiếc phi cơ của Miyazaki. Tức khắc, chiếc Zero biến thành ngọn đuốc. Và vẫn với tốc lực khủng khiếp, chiếc P.40 biến mất phía dưới chúng tôi. Phi cơ của Miyazaki rơi xuống chầm chậm, rồi lửa loé sáng và một tiếng nổ xé nát ra. Chúng tôi không nhìn thấy một mảnh kim khí nào rơi xuống. Mọi việc xảy ra trong vòng ba bốn giây. Chúng tôi vẫn tiếp tục bay. Đến Buna, các chiến đấu cơ chúng tôi tách ra, chấm dứt vai trò hộ tống và quay về Lae.
    Cái chết của Miyazaki là một bài học đau đớn cho tất cả chúng tôi. Trong những ngày đầu của cuộc chiến tôi vẫn khăng khăng cho rằng sự khéo léo cá nhân của các phi công Nhựt là ưu thế có tánh cách quyết định trước phi công đối phương. Công cuộc huấn luyện của chúng tôi, dĩ nhiên là trước chiến tranh, tỉ mỉ hơn bất kì quốc gia nào khác. Đối với chúng tôi, bay có nghĩa là mọi thứ, chúng tôi chúng tôi không tiếc bất kì nổ lực nào nhằm học hỏi thấu đáo mọi phương diện về không chiến. Tuy nhiên, qua nhiều cuộc không chiến của Đệ Nhị Thế Chiến, khéo léo cá nhân chưa đủ bảo đảm sự tồn tại mãi mãi, ngoại trừ các cuộc không chiến tay đôi. Thất bại to tát nhứt trong các cuộc không chiến của chúng tôi là do chúng tôi thiếu tinh thần đồng đội. Một tinh thần mà người Mỹ đã phát triển không ngừng trong suốt cuộc chiến.
    Sau cái chết của Miyazaki, bảy oanh tạc cơ B.26 tấn công Lae. May mắn thay, chúng tôi được báo trước và 9 chiến đấu cơ Zero được tung lên không, đón các oanh tạc cơ địch chỉ ở cao độ 1.500 bộ. Trận quần thảo giữa phi công chúng tôi với bảy chiếc Maurader kéo dài một tiếng đồng hồ đầy gian nan vất vã. Cuối cùng chỉ một oanh tạc cơ địch bị bắn rơi và một chiếc bỏ chạy với thương tích. Đó là trận không chiến vụng về nhứt, chưa từng thấy trong đời tôi. Chín chiếc Zero thiếu tổ chức. Thay vì liền tay tấn công một hoặc hai phi cơ địch, và xử dụng hoả lực của số đông để cắt bảy chiếc B.26 ra từng phần, các phi công của chúng tôi áp hết vào để đánh. Không có chiếc phi cơ nào của chúng tôi đụng chạm hoặc bắn hạ lẫn nhau cũng là một điều đáng lấy làm lạ.
    Khi đáp xuống, cơn giận của tôi bùng nổ. Tôi nhảy ra khỏi phòng lái, hấp tấp bước đến các phi công đã tụ hợp trên mặt đất. Tôi chửi sự ngu ngốc của họ, vạch ra từng điểm sai lầm của mọi người và nhấn mạnh rằng chỉ có phép lạ mới khiến họ sống sót được. Từ đó trở về sau, mỗi đêm chúng tôi đều hội họp để chỉnh đốn lại tinh thần đồng đội của chúng tôi.
    Vào ngày 23 tháng tư, Nishizawa, Ota và tôi thực hiện một phi vụ thám thính Kairuku, một căn cứ mới của đối phương ở phía Bắc Moresby. Mặc dù chỉ được lịnh thám thính, chúng tôi cũng đã bắn cháy nhiều vận tải cơ địch trên phi đạo.
    Báo cáo của chúng tôi đưa đến một cuộc tấn công với 15 phi cơ vào ngày hôm sau. Chúng tôi sà xuống sáu chiếc oanh tạc cơ B.26, 15 chiến đấu cơ P.40 và 1 chiếc P.39. Con số hủy diệt chính xác của chúng tôi là hai oanh tạc cơ và sáu chiếc P.40. Sau trận không chiến đơn phương, chúng tôi thẳng đường đến Moresby, bắn phá và đốt cháy một chiến hạm đang buông neo.
    Ngày hôm sau, chúng tôi trở lại Moresby. Mặc dù thiệt hại nặng nề vào ngày hôm trước, địch quân vẫn đề kháng dữ dội. Bảy chiến đấu cơ P.40 thách thức 15 chiến đấu cơ của chúng tôi. Trước khi cuộc không chiến dữ dội thực sự kết thúc, sáu chiến đấu cơ địch đã chúi về phía Đông trong lửa đỏ. Chúng tôi bảo toàn lực lượng, và sau khi bầu trời được dọn sạch, chúng tôi bắt đầu xạ kích Moresby và Kairuku, đốt cháy 5 chiếc B.26 và 2 chiếc P.40.
    Hiển nhiên cố gắng của tôi trong việc cải thiện tinh thần đồng đội khi chiến đấu cơ đã đạt được hiệu quả. Tuy nhiên, tôi phải chịu thiệt thòi, vì sau hai trận đánh liên tiếp, các phi công khác đều ghi nhiều điểm trong khi tôi trở về với hai bàn tay trắng. Và trận không chiến kế tiếp vào ngày 26 cũng vậy, tôi không hạ được một phi cơ nào, mặc dù có ba trong số bảy chiếc P.40 bị bắn rơi.
    Ngày 29 tháng tư là sinh nhật của Thiên Hoàng Hirohito. Vị chỉ huy trưởng của chúng tôi tổ chức một buổi lễ khiên tốn để mừng ngày đặt biệt nầy. Mấy anh lính biết nấu nướng đều tiếp tay làm bếp và tận dụng tất cả đồ tiếp tế để chuẩn bị một bữa ăn sáng ngon nhứt. Vài ngày trước đó, Đồng Minh không hề đưa ra bất kì nổ lực nào nhằm tấn công Lae. Sự yên tĩnh nầy, cộng thêm với cảm giác thoải mái của chúng tôi ở hiện tại, chúng tôi lơ là với nhiệm vụ.
    Khi chúng tôi chấm dứt bửa ăn sáng vào lúc 7 giờ sáng, tiếng thét của binh canh gác vang lên: “ Phi cơ địch!” Lập tức, một âm thanh hỗn loạn bùng vỡ, phá tan sự yên tĩnh của buổi sáng. Thùng, trống, mõ và tù và nổi lrrn inh ỏi, hệ thống báo hiệu không kích của chúng tôi.
    Chúng tôi chạy ra phi đạo quá muộn. Những trái bom đã rơi xuống và đang nổ. Chúng tôi ngước mắt lên nhìn thấy mấy ông bạn cũ của chúng tôi, những chiếc oanh tạc cơ B.17. Ba chiếc tất cả, bay ở độ cao 20.000 bộ. Chỉ một vài trái bom được thả xuống, nhưng sự chính xác tôi chưa từng mục kích bao giờ. Năm chiến đấu cơ Zero nằm trên sân bay đang bao trùm trong lửa đỏ. Bốn chiếc khác hư hại nặng nề do mảnh bom gây ra. Riêng sáu chiếc ứng chiến chỉ còn năm chiếc bay được.
    Ota và một phi công khác là hai người đầu tiên chạy ra phi cơ. Trong hai giây, họ cho phi cơ hoạt động và chạy ra phi đạo. Thành phần còn lại của chúng tôi bây giờ mới băng ra phi cơ, nhưng có cất cánh cũng đã trễ. Ba oanh tạc cơ B.17 và hai chiến đấu cơ Zero đã biến mất khỏi tầm mắt chúng tôi. Thời gian trôi qua chậm chạp, chúng tôi chửi rủa mấy chiếc oanh tạc cơ không tiếc lời và nôn nóng chờ đợi Ota trở về. Một giờ sau, một chiếc Zero đáp xuống. Đó là Endo. Hắn giải thích: “ chúng tôi đánh ngay khi vượt lên. tôi quần thảo dữ dội với một chiếc oanh tạc cơ. Ota vồ một chiếc và vẫn còn khai hoả khi tôi hết đạn. Do đó, tôi phải trở về.”
    Một giờ nữa trôi qua, Ota vẫn chưa thấy về. Chúng tôi lo âu. Ota, bạn của tất cả chúng tôi, hiện thời đơn độc quần thảo với ít nhất hai chiếc oanh tạc cơ có võ trang mạnh mẽ. Endo trở nên bồn chồn, và càu nhàu về việc phải rời bỏ Ota vì hết đạn.
    Mười lăm phút nữa trôi qua, thế rồi đại úy Saito thò đầu vô bộ chỉ huy và vui vẻ nói lớn: “ Ê! Hắn an toàn! Ota vừa gọi từ Salamaua. Hắn hạ được một pháo đài bay. Hắn phải đáp xuống để lấy xăng và sẽ trở về ngay.”
    Tin tức phấn khởi! Nhưng công việc vẫn chưa xong. Sáu phi công, bao gồm Nishizawa và tôi, được chọn để trở lại Moresby “mừng ngày sinh nhật của Thiên Hoàng”. Chúng tôi cảm thấy phi vụ với 16 chiếc Zero có lẻ tốt hơn, nhưng hiện thời chỉ có 6 chiếc của chúng tôi còn trong tình trạng chiến đấu. Chắc chắn đối phương đã đoán được một trận phục thù cuộc oanh tạc vừa qua của chúng tôi. Để tránh chui đầu vô hoả lực phòng không đang chờ đợi chúng tôi vượt qua đỉnh nú Owen Stanley ở cao độ 16.000 bộ. Và rồi thay vì tiếp tục hướng đến Moresby ở cao độ nầy, chúng tôi chúi xuống thật thấp, bay theo đội hình tam giác căng rộng. Sau đó chúng tôi vượt lên thật cao rồi chúi thẳng xuống căn cứ không quân địch. Không một ai đoán nổi chúng tôi tấn công theo lối mới nầy.
    Hàng chục nhân viên bảo trì địch đang quay quần bên những chiếc oanh tạc cơ và chiến đấu cơ, hình như đều sẵn sàng cất cánh. Chúng giống như những con vịt nằm phơi lưng. Chúng tôi quét đại liên và đại bác xuống sân bay. Tôi có thể nhìn thấy nhiều người ngước nhìn lên với dáng vẻ đầy kinh ngạc, như không tin nổi vào đôi mắt của họ.
    Nhát chổi đầu tiên có hiệu quả. Không một họng súng nào kịp khai hoả. Ở cuối đường bay, với các pháo đội phòng không vẫn im lặng trong sự sửng sốt, chúng tôi quay lại thật gấp và tức khắc bổ nhào xuống làm ăn nữa. Quang cảnh dưới mắt thật tuyệt diệu. Ba chiến đấu cơ và một oanh tạc cơ đang bốc cháy dữ dội. Lần nầy chúng tôi quét trên một dãy phi cơ khác, xếp thành một hàng dài gọn ghẻ ngay ngắn. Bốn oanh tạc cơ và chiến đấu cơ trúng đạn, tuy nhiên không cháy. Người trên sân bay bây giờ chạy hổn loạn, và có hơn một chục xác nằm bất động vì lảnh đạn của chúng tôi. Chúng tôi “làm ăn” ba lần tất cả và sau đó dông tuốt. Khi đã bay xa rồi, chúng tôi mới nghe khẩu cao xạ đầu tiên lên tiếng.
    Nhưng vào lúc 5 giờ 30 sáng hôm sau, đối phương trả lễ chúng tôi bằng một cuộc viếng thăm của ba chiếc Maurader, đến mau và thấp, không cao hơn 600 bộ. Mặt đất như vỡ tung khi ba oanh tạc cơ B.26 trút bom xuống ngay phi đạo. Lúc khói đã tan, chúng tôi nhìn thấy năm trong số các chiến đấu cơ ứng chiến của chúng tôi lướt lên không trung. Tuy nhiên, khi năm chiến đấu cơ nầy vừa cất cánh được, các oanh tạc cơ đã quay lại và trút bom một lần nữa. Tiếng nổ vang dội trước khi các chiến đấu cơ có thể tiến sát đến các oanh tạc cơ. Nhưng đối phương đã kịp thời kiếu từ, biến mất vào ánh bình minh đang lên. Chuyến kiếm ăn khá khiển: một chiếc Zero bốc cháy và một chiếc khác vỡ tan. Bốn chiến đấu cơ và một oanh tạc cơ khác lổ chổ dấu đạn và miểng bom.
    Trong nhiều ngày kế tiếp, nhịp độ của trận chiến trên không gia tăng dữ dội. Mười hai chiến đấu cơ P.39 thực hiện một cuộc viếng thăm Lae thật đẹp mắt, với chín oanh tạc cơ của chúng tôi hư hại nặng nề. Chúng tôi nhảy lên vồ khi đối thủ rút lui, và kéo 2 chiếc P.39 xuống đất mà không thiệt mất một chiếc Zero nào. Nhưng một lần nữa cả tôi lẫn Nishizawa đều đáp xuống với hai tay không.
    Nỗi rầu rĩ của tôi được khuây khoả vào ngày hôm sau, khi chín phi công chúng tôi trở lại Moresby. Chín chiếc P.39 chờ sẵn chúng tôi trên không phận phi trường địch. Một mình tôi hạ cả ba chiếc trong vòng 15 giây. Sáu chiếc khác bỏ chạy mau đến nỗi các chiến đấu cơ khác của chúng tôi không sao chụp kịp.
    Trở về phi trường Lae, các chuyên viên cơ khí của tôi đã kinh ngạc khi nhận thấy tôi chỉ bắn có 610 viên đạn trong trận không chiến ngày hôm đó. Trung bình mỗi phi cơ địch nhận hơn hai trăm viên.
    Ngày hôm sau, 2 tháng 5, chúng tôi quày trở lại Moresby nữa, với một lực lượng gồm tám chiếc Zero. Lần nầy, mười ba chiến đấu cơ P.39 và P.40 bay chầm chậm ở cao độ 18.000 bộ chờ đón chúng tôi. Nishizawa phát hiện địch đầu tiên và khai hoả. Trước khi phi cơ địch nhìn thấy chúng tôi và lộn nhào để tránh né, bảy chiếc đã rơi xuống như cây đuốc. Trong ngày nầy, chúng tôi “bỏ túi” đến tám chiếc P.39 và P.40. Riêng tôi được hai chiếc và Nishizawa được ba chiếc.
    Vào ngày 7 tháng 5, sau nhiều ngày ngơi nghỉ, bốn chiến đấu cơ được lịnh thực hiện phi vụ thám thính ở Moresby. Mỗi người chúng tôi đều la lớn một cách vui vẻ khi nhận ra đồng đội của mình trong phi vụ nầy. Cả bốn chúng tôi đều là các phi công chiến đấu cơ điểm thắng của phi đoàn. Tôi đã hạ được 22 phi cơ địch, Nishizawa 13. Ota 11 và Takatsuka 9. Tôi hy vọng hôm nay làm ăn lớn. Khi chúng tôi lượn vòng trên không phận Moresby, Nishizawa lắc cánh báo hiệu và chỉ mười chiến đấu cơ địch trong đội hình hàng dọc, từ ngoài biển hướng đến chúng tôi, cao hơn nhóm phi cơ chúng tôi khoảng 2.000 bộ. Nishizawa và Ota lập thành mũi dùi, với Takatsuka và tôi bay ngay phía sau, thấp hơn chút ít. Bốn chiếc P.40 tách rời khỏi đội hình và bổ nhào xuống.
    Tức khắc, bốn chiến đấu cơ Zero hướng mũi lên gần như thẳng đứng thay vì lộn nhào để né tránh và phân tán như phi công địch hy vọng. Chiếc P.40 đầu tiên vội vã vượt lên trong một vòng xoay trôn ốc, cố thoát khỏi cái bẩy do chính nó giăng ra. Bụng phi cơ địch lấp loáng trước mắt tôi. Nhanh như chớp, tôi thảy ngay một loạt đạn đại bác. Cánh chiếc P.40 đứt lìa. Tôi lấy lại thăng bằng và nhìn thấy mỗi chiếc Zero đánh bật một chiếc P.40 ra. Tất cả đều biến thành cây đuốc. Sáu chiến đấu cơ địch còn lại đang ở trên chúng tôi. Chúng tôi phân tán qua phải và trái, vượt lên trong những vòng xoay hình trôn ốc, và lấy thăng bằng theo hình vòng cung, đồng thời các khẩu đại bác đều hoạt động. Thân ba chiếc P.40 tan rã hoặc bốc cháy. Ba chiếc còn lại chúi mũi xuống và chạy luôn.
    Vào ngày 8 và 9 tháng Năm. Tôi tiêu diệt thêm hai chiến đấu cơ địch nữa, một chiếc P.39 và một chiếc P.40. qua những nhát chổi kế tiếp trên không phận Moresby. Vào ngày 10, tôi lại bắn rơi một chiếc P.39 với thành tích tiêu thụ đạn ít nhất, chỉ bốn quả đại bác, trong một phi vụ trên biển San Hô với Honda và Yonekawa.[/spoil]

    CHƯƠNG XII[spoil]
    Trong thời gian từ ngày 1 đến ngày 12 tháng Năm, phi đoàn Lae của chúng tôi không thiệt mất một chiếc Zero nào trong những lần đụng độ với địch quân. Nhờ biết người biết ta, và nhờ vào đội hình chiến thuật hữu hiệu nhứt, chúng tôi đã tìm được lợi thế và thâu hoạch một loạt chiến thắng đơn phương.
    Vào ngày 13 tháng Năm, phi cơ của tôi bị hư hỏng máy móc nên bắt buộc phải ở lại. Việc nầy đã cho tôi dịp may nhận được mấy lá thư vào buổi sáng, do tiền thủy đỉnh mang đến mỗi tháng một lần. Má tôi viết rằng các anh tôi đã nhập ngũ. Một người tình nguyện vô trường phi công hải quân nhưng không được, vì gặp phải những đòi hỏi quá nghiệt ngã. Thay vào đó, anh tôi đầu quân vào căn cứ hải quân Sasebo. Người anh khác của tôi xin vô Lục quân và đã lên đường sang Trung Hoa, nhưng không bao giờ trở về nhà. Sau Trung Hoa, anh tôi được thuyên chuyển sang Miến Điện và thiệt mạng trong lúc thi hành nhiệm vụ.
    Nhưng dĩ nhiên, bức thư mà tôi chờ đợi nôn nóng hơn hết là bức thư của Fujiko. Nàng viết nhiều về sự đổi thay to tát ở quê hương, và tôi đã ngạc nhiên với cái tin hiện nàng đang làm việc trong một cơ sở (biến cải thành cơ xưởng quân cụ) của người chú. Nàng viết:
    “ Hiện tại, không ai được ăn không ngồi rồi cả. Thủ tướng đã tuyên bố như vậy. Ông ta nói rằng ngay cả phụ nữ nếu họ ở nhà mà không đóng góp vào nổ lực chiến tranh họ sẽ bị gọi nhập ngũ và gởi vô bất kì cơ xưởng quân cụ nào xét thấy cần đến sự phục vụ của họ. Do đó, để giữ em gần với gia đình, chú em đã mướn em làm việc cho ông.”
    Cô em bà con Hatsuyo của tôi có những tin tức còn đáng lo âu hơn nữa. Nàng viết rằng thân phụ của nàng đã được thuyên chuyển từ Shikoku về Đông Kinh. Trở về thành phố nầy được vài ngày, nàng đã chứng kiến tận mắt các oanh tạc cơ B.25 của Hoa Kỳ dội bom. Đó là ngày 18 tháng Tư.
    “Em biết rằng anh đang đứng trước đầu sóng gió,” Hatsuyo viết, “và những thành quả mà anh đạt được trong việc chống quân thù khiến cho tất cả chúng em, những người sống ở quê hương, cảm thấy vô cùng yên lòng. Nhưng Đông Kinh và nhiều thành phố khác bị oanh tạc đã làm thay đổi thái độ của dân chúng hướng về cuộc chiến. Bây giờ mọi việc đã đều đổi khác, những trái bom đã rơi xuống đây, trên quê hương chúng ta. Bây giờ hình như những cô gái khác, tất cả đều phải cố gắng làm việc nhiều hơn để yểm trợ cho anh và những phi công khác, những người cách xa Nhật Bản ngàn trùng.”
    Hatsuyo vẫn đi học, nhưng trọn buổi chiều và vài giờ vào buổi tối, nàng phải làm việc trong các cơ xưởng sản xuất quân trang, với các cô gái khác. Hai anh tôi đi lính, Fujiko và Hatsuyo làm việc trong các cơ xưởng… tất cả đều lạ lùng như vậy.
    Hatsuyo không mô tả chi tiết cuộc oanh tạc của đối phương, tuy nhiên cùng ngày đó chúng tôi đã nhận được tin tức. Đương nhiên chính phủ đã phủ nhận những thiệt hại nặng nề. Nhưng tất cả các phi công ở Lae đều biết mức độ tàn phá của oanh tạc cơ địch. Họ đủ sức nghiền nát quê hương chúng tôi, cho dù có thể bị trả đủa sau đó. Lúc tôi đang còn đọc thơ, chuẩn úy Wataru Handa bước vô yêu cầu tôi cho mượn Honda, phi công bên cánh của tôi để thực hiện một phi vụ ở hải cảng Moresby. Chuẩn úy Handa mới đến Lae, mặc dù chưa chiến đấu ở Thái Bình Dương, nhưng là một trong những phi công nổi tiếng của Nhật Bản ở chiến trường Trung Hoa, với 15 phi cơ địch bị hạ. Sau khi trở về từ Hoa Lục, hắn trở thành huấn luyện viên phi hành ở trường phi công Tsuchiura. Tôi không hề có một thắc mắc nào trong việc để cho Honda bay với hắn.
    Tuy nhiên, Honda từ chối. Anh ta ấp úng: “ Tôi không đi thì tốt hơn, Saburo. Từ trước đến nay tôi chỉ bay chung với anh, và bây giờ tôi không muốn thay đổi.”
    Tôi chận ngay: “Ồ! Anh đừng có nói điên!. Handa là một phi công tài giỏi hơn tôi nhiều , và cũng bay lâu hơn tôi anh cứ đi!.”
    Trưa hôm đó, Honda cất cánh với năm chiến đấu cơ Zero khác cho một phi vụ quan sát trên không Moresby.
    Sự miễn cưỡng của Honda khiến tôi lo lắng và tôi đã tháo mồ hôi hột trong lúc chờ đợi anh ta trở về. Hai giờ sau, năm chiếc Zero đáp xuống: phi cơ dẫn đầu của chuẩn úy Handa và bốn người khác. Phi cơ của Honda không thấy!
    Tôi chạy ùa ra phi đạo và leo lên cánh chiếc Zero của Handa ngay trước khi cánh quạt ngừng quay. “Honda đâu?” Tôi hỏi lớn, “Anh ta đâu? Việc gì đã xảy ra cho anh ta?”
    Handa nhìn tôi mặt mày khổ nải. “Anh ta đâu?” tôi hét. “Việc gì xảy ra?”.
    Handa leo ra khỏi phòng lái. Đứng trên mặt đất, hắn nắm lấy tay tôi, khom mình xuống, và cố gắng lắm mới nói được. Tiếng nói của hắn run run. “ Tôi … tôi rất ân hận Saburo. Honda, anh ta … anh ta đã thiệt mạng. Việc nầy lỗi tại tôi.”
    Tôi ngơ ngẩn ! Tôi không tin được ! Honda không thể chết ! Anh ta là một phi công bên cánh tài ba hơn bất kì một phi công nào mà tôi đã từng bay chung.
    Chuẩn úy Handa vừa đi vừa nhìn xuống mặt đất, rồi bước vô Bộ chỉ huy. Tôi đi theo hắn không thốt được lời nào.
    “ Chúng tôi ở trên phi trường Moresby” vừa đi Handa vừa nói, giọng nhỏ. “ chúng tôi bắt đầu lượn vòng ở cao độ 7.000 bộ. Không thấy phi cơ địch nào trên bầu trời, và tôi nhìn những phi cơ đậu trên mặt đất.
    “ Đó là lỗi của tôi, tất cả đều là lỗi của tôi. Chiến đấu cơ xuất hiện mà tôi không thấy. Đó là những chiếc P.39. Tôi không biết bao nhiêu. Chúng chúi xuống mau đến nỗi tôi không kịp trở tay. Chúng tôi chỉ biết sự hiện diện của phi cơ địch khi súng đã nổ. Tôi lộn ngay mội vòng, phi công bên cánh khác của tôi cũng làm như tôi. Khi tôi đảo quành lại, tôi thấy phi cơ của Honda bao trùm trong lửa đỏ. Hắn bị hoả lực chéo của mấy chiếc P.39”
    Tôi đứng lại nhìn hắn trừng trừng. Handa bước đi luôn. Hắn sẽ không bao giờ phục hồi sau cú đấm vừa nhận lảnh. Mặc dù hắn là một “Ace” ở Trung Hoam hiện thời hiển nhiên hắn đã mất hẳn sự nhạy bén trên không trung. Hắn chưa từng đối đầu với chiến đấu cơ Hoa Kỳ bao giờ. Dù sao đi nữa, Handa cũng cảm thấy hổ thẹn khi hắn để cho phi công bay bên cánh bị thiệt mạng. Những ngày ở Lae hắn xanh xao vàng vọt. Cuối cùng, hắn mắc bệnh lao và được gởi về xứ. Nhiều năm sau, tôi nhận được một bức thơ của bà vợ Handa. Bà ta viết: “ Nhà tôi qua đời ngày hôm qua sau chứng bệnh dai dẵng. Tôi viết thơ nầy thể theo lời yêu cầu của nhà tôi, nói lên lời tạ tội thay cho anh ấy. Nhà tôi không bao giờ hồi phục phong độ sau sự mất mát ở Lae. Lời cuối cùng nhà tôi thốt lên khi chết: “ Suốt đời tôi, tôi đã chiến đấu dũng cảm, nhưng không thể nào quên được khi tôi để mất người của Sakai.”
    Khi chết, Honda chỉ mới 20 tuổi. Anh ta là một con người dũng mảnh trên mặt đất cũng như trên không trung. Vào những ngày nghỉ, tôi đi lang thang quanh căn cứ. Tôi không lưu tâm đến đòi hỏi phải phục thù cho phi công thiệt mạng đầu tiên của phi đoàn, do những người còn lại đề nghị. Nhưng đến ngày 17 tôi thay đổi ý kiến. Đối với tôi, thành công lớn nhứt trong khi chiến đấu cơ của tôi là không bao giờ để mất người bay bên cánh. Tôi đã làm trái ý muốn của Honda, để hắn bay với người khác, và hắn đã chết. Ngày hôm sau, 14 tháng 5, tôi nhận hạ sỹ Hatori thay thế cho Honda.
    Vào ngày 15 tháng Năm, mưa đổ như thác lũ, có nghĩa là một ngày nghỉ của tất cả các phi công. Nhưng trước bình minh ngày 16, nhiều oanh tạc cơ B.25 bay sà thấp trên ngọn cây lướt đến đào nát phi đạo và thổi bay nhiều cơ xưởng bảo trì.
    Bước sang ngày thứ hai chúng tôi vẫn chộn chân trên mặt đất, bỏ cả một ngày để chỉ làm công việc dọn dẹp và lấp hố bom trên phi đạo. Sau đó, chúng tôi vô ngồi trong doanh trại, nhiều phi công ngủ gà ngủ gật, một số khác thảo luận về nhịp độ tấn công gia tăng của địch quân.
    Ngày trôi qua chậm chạp, và đêm đó Nishizawa, Ota và tôi đi đến phòng truyền tin để nghe giờ nhạc do đài phát thanh Úc Đại Lợi phát ra hàng đêm.
    Nishizawa thình lình lên tiếng: “Hãy nghe điệu nhạc nầy. Nó có phải là “Điệu Vũ của Tử Thần” không?”
    Chúng tôi gật đầu. Nishizawa bổng nhiên lộ vẻ phấn khởi. “Điệu nhạc nầy làm tôi nẩy ra một ý kiến. Các bạn biết phi vụ không kích Moresby vào ngày mai? Tại sao chúng ta không biểu diễn “Điệu Vũ của Tử Thần” của chúng ta để đối phương xem chơi?”
    Ota hỏi: “Anh nói cái quái gì vậy? Tôi thấy anh giống như thằng khùng!”
    Nishizawa cãi: “ Tôi nói thật. Sau khi không kích xong, trên đường bay về hãy quay lại Moresby, chỉ ba chúng ta thôi, để biểu diễn một màn nhào lộn ngay trên phi trường của đối phương để chọc giận họ chơi.”
    “Có lẻ thú vị đó,” Ota nói, “nhưng còn chỉ huy trưởng? Ông để chúng tôi đi suông sẽ không?”
    Nishizawa cười: “Khi đề nghị trò chơi nầy tôi phải biết cách chớ.”
    Chúng tôi trở lại doanh trại, và cả ba to nhỏ bàn tán kế hoạch hành động ngày mai. Dù cho chỉ có ba chúng tôi xuất hiện trên không phận Moresby nhưng chúng tôi không sợ. Cả ba chúng tôi đã bắn rơi tổng cộng gần 70 phi cơ địch rồi: tôi 27 chiếc, Nishizawa 20 chiếc và Ota 18 chiếc.
    Ngày hôm sau, chúng tôi quét Moresby với sức mạnh tối đa: 18 chiến đấu cơ Zero, với thiếu tá Tadashi Nakajima, chỉ huy trưởng phi đoàn, đích thân hướng dẫn. Nishizawa và tôi bay hai bên cánh của ông.
    Cuộc không kích là một thất bại. Trên phi trường địch không có bóng một phi cơ nào. Nhưng câu chuyện trên trời cao thì khác. Nhiều chiến đấu cơ địch, trong đội hình ba chiếc, ùa đến tấn công chúng tôi. Chúng tôi xoay lại và đánh dàn mặt với nhóm đầu tiên. Cuộc hỗn đấu xảy ra, sáu chiếc P.39 trong đó có hai chiếc là nạn nhân của tôi rớt cháy như cây đuốc. Nhiều chiến đấu cơ Zero tách rời khỏi trận không chiến chúi xuống bắn phá phi trường. Hai chiếc bị đạn phòng không, què quặt và đâm vô sườn núi Owen Stanley trên đường trở về.
    Ngay sau trận không chiến, chúng tôi trở lại đội hình, và trên đường về tôi ra dấu cho thiếu tá Nakajima biết tôi phải truy đuổi một phi cơ địch. Ông vẩy tay, và tôi bổ nhào ngay xuống với hai phi công bên cánh: Ota và Nishizawa.
    Một vài phút tôi trở lại Moresby, bay vòng trên phi trường ở độ cao 12.000 bộ. Súng phòng không im tiếng và không có chiến đấu cơ nào xuất hiện. Cả ba chúng tôi bay trong đội hình chỉ cách nhau vài bộ. Chúng tôi lộn nhào bao vòng. Nhìn quanh để tìm kiếm phi cơ địch lần cuối cùng, tôi chúi mũi xuống để lấy tốc độ với Nishizawa và Ota đeo dính hai bên. Tôi kéo ngược cần điều khiển theo hình vòng cung và lộn ngược lại phía sau. Hai chiếc Zero kia cũng làm y như tôi, rồi lấy thăng bằng và vừa lăn tròn vừa bay vòng quanh.
    Hơn hai lần, chúng tôi vượt lên, bay vòng quanh, chúi xuống và lại lộn ngược trở lên bằng cách lăn tròn. Không một khẩu cao xạ nào bắn lên từ mặt đất, và bầu trời không có bóng dán bất kì chiến đấu cơ nào của địch.
    Sau khi biểu diễn lần thứ ba, Nishizawa khoái chí và muốn biểu diễn lại một lần nữa. Tôi xoay sang trái, thấy Ota cười và gật đầu đồng ý. Tôi không thể từ chối. Chúng tôi chúi xuống chỉ cách phi trường địch 6.000 bộ và lăn tròn ba vòng trên không trung rồi đảo quanh thật nhịp nhàng. Vẫn không có tiếng súng nào bắn lên.
    Chúng tôi trở về Lae hai mươi phút sau khi các chiến đấu cơ khác đã đáp xuống. Chúng tôi im thinh thít. Ngay sau đó chúng tôi ngồi chụm đầu lại bàn tán, cười đùa thoã thích. Tuy nhiên, sự bí mật của chúng tôi sớm bị khám phá. Quá chín giờ đêm đó, một liên lạc viên chạy vô phòng ngủ cho biết đại úy Sasai muốn được “diện kiến” chúng tôi tức khắc. Chúng tôi nhìn nhau lo lắng. Hành vi của chúng tôi có thể nhận lảnh hình phạt nặng nề.
    Ngay sau khi chúng tôi bước vô văn phòng, đại úy Sasai nói lớn: “Hãycoi đây, các anh là bọn hoang đàng!”. Mặt ông ta đỏ gay và phất qua phất lại một lá thư bằng tiếng Anh, trước mắt chúng tôi. “ Các anh có biết tôi được cái nầy ở đâu không?” ông hét lớn, “không biết? Để tôi nói cho nghe, mấy tên ngu ngốc nầy. Bức thư nầy vừa được một chiếc phi cơ địch thả xuống sân bay cách đây vài phút!”
    Thơ viết:
    “ Gởi chỉ huy trưởng phi đoàn Lae: chúng tôi sẽ nhớ mãi ba tên phi công đã thăm viếng chúng tôi ngày hôm nay. Tất cả chúng tôi đều khoái mấy cú lộn nhào của họ trên phi trường của chúng tôi. Đó là một màn trình diễn rất tới. Chúng tôi sẽ lấy làm hân hạnh nếu ba tên phi công nầy trở lại thăm viếng chúng tôi một lần nữa, mỗi tên nên quấn một khăn quàng màu xanh quanh cổ. Chúng tôi rất buồn đã không đón tiếp họ chu đáo, nhưng hy vọng lần sau họ sẽ được tất cả chúng tôi tiếp đón nồng nhiệt hơn.”
    Cả ba chúng tôi cố giữ lắm mới khỏi cười ồ. Bức thư được ký bởi một nhóm phi công chiến đấu cơ. Sau đó đại úy Sasai bắt chúng tôi đứng như trời trồng để phạt hành vi ngu ngốc của chúng tôi. Đặt biệt, chúng tôi được lịnh không bao giờ thực hiện màn trình diễn nào thêm nữa trên các phi trường địch. Đó là một sự đối đãi tốt của thượng cấp, và chúng tôi hả dạ với “Điệu vũ của tử thần” ở Moresby của chúng tôi.
    Tuy nhiên, đêm hôm đó không ai trong bọn chúng tôi biết rằng ngày hôm sau chúng tôi sẽ được xem một “Điệu vũ của tử thần” thực sự diễn ra, chưa từng thấy trong các vỡ kịch từng diễn trên không. Bảy chiến đấu cơ thuộc không đoàn của chúng tôi hộ tống tám oanh tạc cơ không tập Moresby. Chúng tôi chưa tiến đến phi trường địch thì đã bị 18 chiến đấu cơ địch nhào xuống từ mọi hướng. Đây là một trận đánh phòng vệ mà tôi chưa gặp bao giờ. Chúng tôi bị áp lực đến nỗi khó xoay trở trong việc bảo vệ cho 8 oanh tạc cơ. Mặc dù tôi đã đẩy bật nhiều chiến đấu cơ địch ra khỏi các oanh tạc cơ, nhưng không thể bắn rơi một chiếc nào. Ba chiến đấu cơ địch bị đồng bạn tôi bắn hạ. Trong khi đó, các oanh tạc cơ thả bom không mấy chính xác rồi bay lãng ra để quay về.
    Tôi nhìn thấy một chiếc P.39 lướt thẳng đến nhóm oanh tạc cơ với một tốc độ khủng khiếp, nhưng tôi đành bó tay. Chiếc P.39 nhả một loạt đạn vào chiếc oanh tạc cơ bay cuối cùng, rồi lộn nhào và chúi xuống, vượt hẳn tầm súng của chúng tôi. Chiếc oanh tạc cơ tuông một vệt lửa, sau đó bốc cháy dữ dội, chúi mũi xuống thật mau. Nó mất độ cao nhanh chóng và hình như mất hẳn sự kiểm soát.
    Thình lình, vẫn bốc cháy dữ dội, mũi chiếc oanh tạc cơ khẻ ngước và bắt đầu vượt lên cao. Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc phi cơ bắt đầu lăn tròn, cách “biểu diễn” nầy khó thực hiện được đối với một chiếc Betty. Nó vẫn tiếp tục lướt lên và vẫn lăn tròn cho đến khi biến thành một trái cầu lửa.
    Lửa rớt từng bựng. Ngay cả khi chiếc phi cơ sắp sửa chúi mũi xuống thì một tiếng nổ dữ dội làm rung rinh cả phi cơ của tôi, chiếc oanh tạc cơ biến thành những mảnh vụn rơi lả tả.
    Trong ba tháng Năm, Sáu và Bảy, hầu như các trận không chiến xảy ra liên miên. Cho đến sau chiến tranh, tôi mới biết không đoàn Lae của chúng tôi đã đạt được nhiều thành quả nhứt so với những hoạt động của các đơn vị không quân chiến đấu Nhật Bản khác.
    Vào ngày 23 tháng Năm, bảy chiến đấu cơ Zero chận đánh năm oanh tạc cơ B.25 trên không phận Lae và chôn một chiếc xuống biển, cách phía Nam Salamua 30 dặm. Ngày hôm sau, sáu oanh tạc cơ địch quay trở lại Lae. Không may cho các oanh tạc cơ nầy, mạn lưới báo động từ xa của Lae phát hiện ra chúng, và 11 chiến đấu cơ Zero cất cánh đốt cháy và bắn rơi 5 chiếc, đồng thời gây què quặt cho chiếc thứ sáu. Tôi bay cả hai phi vụ nghinh chiến nầy và trong hồ sơ của Bộ Tư Lịnh Tối Cao Hoàng Gia đã ghi vô điểm thắng của tôi thêm ba oanh tạc cơ vào hai ngày nầy.
    Nhịp độ của các cuộc tấn công gia tăng vào những ngày cuối tháng Năm. Lần đầu tiên, vào ngày 25 tháng Năm bốn oanh tạc cơ B.17 bay tới tấn công Lae với 20 chiến đấu cơ hộ tống. 16 chiến đấu cơ Zero nhào xuống chận đầu lực lượng nầy trên đỉnh dãy núi Owen Stangley. Năm chiến đấu cơ địch bị hạ, nhưng các pháo đài bay thoát thân an toàn. Ba ngày sau, năm oanh tạc cơ B.26 trở lại Lae. Tôi ghi một điểm nữa. Và vào ngày 9 tháng Sáu, tôi gởi thêm hai chiếc B.26 xuống đại dương.
    Ngày giờ hình như không còn phân chia rõ rệt nữa. Đời sống trở thành một chuỗi bất tuyệt của những cuộc càn quét trên không, của những phi vụ hộ tống oanh tạc cơ đến Moresby, của những cuộc chạy đua cất cánh để tiếp đón kịp thời các đối thủ đến viếng thăm. Đồng Minh hình như có mọt nguồn tiếp tế phi cơ vô tận. Tuần nào họ cũng chịu đựng sự thiệt hại nặng nề, tuy vậy phi cơ của họ vẫn đến đều đều.[/spoil]
    CHƯƠNG XIII[spoil]


    Trước đó, vào ngày 20 tháng năm, chúng tôi đối đầu với đối phương trong một trận không chiến cao nhứt lịch sử khi chỉ huy trưởng không đoàn hướng dẫn 15 chiến đấu cơ từ Lae bay đến Moresby ở cao độ 30.000 bộ trong suốt một tiếng rưỡi đồng hồ. Chúng tôi duy trì cao độ nầy để lấy yếu tố bất ngờ, và chúng tôi cũng đã bất ngờ khi đụng đầu với một đội hình địch quân cũng bay cùng một cao độ như chúng tôi.

    Tôi đã hồ nghi khả năng chiến đấu của phi cơ Zero ở cao độ nầy. Riêng tôi có thể đạt đến cao độ 37.720 bộ với chiến đấu cơ Zero, nhưng phải mang mặt nạ dưỡng khí và một chiếc áo ấm. Ở cao độ đó, cần điều khiển của phi cơ rất nặng nề và không thể nhích độ cao lên một tấc nào được nữa. Bởi vậy chiến đấu với một chiếc Zero ở độ cao 30.000 hình như không được khôn ngoan lắm.

    Có mười chiến đấu cơ địch, loại P.39 kiểu mới. Tôi dẫn đầu cuộc tấn công và xáp chiến tức khắc. Mười bốn chiến đấu cơ Zero khác đối đầu với nhóm phi cơ còn lại.

    Cần kiểm soát nặng nề và chậm chạp trong không khí loãng, hình như mọi cử động của tôi đều trì trệ. Lồng ngực của tôi như muốn rạn nứt và mặt nạ dưỡng khí tuột ra khỏi cằm tôi.

    Dường như khi một người đã tập trung tất cả sức mạnh vào một hành động quyết định, ngay cả khi ngộp thở vì thiếu dưỡng khí cũng không thể nào ngăn nổi hành động của hắn. Giữa lúc tôi như bất tỉnh, tôi cảm thấy tay tôi vẫn nắm chặt cần điều khiển và giữ cho phi cơ chúi xuống trong vòng xoay hình trôn ốc. Khi đầu óc tôi đã tỉnh táo và nhìn thấy trở lại, phi cơ đã xuống ở cao độ 20.000 bộ. Tôi vừa xoay mình tức khắc, vì cảm giác phi cơ địch bám sát theo, vừa chuẩn bị hoả lực. Nhưng phi công đich cũng gặp rắc rối. Có lẽ hắn xoay theo tôi quá ngặt hoặc có thể hắn cũng mất dưỡng khí như tôi, cho nên cũng cùng cao độ 20.000 bộ, nhưng phi cơ của hắn xoay theo hình trôn ốc chầm chậm. Không bỏ lỡ dịp may, tôi xông tới ngay khi chiếc phi cơ có vẻ lấy lại thăng bằng, cánh hơi ngước lên với các họng súng rực lửa hướng về phía tôi. Tôi lạng ra nhanh như chớp, bấy giờ chiếc P.39 đang ở trên và phía bên phải tôi, và tôi ấn cò đại bác. Một viên đạn cắt đứt phi cơ địch ra làm hai. Ngoài tôi chỉ có Ota bắn hạ được một chiếc P.39 khác vào ngày hôm đó.

    Ngày hôm sau, đầu tiên tôi hạ được một chiến đấu cơ địch mà không cần bắn một phát súng nào, trong một trận không chiến căng thẳng cao độ. Khác hơn lần trước, lần này ngày 26 tháng năm, chúng tôi đụng nhau ở một cao độ thật thấp, chỉ sát trên ngọn cây. Một nhóm 16 chiến đấu cơ Zero chạm trán một đội hình đối phương kì lạ. Bốn oanh tạc cơ B.17 bay trong đội hình hàng dọc khoảng 20 chiến đấu cơ P.39 chia thành từng nhóm nhỏ hai hoặc ba chiến đấu cơ bao xung quanh các pháo đài bay nầy. Chúng tôi ở phía dưới đối phương và tấn công bằng cách vượt thẳng đứng lên mà họ không hay biết. Tôi đốt ngay một chiếc P.39, và bầu trời như nổ tung trong một trận hỗn chiến giữa phi cơ và phi cơ.

    Hầu hết chiến đấu cơ địch đều thối lui và lạng xa các chiến đấu cơ của chúng tôi. Tôi bám sát đuôi của một chiếc P.39 đang chúi xuống khu rừng. Viên phi công tỏ ra sợ hãi, hắn bay có vẻ như quét trên ngọn cây và giống như cắt cỏ khi hắn xoay thân, vượt lên, chúi xuống với tôi đeo dính sau đuôi. Mỗi lần hắn vượt lên, xoay ngang hoặc lăn tròn, tôi cắt thẳng vào thân phi cơ của hắn. Tôi chụp ngay một viên đạn khi chiếc Airacobra lạng ra bằng cách lăn tròn về phía trái. Viên phi công chúi xuống ngay và nhắm về phía một thung lũng đầy cây cối, xung quanh toàn là dốc đá cao chớn chở.

    Trước khi tôi nhận biết sự nguy hiểm, tôi đã lọt vô một hẻm núi, đeo dính một bên đuôi của chiếc P.39. Không có thời giờ để tập trung hoả lực, tất cả những gì mà tôi có thể làm là tránh né các mõm đá, khít khao trong đường tơ kẻ tóc. Hiểm nguy khiến tôi quên hẳn mục đích chính của tôi. Mồ hôi đổ ra như tắm. Tiếng động cơ máy bay hình như vang vang như sấm động bên tai tôi.

    Bỗng nhiên phía trước, một gộp đá treo lơ lửng án mất lối đi của chúng tôi. Lập tức viên phi công địch dựng đứng phi cơ để vượt lên, nhưng quá muộn. Cánh chạm vào đá, chiếc phi cơ lộn nhào, và một tiếng nổ khủng khiếp vang lên phía dưới hố sâu.

    Tôi kéo sát cần điều khiển về phía sau với tất cả sức mạnh của đôi tay và giữa thật chặt. Chiếc Zero quất ngược đầu lên thật dữ đội, và chỉ trong vòng một cái nháy mắt nhưng dài dằng dặt, chiếc phi cơ lướt lên khỏi gộp đá, có thể nói là chỉ trong gang tấc.

    Tôi mất một vài phút mới lấy lại bình tĩnh, và đưa tay vuốt mồ hôi đổ xuống như tắm trên mặt. Gia tăng tốc lực và vượt lên cao từ từ. Đó là chiến thắng thứ 37 của tôi, mặc dù tôi không đích thân tiêu diệt chiếc phi cơ nầy, nhưng trận không chiến vừa qua là một trong những trận không chiến tổn sức nhất trong đời tôi. Sau đó, tôi được biết Nishizawa và Ota cũng lâm vào tình trạng chiến đấu không khác gì tôi. Họ rượt đuổi hai chiếc P.39 xuống một triền núi và hầu như lâm hiểm trong lúc vượt lên khi hai đối thủ phía trước của họ vỡ tan. Đêm đó, doanh trại của chúng tôi ồn ào nỗi vui qua những biến cố trong ngày.

    Suốt tuần lễ cuối cùng của tháng năm, không đoàn Lae tung hết sức mạnh càn quét khu vực Moresby, và trong vòng ba ngày của cuộc không chiến dữ dội, chúng tôi đã thâu đạt được những thành quả không thể tưởng tượng được. Qua chiều hướng nầy, Moresby được xét đoán đã đến lúc nhận lãnh một cú đấm dứt khoát. Vào ngày 1 tháng Sáu, 18 oanh tạc cơ cất cánh từ Rabaul, hộ tống bởi 30 chiến đấu cơ Zero của Lae và 11 chiếc khác của Rabaul, cố gắng san bằng pháo đài huyết mạch của địch quân lần cuối. Chúng tôi đã tin tưởng một cách chắc chắn rằng Đồng Minh không thể đưa ra một sự chống đối mạnh mẽ sau các trận đánh liên tục. Chúng tôi đã sai lầm. Hai mươi chiến đấu cơ địch đã gầm thét xông vào lực lượng to lớn của Nhật Bản. Một lần nữa, một trận đánh “xáp lá cà” giữa chiến đấu cơ và chiến đấu cơ xảy ra. Bảy phi cơ địch rớt trong lửa đỏ, một chiếc do súng của tôi gây ra. Nhưng đối phương đã đạt mục đích: phân tán lực lượng oanh tạc cơ của chúng tôi và bẽ gãy sự chính xác của cuộc không tập.

    Trên đường trở về Lae, một oanh tạc cơ của chúng tôi rớt khỏi đội hình, bay lạng quạng trong không khí. Tôi và năm chiến đấu cơ khác phải bay tụt lại để bao che. Chiếc oanh tạc cơ lê thân chậm chạp. Những lỗ đạn đại bác lỗ chỗ trên cánh và thân phi cơ, coi không khác nào một cái rây. Chiếc phi cơ vẫn còn bay được, đó là một phép lạ.

    Phi công trưởng và phụ nằm dài trên ghế trong những vũng máu. Tôi không thể nhìn thấy bốn người khác thuộc phi hành đoàn. Chỉ có chuyên viên cơ khí vật lộn với cần điều khiển, cố giữ cho phi cơ thăng bằng. Hiển nhiên hắn không bị thương, còn những người khác có thể đã chết hoặc bị thương nặng.
    Bằng mọi cách, chuyên viên cơ khí đã đưa được chiếc phi cơ lảo đảo như người say rượu về tới phi trường Lae. Hắn đã làm được một công việc đáng nể phục. Rõ ràng hắn bay với kiến thức học lóm. Việc nầy đã đành là khó khăn đối với những người chưa được huấn luyện lái phi cơ, nhưng còn khó khăn hơn nữa khi lái một chiếc phi cơ bị hư hại trầm trọng. Lúc ấy chiếc oanh tạc cơ đã tiến vào không phận Lae và anh chuyên viên cơ khí không còn biết phải làm gì thêm nữa. Hắn có thể giữ cho phi cơ bay, nhưng đáp xuống là cả một vấn đề.

    Chiếc phi cơ què quặt đảo chầm chậm trên phi trường hết vòng nầy đến vòng khác, và anh chuyên viên cơ khí ngắm nghía phi đạo nhỏ hẹp phía dưới. Không có cách nào khác để giúp đỡ con người bồn chồn nầy. Chúng tôi bay sát hơn và cố chỉ cách cho hắn đáp xuống, nhưng mọi khi hắn rời tay khỏi cần điều khiển, chiếc phi cơ chao đi chao lại một cách nguy hiểm. Dần dần hắn giảm được tốc độ và bắt đầu hạ thấp xuống. Chiếc phi cơ bay vòng ra ngoài biển, và hạ xuống quá mau khi xoay lại để hướng đến phi đạo. Tôi nín thở. Chiếc phi cơ xốc dữ dội và bắt đầu rơi xuống tuồn tuột. Nó sẽ tan tành trong nháy mắt.

    Một phép lạ xảy ra! Viên phi công gượng ngồi dậy, gương mặt trắng bệt lốm đốm máu. Hắn tựa một cách nặng nhọc vào vai của anh chuyên viên cơ khí. Chỉ một giây sinh tử, hắn ấn nút bộ phận đáp bật ra, phi cơ lấy lại tốc lực và bánh xe chạm trên mặt phi đạo. Trong nháy mắt, nó va vào hai chiến đấu cơ đang đậu vỡ tan, rồi bật nhào nửa vòng và đứt làm hai đoạn.

    Chúng tôi đáp lập tức sau đó, cán trên các mảnh vụn nhưng lạ lùng là không có chiếc phi cơ nào bốc cháy. Viên phi công của chiếc oanh tạc cơ chỉ gượng đứng dậy được một phút rồi ngã ra bất tỉnh. Phi công phụ tử thương. Chuyên viên cơ khí bị thương trầm trọng ở giò, phải khiêng ra khỏi phi cơ. Tất cả nhân viên khác thuộc phi hành đoàn đều mang thương tích nặng. Nhát chổi chiến đấu cơ vẫn tiếp tục quét, và suốt hai ngày kế tiếp chúng tôi bắn rơi thêm ba chiến đấu cơ địch. Nhưng không một người nào ở Lae biết được các chiến thắng liên tục của chúng tôi trái ngược một trời một vực với cuộc chiến bại đầy bi thảm của một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản to lớn ở Midway vào ngày 5 tháng sáu. Đông Kinh tuyên bố lực lượng đặc nhiệm của chúng tôi đạt được chiến thắng quan trọng. Bộ Tư Lệnh Hoàng Gia đã giảm thiểu sự mất mát của chúng tôi xuống một mức độ vô nghĩa. Tuy nhiên, lần đầu tiên chúng tôi hồ nghi sự chính xác của các tin tức. Lý do dễ hiểu là chúng tôi biết Midway bị địch quân đổ bộ và chiếm đóng. Nếu hạm đội của chúng tôi rút lui mà không đẩy bật được cuộc chiếm đóng đó, không cần nhìn thấy cũng biết những gì đã xảy ra.

    Sau nầy chúng tôi được biết bốn trong số các hàng không mẫu hạm mạnh nhứt và lớn nhứt của chúng tôi, cùng với 200 phi cơ và hầu hết phi công cũng như hàng mấy ngàn thủy thủ, đã bị chôn vùi xuống đáy biển.
    Từ ngày 5 đến 15 tháng năm, một sự yên tĩnh kì dị được nhìn thấy trên mặt trận New Guinea. Sự yên tĩnh nầy chỉ bị phá vỡ bởi một cuộc không kích duy nhất ở Lae vào ngày 9. Điểm thắng của tôi ghi thêm hai oanh tạc cơ B.26.
    Vào ngày 16 tháng năm, cuộc chiến trên không bùng nổ dữ dội trở lại. Đó là một ngày chiến đấu cơ của chúng tôi làm chủ chiến trường, khi 21 chiến đấu cơ Zero vồ ba nhóm phi cơ lơ đãng của địch quân.

    Chúng tôi đụng với nhóm 12 chiến đấu cơ đầu tiên của địch bằng cách bổ nhào xuống một lượt, phá tan đội ngũ của địch quân. Tôi bắn rơi một chiếc, và năm phi công khác mỗi người ghi một điểm. Sáu chiến đấu cơ địch còn lại chúi xuống và chạy thoát.
    Trở lên cao độ cũ, chúng tôi nhào ra khỏi ánh mặt trời đâm thẳng vô nhóm 12 chiến đấu cơ thứ hai. Với cách đánh bất thần được lập lại nầy, chúng tôi hạ thêm ba chiến đấu cơ địch. Tôi lại ghi một điểm.

    Đợt phi cơ thứ ba, gồm khoảng 10 chiếc lướt đến ngay khi chúng tôi dọn dẹp xong nhóm thứ hai. Chúng tôi chia ra làm hai nhóm, một nhóm 11 chiếc Zero vượt lên cao để đánh xuống, một nhóm gồm 10 chiếc vẫn giữ độ cao như cũ. Các đội hình toả rộng trên khắp bầu trời Moresby. Phi cơ địch là loại P.39 mới, bay mau lẹ hơn loại cũ nhiều. Tôi nhảy vô một đối thủ, và hắn đã làm cho tôi ngạc nhiên qua lối vung thật lẹ ra khỏi hướng bay mỗi lần tôi khai hỏa. Chúng tôi rượt đuổi nhau vòng quanh. Viên phi công của chiếc Airacobra nầy vừa chạy vừa xoay tít, lộn nhào, vượt lên, chúi xuống, xoắn vòng, rớt theo hình trôn ốc, và nhiều cách khác. Tài nghệ của hắn tuyệt luân. Với một chiếc phi cơ tốt hơn, đáng lẽ hắn đã lấy mạng tôi từ lâu, nhưng tôi không để hắn hở tay. Tôi cứ đeo dính cách phía sau đuôi hắn không đầy mười tám thước. Cuối cùng tôi lăn về phía trái một vòng, tung ra hai viên đại bác tầm ngắn, và chiếc P.39 biến thành cây đuốc.

    Đó là chiến thắng thứ ba trong ngày. Chiến thắng thứ tư hầu như tiếp ngay sau đó và dễ dàng một cách đáng buồn cười. Một chiếc P.39 xẹt đến trước mặt tôi và chỉ lo chú ý đến một chiếc Zero khác đang truy đuổi ráo riết phía sau. Chờ cho chiếc phi cơ đến đúng tầm súng, tôi rót ngay 200 viên đại liên vô mũi. Nó lộn nhào như chớp để tránh né. Tôi bồi thêm loạt đạn đại liên thứ hai vô bụng. Nó vẫn chưa chịu rớt. Một loạt đại liên thứ ba chụp trúng buồng lái của chiếc phi cơ đang còn lộn nhào. Kiếng che gió vỡ tan, và tôi thấy viên phi công gục về phía trước. Chiếc P.39 xoay tít rồi chúi xuống mau, và nổ tan trong khu rừng phía dưới.

    Hạ bốn chiến đấu cơ địch trong một ngày. Đó là thành tích của riêng tôi, đóng góp vào thành tích chiến thắng vĩ đại nhứt chỉ trong vòng một ngày hoạt động của phi đoàn Lae, với tổng số 19 chiến đấu cơ địch bị tiêu diệt thực sự.

    Chiến thắng như vậy vẫn chưa đủ. 10 oanh tạc cơ B.26 lại mò đến căn cứ của chúng tôi. Phi cơ đã chọn giờ xấu, vì 19 chiến đấu cơ Zero đã rời khỏi mặt đất trước khi chúng đến. Chúng tôi không hạ được chiếc nào, nhưng gây hư hại hầu hết và phá hỏng kế hoạch oanh tạc của địch quân. Trên đường truy đuổi, chúng tôi đụng đầu với 10 chiến đấu cơ P.39. Hiển nhiên 10 phi cơ nầy đáp lại lời kêu cứu của các oanh tạc cơ. Chúng tôi đốt một chiếc.

    Căn cứ Lae tưng bừng với chiến thắng đêm đó. Tất cả các phi công được phát thuốc hút thả giàn. Chuyên viên cơ khí bu quanh chúng tôi để chia xẻ niềm vui. Chúng tôi còn được tin sẽ có 5 ngày phép ở Rabaul. Tin nầy khiến tôi khoan khoái hơn hết. Không những tôi quá mệt mỏi sau những ngày chiến đấu liên miên, nhưng các chuyên viên cơ khí muốn có thời giờ để sửa chữa chiếc chiến đấu cơ của tôi. Họ gọi tôi ra để chỉ cho coi nhiều lỗ đạn trên cánh và trên thân phi cơ, và tôi đã thót ruột khi nhìn thấy những lỗ đạn chạm thành một hàng phía sau phòng lái, cách đầu tôi không đầy hai phân.

    Hồi năm 1942, không có một phi công chiến đấu nào của Nhật bận áo giáp, và phi cơ cũng không được chế tạo với những chỗ bọc sắt để chống đạn như phi cơ của Hoa Kỳ. Nếu đối phương sớm khám phá điều nầy, chỉ cần một viên đại liên 50 bắn vô thùng chứa xăng, một chiếc Zero sẽ biến thành ngọn đuốc lập tức. Tuy biết như vậy, trong thời gian nầy không có một phi công nào của chúng tôi mang dù khi bay. Vấn đề nầy người Tây Phương đã diễn dịch sai lầm khi cho rằng cấp lãnh đạo Nhật Bản đã coi rẻ mạng sống của chúng tôi, rằng tất cả các phi công Nhật bị vắt chanh bỏ vỏ và bị coi như những món đồ vật hơn là con người. Diễn dịch quá nhiều tưởng tượng. Tất cả các phi công chúng tôi đều được phát một cây dù khi bay và không mang dù là quyết định riêng của chúng tôi, không có bộ chỉ huy cao cấp nào ra lịnh như vậy. Thực ra, chúng tôi được giới chỉ huy cao cấp thúc giục, tuy nhiên không ra lịnh phải mang dù khi chiến đấu, và tại một số phi trường, vị chỉ huy trưởng căn cứ bắt buộc các phi công phải mang dù. Gặp trường hợp sau nầy, phi công đem theo dù nhưng chỉ để trong phi cơ hoặc dùng làm nệm lót để ngồi.

    Mục đích duy nhất khiến chúng tôi không mang dù là nhằm tránh vướng víu tay chân. Vả lại đa số các trận không chiến của chúng tôi đều xảy ra trên đất địch, nếu có nhảy dù xuống đất an toàn thì cũng sẽ bị bắt giữ. Trong các điều luật của quân đội Nhật Bản, hoặc trong các điều tâm niệm của giới Samurai, không có dòng nào ghi hai chữ “Tù binh” hết. “Không tù binh”. Một kẻ ra đi hoặc là chết hoặc là trở về. Không có phi công chiến đấu nào gọi là can đảm mà lại để cho địch quân bắt giữ bao giờ. Việc nầy hoàn toàn không được nghĩ đến. Tuy nhiên, quả thật là khó chịu vô cùng khi nhìn thấy một hàng lỗ đạn chỉ cách đầu tôi có mấy phân.

    Đêm đó tôi được Bộ Tư Lệnh Hải Quân Hoàng Gia xác nhận con số bốn nạn nhân trong ngày của tôi. Đây không phải là trường hợp duy nhất của Hải Quân Hoàng Gia. Tôi biết có nhiều phi công hải quân khác đã lập được thành tích nầy hoặc nhiều hơn nữa. Tính đến hiện tại, tổng số phi cơ bị tôi hạ là 43 chiếc.

    Nishizawa trở thành phi công đại tài nhất của Nhật Bản với tổng số 103 phi cơ địch bị bắn rơi, và thành tích tột cùng của anh lập được vào ngày 5 tháng tám ở Guadalcanal khi anh hạ một lúc sáu chiến đấu cơ của hải quân Hoa Kỳ, trung sỹ phi công hải quân Nhật Kenji Okabe hạ một lúc bốn chiếc F4F Wildcat, TBF Avenger và SBD Dauntless qua một loạt trận không chiến trong ngày ở Rabaul. Okabe đã đáp xuống ba lần để lấy nhiên liệu và đạn dược trong suốt cuộc chiến đấu của ngày đó, lập được thành tích vô song nầy cho hải quân.

    Tuy nhiên, hầu như tất cả những phi công đạt được chiến công trên đều bị thiệt mạng không lâu sau đó trong lúc chiến đấu. Có hai trường hợp ngoại lệ, đó là trường hợp của chính tôi và Nishizawa. Nhưng mỉa mai thay, Nishizawa lại bị thiệt mạng vào tháng chín năm 1944 trên không phận Cebu ở Philippine, mà không bắn được phát súng tự vệ nào. Nhiều chiến đấu cơ Hellcat đã túm được anh trong một vận tải cơ DC3 không hộ tống và võ trang. Chiếc vận tải cơ bị bắn cháy và chấm dứt cuộc đời của viên phi công vĩ đại nhất của Nhật Bản một cách tăm tối.

    Đêm đó tôi được lịnh trình diện Chỉ Huy Trưởng căn cứ, một việc hiếm xảy ra. Trong phòng của đại tá Saito, tôi còn nhận thấy có mặt đại úy Sasai và chỉ huy trưởng không đoàn, trung tá Nakajima. Cả hai vị sỹ quan chỉ huy đều có vẻ buồn bã.

    Đại tá Saito nói: “Tôi muốn báo cho anh biết tin nầy và tôi làm như vậy là bởi yêu cầu của trung tá Nakajima. Đây là một việc không mấy gì vui vẻ đối với tôi. Hồi đầu tháng nầy, tôi có yêu cầu Tổng Hành Dinh Đông Kinh ân thưởng cho đại úy Sasai về tài ba lãnh đạo phi đội của ông trong chiến đấu. Đồng thời tôi cũng yêu cầu Đông Kinh công khai thừa nhận các thành quả phi thường mà Sakai đã đạt được trên mặt trận. Những thành quả nầy, theo chúng tôi biết, đã khiến anh trở thành phi công hàng đầu của toàn thể phi công hải quân Hoàng Gia. Tuy nhiên, những lời yêu cầu nầy đã bị bác bỏ. Đông Kinh nhận thấy không thích hợp trong việc phá bỏ tiền lệ. Lịch sử chúng ta chưa bao giờ có một vị anh hùng nào còn sống bao giờ,” Saito gằn giọng “và hiển nhiên Đông Kinh không muốn có sự thay đổi nào trong thời gian nầy. Họ đã từ chối,” ông nói thêm với giọng buồn bã “ngay cả ân thưởng một huy chương hoặc thăng cấp cho các anh cũng không”.

    Ông kết luận:

    “Tôi không muốn tiết lộ các chi tiết nầy cho các anh, e rằng các anh sẽ bàn tán nầy nọ về hành động của Bộ Tư Lệnh Tối Cao. Nhưng có điều quan trọng không kém đối với tôi là tôi muốn cả hai anh biết rằng tôi, trong tư cách sỹ quan chỉ huy các anh, tôi hoàn toàn công nhận lòng nhiệt thành và sự cố gắng không lúc nào ngưng nghỉ của các anh.”

    Trung tá Nakajima lên tiếng: “Truyền thống của hải quân phải hoặc trái không biết là chỉ ân thưởng huân chương hoặc thăng cấp tại mặt trân cho người đã chết. Dĩ nhiên truyền thống nầy thật là bất lợi cho các anh trong thời gian nầy. Tôi cảm thấy cần phải nói cho các anh biết rằng đại tá Saito cũng đã yêu cầu thăng một cấp cho đại úy Sasai, và thăng cấp thiếu úy cho Sakai.”

    Sasai đáp rằng: “Tôi không biết cách nào để bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với sự ưu ái của hai vị chỉ huy. Tuy nhiên, tôi cần phải nói thêm rằng cả tôi lẫn Sakai không ai bất mãn trước sự quyết định của Đông Kinh. Tôi không thấy có lý do nào để chúng tôi bất mãn. Theo ý kiến của tôi, và tôi chắc Sakai cũng vậy, những thành quả và những chiến thắng trên không của chúng tôi không phải là một mình chúng tôi có thể đạt được. Nếu không có những phi công bên cánh đã bao che cho chúng tôi, nếu không có sự tận tâm của các nhân viên dưới mặt đất, chúng tôi sẽ không thể làm gì được cả. Tôi hài lòng về việc làm có tính cách đồng đội của chúng tôi, và tôi không cảm thấy sự ân thưởng hoặc thăng cấp cá nhân là cần thiết, mặc dù những gì mà hai vị chỉ huy đã làm khiến cho chúng tôi rất lấy làm vinh dự”. Sasai đã nói lên tất cả những gì tôi muốn nói, và tôi chỉ biết gật đầu đồng ý.

    Chính sách không tuyên dương công trạng cá nhân của hải quân vẫn được giữ triệt để cho đến cuối cuộc chiến. Tuy nhiên, vào tháng ba năm 1945 có một sự phá lệ đặt biệt trong chính sách nầy khi đô đốc Soemu Toyoda, Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp, thốt lên lời khen ngợi các chiến công phi thường của trung sỹ Shoichi Sugita và tôi, bấy giờ là một thiếu úy. Nhưng lúc ấy sự khen ngợi nầy đã trở thành vô nghĩa. Những phi công vĩ đại của hải quân chúng tôi, Nishizawa, Ota, Sasai và nhiều người khác, đã không còn nữa. [/spoil]
    Chương XIV[spoil]


    Trong suốt tháng sáu, chúng tôi chạm trán với một số lượng chiến đấu cơ và oanh tạc cơ đối phương đông đảo chưa từng thấy. Chúng tôi được nói rằng đối phương đang gây dựng lại một sức mạnh không quân quan trọng trong khu vực, và rằng từ đây trở về sau chúng tôi phải dốc toàn lực cho những nhát chổi chiến đấu cơ của chúng tôi. Điều nầy có nghĩa là chúng tôi phải tận dụng tất cả chiến đấu cơ Zero hiện có trong tay. Đối phương đã thiết lập thêm nhiều phi trường bên ngoài các cánh rừng trên khắp khu vực Moresby.

    Các cuộc oanh tạc của chúng tôi cũng gia tăng đều đặn về số lượng, và các chiến đấu cơ địch đối đầu với chúng tôi cũng có vẻ quyết tâm hơn. Vào ngày 17 tháng 6, 12 chiến đấu cơ Zero hộ tống 18 oanh tạc cơ Betty, bay đến dội bom hải cảng Moresby, đã đánh bật bảy chiến đấu cơ nghinh chiến của địch quân. Cuộc oanh tạc nầy đã gây cho khu vực bến tàu hư hại nặng và đánh chìm một chiếc tàu chở hàng 8.000 tấn đang buông neo trong cảng. Ngày hôm sau, 9 oanh tạc cơ và 9 chiến đấu cơ Zero khác không tập Kido, nằm gần vịnh Rescar, một căn cứ mới của địch quân ở phía Bắc Moresby. 10 chiến đấu cơ địch đụng độ với 18 phi cơ Nhật, chúng tôi hạ hai chiếc mà không bị tổn thất nào.

    Vào ngày 24 tháng sáu, tôi trở về Lae sau khi nghỉ phép ở Rabaul , và cất cánh sáng hôm sau, nằm trong một lực lượng gồm 21 chiến đấu cơ tấn công Moresby. Tôi hạ được một trong số 11 chiến đấu cơ địch nghinh chiến.

    Sáng kế đó, Rabaul gởi 17 oanh tạc cơ trở lại Moresby với 11 chiến đấu cơ hộ tống. 12 chiến đấu cơ địch nghinh chiến và chúng tôi hạ hai chiếc.

    Đó là cuộc tấn công cuối cùng của tháng sáu. Ngày hôm sau, mưa trút ồ ạt xuống khu vực New Guinea. Mưa không chỉ trói chân chúng tôi mà còn trói chân cả Đồng Minh. Mây che kín bầu trời hầu như suốt mỗi buổi trưa, và ban đêm cuồng phong quét trên khu vực thật dữ dội. Chúng tôi yên lòng nhắm mắt tới sáng.

    Tháng bảy thời tiết bỗng thay đổi bất ngờ. Ngày thì mưa gió nhưng ban đêm bầu trời lại sáng. Oanh tạc cơ địch bay đến hầu như mỗi đêm và trút bom xuống không ngừng nghỉ. Chúng tôi bó tay. Ngay cho dù phi đạo đủ rộng, thích hợp cho các hoạt động đêm, khả năng dạ chiến của chiến đấu cơ Zero thật đáng nghi ngờ. Do đó, chúng tôi vẫn ở trên mặt đất, chui vô hầm trú ẩn và chửi rủa bọn Mỹ.

    Bình minh ngày 2 tháng bảy, chúng tôi đối đầu với một cuộc oanh tạc qui mô. Tiếng còi báo động vang lên, đánh thức giấc ngủ về sáng của chúng tôi. Chúng tôi mặc đồ bay và chạy ùa ra phi đạo. Nhưng không ai chạy tới phi cơ được vì tiếng động cơ máy bay địch đã gầm thét trên đầu. Các phi công hối hả chạy vô hầm trú ẩn gần nhất.

    Chúng tôi có thể nhìn thấy các oanh tạc cơ địch nổi bật trên nền trời đầy sao. Đó là loại Mitchell và Maurader bay không cao hơn 600 bộ.

    Sau khi thả hết bom, các oanh tạc cơ sà thấp trên ngọn cây bắn phá phi đạo và tất cả các cơ sở nằm trong tầm mắt. Đạn địch rải trên phi đạo giống như mưa đá.

    Chỗ tôi nấp không an toàn, tôi bỏ chạy vào các vị trí đặt súng. Tôi đẩy một xạ thủ ra khỏi súng và nói với hắn để tôi thay thế cho. Hắn đeo dính khẩu súng, và từ chối bỏ vị trí. Tôi không để mất thì giờ, tôi đạp hắn ra khỏi chỗ ngồi. Hắn đứng dậy chửi rủa om sòm, nhưng một phi công khác đã chạy vô phía sau tôi nắm cổ xô hắn ra ngoài và lượm các băng đạn lên.

    Đợt xạ kích thứ hai của 6 chiếc Maurader đang lướt đến, tôi lên cò súng và ghìm súng chờ đợi. Một chiếc Maurader bay ngang trên đầu, tôi lia một tràng đạn từ mũi đến láu, nhưng không trúng. Chiếc oanh tạc cơ quành lại chúi ngay xuống vị trí đặt súng, xạ thủ trước mũi của nó đáp trả hoả lực của tôi.

    Đây là kinh nghiệm đầu tiên của tôi trên mặt đất với một chiếc phi cơ tiến thẳng đến trước mặt. Hình ảnh những trái bom xoáy xuống và nổ bùng trên vị trí đặt súng khiến tôi kinh hoảng. Tôi vụt bỏ chạy như giông như gió đến hầm trú ẩn xây bằng bao cát phía sau tôi. Một vài giây ngồi trong đó, tôi cảm thấy như một tên hèn nhát ngù ngờ và vô lý. Chiếc oanh tạc cơ gầm thét trên đầu, lướt qua nhưng không thả bom. Tôi tự rủa thầm và quay lại khẩu súng mà tôi vừa bỏ chạy. Dần dần tôi lấy lại bình tĩnh và quyết không làm thỏ đế nữa.

    Mấy chiếc oanh tạc cơ quay lại, tiếng vang như sấm động, cách mặt đất chỉ 150 bộ, với những họng súng rực lửa. Tôi rót lên một tràng đạn nhắm chiếc phi cơ bay sau. Một giòng khói túa ra, nhưng chiếc phi cơ nầy vẫn bay như thường và rồi biến mất vào chân trời.

    Ngày lên hẳn, sau một giờ dội bom và bắn phá các oanh tạc cơ địch ra đi an toàn. Không một chiếc nào bị hạ cho dù các khẩu cao xạ của chúng tôi bắn gần hết đạn. Bọn phi công chúng tôi mất tinh thần đến nỗi loạt bom cuối cùng vừa dứt mà không ai dám chạy ra phi cơ cất cánh truy đuổi, như chúng tôi thường làm trước đây.

    Hầu hết cơ sở của căn cứ đều bốc cháy. Phi đạo đầy dẫy mảnh vụn, phi cơ không thể cất cánh được dù có cố gắng cách mấy đi nữa. Một việc khó thể tin, nhưng có thật 20 chiến đấu cơ đậu bên cạnh phi đạo hầu như an toàn, chỉ bị đạn và mảnh bom khoét lỗ. Chúng tôi tập trung vô bộ chỉ huy để nhận lịnh, trong lúc 200 binh sỹ dọn dẹp phi đạo.
    Thình lình nhiều liên lạc viên chạy vô Bộ Chỉ Huy cho biết một cuộc tấn công nữa sắp xảy ra. “Hơn 100 phi cơ địch đang bay tới căn cứ!” Một trăm phi cơ ! Một con số khó thể tin nổi! Chúng tôi chưa từng nghe nói đến một cuộc tấn công nào dữ dội như vậy. Các sỹ quan tham mưu có vẻ xao xuyến và ra lịnh cho mọi phi cơ cất cánh tức khắc. Chúng tôi chạy túa ra các chiến đấu cơ, rồ máy chạy ra phi đạo lúc ấy vừa mới dọn dẹp xong, rồi nằm trong vị thế sẵn sàng cất cánh. Sau đó, chúng tôi được báo cáo: “Một trăm chiến đấu cơ địch biến thành một trăm con ****.”. Mọi người đều cười ồ.

    Chúng tôi ăn trưa quanh Bộ Chỉ Huy, vẫn trong tư thế sẵn sàng cất cánh. Lúc chúng tôi còn đang nhai, các liên lạc viên chạy vô cho biết Salamaua báo cáo có 6 oanh tạc cơ B.17 trên đường hướng đến căn cứ chúng tôi. Không ai phí một giây nào. Chúng tôi bỏ ăn, chạy như bay ra phi cơ. Đảo Salamaua chỉ cách Lae mấy phút bay. Các phi công khác đã cho phi cơ chạy ra phi đạo trong khi tôi vẫn nguyền rủa và loay hoay bên chiếc Zero bất động của tôi. Cố gắng cách mấy động cơ cũng không chạy. Tôi leo xuống phi cơ, vì các chiến đấu cơ khác đã ở trên không rồi.

    Tôi chạy băng ngang qua phi đạo hướng đến các hầm trú ẩn. Trung tá Nakajima đưa tay vẫy gọi tôi rối rít và tiếng rít của một trái bom, giống như một lưỡi dao khổng lồ lướt xuống. Tôi bổ chúi vô hầm, càn trên lưng nhiều người nằm sẵn trong đó.

    Tức khắc, thế giới như nổ tung. Tôi cảm thấy một áp lực mạnh mẽ đến từ mọi phía đè nặng trên thân thể tôi, một áp lực khủng khiếp, rồi tất cả biến thành màu đen. Tôi không thấy, không nghe gì nữa, như tôi đã rời xa hẳn thế giới quanh tôi. Tôi cố cử động chân tay nhưng vô ích, tôi đã đông cứng. Có thể nhiều giây hoặc nhiều phút, tôi nghe tiếng gọi văng vẳng của trung tá Nakajima. Tôi cố để la. Tôi nghĩ rằng tôi la lớn lắm, nhưng lạ thay tôi không nghe tiếng của chính tôi. Mũi miệng tôi cứng đờ. Có một cái gì đè nặng trên ngực tôi.

    Tiếng nói của trung tá Nakajima lại văng vẳng: “Hắn bị chôn vùi ! Tìm kiếm đi! Đào lên mau!.”

    Bị chôn ? Dĩ nhiên! Tôi nằm dưới đá và cát. Tôi cố gắng mở mắt. Tối đen. Cơn sợ hãi ùa đến. Tiếng nói của trung tá Nakajima lần nầy lớn hơn: “Gặp cái gì đào cái nầy. Mau lên! Dùng cây cũng được! Cả tay và móng tay cũng dùng luôn, nếu các anh không tìm được vật gì để đào! Mau lên!”.

    Rồi những âm thanh lao xạo vang lên, tiếng xẻng đảo trong cát. Tôi chờ, cố gắng không cựa quậy. Cuối cùng một bàn tay phẩy phẩy trên mặt tôi, rồi cát trên mũi tôi vẹt ra. Ánh sáng mặt trời bổng nhiên tràn ngập.

    Không phải một mình tôi mà ít ra cũng hàng chục người nữa bị chôn vùi lúc trái bom nổ. Nhưng không một ai bị thương. Bộ Chỉ Huy tan nát. Hầu hết số phi cơ còn đậu trên phi đạo trở thành những mảnh vụn, thùng chứa xăng của nhiều chiếc đang bốc cháy. Gần một giờ sau, các chiến đấu cơ đã cất cánh trở về căn cứ. Bọn phi công tiu nghỉu. Sáu pháo đài bay đều bay thoát.
    Chúng tôi phải bỏ ra hai ngày để sửa sang căn cứ sau cuộc tấn ngày 2 tháng bảy. Và ngày 4, chúng tôi sẵn sàng mở trận phục thù trên phi trường Moresby. 21 chiến đấu cơ Zero gặp một ủy ban chào đón bao gồm 20 chiến đấu cơ địch trên không phận Moresby. Chúng tôi ra tay trong lúc chủ nhân vẫn còn chúi xuống. Chín chiến đấu cơ địch chính thức bị hạ, và còn thêm ba chiếc nữa.

    Trên đường trở về, còn cách Lae nhiều dặm tôi đã nghe mùi khói phản phất trong gió. Khi nhìn thấy căn cứ chúng tôi mới biết khói đó bốc lên từ các cơ sở nằm cạnh phi đạo đang bốc cháy. Những cột lửa dâng cao, tỏa khói đen trên khắp khu rừng và bãi biển. Trong lúc chúng tôi vắng mặt, nhiều oanh tạc cơ địch bay đến oanh tạc những kho chứa dầu.

    Khi chúng tôi còn đang lượn vòng để đáp xuống, bảy chiếc Maurader gầm thét trên cánh rừng phía dưới. Khi chúng tôi phát hiện, các oanh tạc cơ đã đến phi trường và những trái bom được thả xuống làm tung đất cát lên không. Lúc chúng tôi chúi xuống để truy đuổi địch, nhiều chiến đấu cơ Zero khác đã rời khỏi phi đạo, và chúng tôi bắt đầu một cuộc rượt đuổi 7 oanh tạc cơ địch như điên cuồng. Nhiều lần chúng tôi suýt đụng nhau trên không, chỉ tránh khỏi trong vòng gang tấc.

    Một chiếc Zero khác vừa cất cánh từ Lae bay bứt ra khỏi nhóm chính, vượt qua mặt các oanh tạc cơ địch và vung trở trong một vòng xoay 180 độ rồi đâm thẳng vào chiếc oanh tạc cơ dẫn đầu, có vẻ như muốn tự sát. Viên phi công không bắn một phát súng nào, chiếc phi cơ lướt đến như một cái bóng, với một tốc độ gần 600 dặm một giờ, rồi lách phía dưới chong chóng bên phải của chiếc Maurader, bay dọc theo thân và hơi nghiêng cánh một chút. Chiếc cánh như lưỡi dao cạo của chiến đấu cơ Zero tiện đứt lìa bánh lái của chiếc Maurader.

    Chiếc Zero vẫn tiếp tục bay thẳng và lướt lên cao, có vẻ như không bị tổn hại, nhưng sau đó chiếc phi cơ bắt đầu một loạt lộn nhào chầm chậm, dần dần mất cao độ và chúi xuống biển hết tốc lực. Vài giây sau đó, chiếc B.26 mất bánh lái xiêng vẹo và lộn nhào liên hồi, phơi bụng lên trên và chúi xuống nước với một tiếng nổ đinh tai nhức óc. Lập tức, sáu chiến đấu cơ xông tới rót đạn đại bác và đại liên như mưa vào thân cánh các oanh tạc cơ còn lại, chôn ngay một chiếc nữa xuống biển. Năm oanh tạc cơ khác chạy thoát.

    Chúng tôi lại đánh Moresby vào ngày 6 tháng bảy, với 15 chiến đấu cơ hộ tống 21 oanh tạc cơ. Chúng tôi dứt điểm 3 chiến đấu cơ địch nữa.

    Từ ngày 7 đến ngày 10 tháng bảy, tới phiên đối phương đánh chúng tôi. Ba đêm liên tiếp, chúng tôi co rút như lũ chuột trong các hầm trú ẩn. Lae trở thành một cơn ác mộng của tiếng bom rền hàng loạt từ đầu sân bay đến cuối sân bay, những bựng khói và lửa, của những căn nhà đổ vỡ, của hàng ngàn mảnh bom bay tua tủa. Chắc chắn, đối phương dự định nghiền nát Lae ra như cám. Tuy nhiên họ không bao giờ đạt được mục đích nầy, chúng tôi vẫn còn chiến đấu cơ khả dụng để bay.

    Ngày 11 tháng bảy, chúng tôi vét hết lực lượng oanh tạc cơ để đánh Moresby một lần nữa. Mười hai chiến đấu cơ Zero hộ tống 21 oanh tạc cơ cất cánh từ Rabaul. Trên đường đi, đại úy Sasai phát hiện sáu chiếc B.17 trực chỉ đến phi trường của chúng tôi. Ông tách ra khỏi nhóm hộ tống cùng với năm chiến đấu cơ khác, trong đó có tôi, Nishizawa và Ota. Chúng tôi gây hư hại cho ba oanh tạc cơ, nhưng không hạ được chiếc nào. Trái lái, một chiếc Zero bị bắn cháy và các chiến đấu cơ khác kể cả tôi lãnh nhiều vết đạn.

    Với chỉ sáu chiến đấu cơ hộ tống, đội hình của các oanh tạc cơ của chúng tôi bị chiến đấu cơ địch phá rối lúc đến mục tiêu, vì vậy bom thả không chính xác, gây thiệt hại cho địch không bao nhiêu.

    Việc nầy khiến cho Sasai bị khiển trách nặng nề. Thật sự ông ta đã vi phạm qui luật căn bản của chiến đấu cơ hộ tống: không bao giờ rời bỏ sự bao che các oanh tạc cơ.

    Chúng tôi bước qua giai đoạn mới của cuộc hành quân chiến đấu cơ vào ngày 21 tháng bảy, khi một sư đoàn bộ binh Nhật đổ bộ Buna, cách phía Nam Lae 110 dặm. Bộ binh lập tức mở đường xuyên qua rừng già dầy bịt trên đảo để tiến đến hải cảng Moresby. Nhìn trên bản đồ, cuộc điều binh không mấy gì khó khăn. Buna giống như một hòn đá được quăng ra từ Moresby để nối liền eo biển giữa nó và bán đảo Papuan.

    Nhưng tình trạng các hòn đảo rừng rậm trên bản đồ hoàn toàn khác biệt với tình trạng nghiệt ngã phía dưới những tàn cây kín như bưng. Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhật đã sai lầm khủng khiếp và chết người. Trước khi cuộc hành quân nầy chấm dứt, Nhật Bản phải chịu đựng một trong những tai họa bi đát và nhục nhã nhất.

    Rặng núi Owen Stangley có lẽ còn cao hơn rặng núi đáng sợ Alps. Nếu chỉ mô tả rừng rậm dầy bịt trên sườn núi không thôi thì e quá dễ dãi. Dưới đời sống của cây cối còn nhiều sự tàn bạo không thể tưởng tượng nổi. Nếu không có những ao đầm, những bãi lầy dưới chân thì cũng phải là những tảng đá bén như dao cạo, những cái dốc thẳng đứng. Đó là không nói đến các loại sên vắt, khí hậu nóng bức đến nghẹt thở, và những chứng bệnh chết người không thể tìm ra nguyên nhân.

    Vượt qua băng tuyết trên rặng Alps có lẽ còn dễ dàng hơn hơn vượt qua rừng rậm của dãy núi Owen Stangley. Đơn vị nào lọt ngay vô một bãi lầy thì kể như tiêu luôn. Khí hậu vừa nóng bức vừa ẩm thấp khiến cho các xây sát hoặc vết thương lở loét thêm. Mọi lỗ chân lông nước tươm ra cho đến khô cạn. Đồ trang bị hư hại, quần áo rách tả tơi, đôi chân bị cắt nát bấy bởi đá, gai góc và lá cây sắc nhọn như dao.

    Trong nhiều tháng ròng rã, lực lượng bộ binh của chúng tôi đã xung đột với một kẻ thù tồi tệ nhứt mà họ chưa từng đối diện bao giờ. Một kẻ thù không có súng ống, không đặt mìn bẩy, nhưng đã lần lượt nuốt trọn hàng ngàn binh sỹ Nhật. Nhiều đơn vị cũng lập được chiến công siêu phàm, tìm đường lần mò đến gần mục tiêu chỉ định, pháo đài Moresby, trong vòng một dặm. Nhưng các đơn vị nầy đều bị tiêu diệt, đa số chết đói vì loay hoay trong rừng rậm không tìm được lối thoát.

    Cuộc tấn công trên bộ là một cựa quậy tuyệt vọng. Trước kia Bộ Tư Lệnh Tối Cao Nhật đã sắp xếp một cuộc tấn công Moresby qui mô, cả hai mặt đường biển và đường bộ. Nhưng kế hoạch nầy đã bị bãi bỏ vào ngày 7 tháng năm, khi hai hàng không mẫu hạm Nhật đụng độ với hai hàng không mẫu hạm của địch trên biển San Hô. Đây là trận hải chiến đầu tiên mà tàu cả hai phía không bắn một phát súng nào. Mỗi lực lượng chỉ sử dụng phi cơ oanh tạc lẫn nhau. Chúng tôi thắng trận nầy, nhưng địch quân đạt được mục đích của họ: cuộc tấn công thủy bộ như dự tính đã bị bãi bỏ.

    Với cuộc đổ bộ của bộ binh ở Buna, Tổng Hành Dinh Rabaul ra lịnh cho chúng tôi đình chỉ các cuộc tấn công Moresby, và tất cả các phi cơ quay sang không yểm cho cuộc đổ bộ. Cuộc đổ bộ Buna, mà sự thất bại đã nhìn thấy ngay khi nó được phát động, chỉ là một phần trong một cuộc hành quân rộng lớn hơn. Sự thất bại nầy không chỉ do rừng rậm gây ra, nhưng còn do sự thiếu hiểu biết về các vấn đề tiếp vận của giới lãnh đạo chúng tôi. Sự yếu kém nầy, phối hợp với những chuyển động vượt trội của đối phương, một thảm họa đã cầm chắc trong tay.

    Cùng lúc với cuộc đổ bộ ở Buna, một đơn vị xung kích đã nhảy lên mũi cực Đông của đảo New Guinea. Làm việc ngày đêm, đơn vị nầy thiết lập được một phi trường mới bên ngoài rừng rậm ở Rabi, với ý định đổ tiếp liệu cho binh sỹ di chuyển từ đầu cầu Buna xuyên qua New Guinea. Thật lạ lùng, địch quân không dội bom lúc công việc thiết lập phi trường nầy còn dở dang, nhưng họ ghi nhận đầy đủ bằng không ảnh do phi cơ thám thính chụp. Tuy nhiên, khi binh sỹ của chúng tôi vừa hoàn tất nhiệm vụ, lực lượng địch đánh úp bất ngờ, và vét trọn đơn vị phòng giữ của chúng tôi. Đó là một cú đánh đẹp mắt, Nhật Bản thiết lập phi trường để cho phi cơ của Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi sử dụng.

    Nhưng đối phương không hài lòng với phi trường của Nhật có vẻ đơn sơ nầy. Công binh của họ thiết lập những phi đạo mới trong khu rừng với một tốc độ di chuyển đáng kinh ngạc. Oanh tạc cơ hạng trung và chiến đấu cơ của họ di chuyển trên các phi đạo mới nầy, ngay khi công việc còn đang dở dang. Và các cuộc không tập càng lúc càng gia tăng khối lượng phi cơ và bom. Không đêm nào mà không có những chiếc Mitchell và Marauder xuất hiện. Trong ngày, phi đoàn Lae phải cắt đặt thế nào để luôn luôn có 6 đến 9 chiến đấu cơ hoạt động trên không phận Buna đồng thời phải duy trì một lực lượng để bảo vệ phi trường. Nhiệm vụ bao che ở Buna quá sức chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn tìm cách ngăn chặn các cuộc không kích qui mô của đối phương nhằm tiêu diệt các đầu cầu đã được thiết lập.

    Ngày 22 tháng bảy, trong một phi vụ bao che gồm sáu chiến đấu cơ Zero, tôi bắn hạ thêm hai phi cơ địch, nâng tổng số nạn nhân của tôi lên 49.

    Một vài tuần kế đó, chúng tôi vẫn giữ nhiệm vụ bao che khu vực bãi biển Buna, nhưng vào hạ tuần tháng by chúng tôi phải đương đầu với một giai đoạn mới và xa lạ của cuộc chiến. Lịnh đưa xuống từ Bộ Tư Lệnh Tối Cao. Đại tá Saito chỉ thị mọi phi công phải mang dù trong khi chiến đấu. Tôi có một cảm giác kỳ lạ với cây dù phía sau lưng và những sợi dây buộc quanh thân. Tôi chưa bao giờ bay với tình trạng như vậy trước đây.

    Một lịnh khác đã làm chúng tôi ngơ ngác không khác gì lịnh mang dù. Đại tá Saito ban xuống, từ nay trở về sau không có chiến đấu cơ nào được vượt qua rặng núi Owen Stangley, và lịnh nầy không giải thích lý do.

    Chỉ có một dịp duy nhứt, vào ngày 26 tháng bảy, đã khiến tôi thấy lại hải cảng Moresby. Chúng tôi nghinh chiến 5 oanh tạc cơ Maurader trên không phận Buna, tôi bắn hạ hai chiếc rồi cùng với Sasai và Endo truy đuổi những chiếc còn lại. Chúng tôi vượt qua bên kia rặng núi, trái với lịnh được đưa ra. Đó là lần cuối cùng chúng tôi bay trên căn cứ của địch quân. Tình thế chúng tôi thay đổi nhanh chóng. Vào cuối tuần lễ đầu tiên của tháng tám, chúng tôi bắt đầu đối diện với những tình trạng mà chúng tôi chưa bao giờ biết đến trước đây. Người Mỹ đã phát động một cuộc đổ bộ qui mô lên đảo Guadalcanal.

    Ngày 29 tháng bảy, đại úy Joji Yamashita trở về Lae, sau một phi vụ tuần thám ở Buna, với một tin tức gây xôn xao cả căn cứ. Lần đầu tiên các phi cơ của ông bị phi cơ của hải quân Hoa Kỳ tấn công. Đại úy Yamashita đã báo cáo với đại tá Saito và trung tá Nakajima rằng chín chiến đấu cơ Zero của ông đã chạm trán với một lực lượng hỗn hợp bao gồm các loại chiến đấu cơ Grumman F4F Wildcat và oanh tạc cơ SBD Dauntless của Hoa Kỳ, được hướng dẫn đến Buna bởi các chiến đấu cơ P39. Theo xét đoán của ông lực lượng nầy phát xuất từ Rabi. Đây là lần đầu tiên các phi cơ của hải quân Hoa Kỳ xuất hiện trong khu vực chiến đấu của chúng tôi.

    Tin tức về một hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ đã di chuyển vô hải phận New Guinea là một điềm dữ, và các sỹ quan tham mưu của chúng tôi có vẻ xao xuyến. Nếu người Mỹ đưa được hàng không mẫu hạm vô hải phận nầy để phóng ra các cuộc tấn công vào Lae, Buna và Rabaul thì chiến thắng của họ ở Midway kể như có thật và đồng thời phủ nhận những mất mát quan trọng của họ trong trận đánh ở biển San Hô. Trước đó, Đông Kinh đã công bố rằng hạm đội của chúng tôi đã tiêu diệt hết hàng không mẫu hạm địch trong các cuộc đụng độ ở biển San Hô và Midway, nếu sự thật đúng như vậy, tại sao lại có một hàng không mẫu hạm trong vùng lân cận của chúng tôi? Chúng tôi bắt đầu nghi ngờ những công bố chiến thắng mà Đông Kinh luôn luôn lập đi lập lại.

    Tuy nhiên, đa số phi công chiến đấu ở Lae đã ghi nhận tin tức với một thái độ khác biệt hoàn toàn. Đêm đó, chúng tôi đã đặt nhiều câu hỏi với các phi công của đại úy Yamashita. Có bao nhiêu phi cơ của hải quân Mỹ? Loại chiến đấu cơ Wildcat có tốt hơn loại chiến đấu cơ P39 và P40 không? Các phi công hải quân Mỹ tài giỏi bậc nào?

    Những câu giải đáp của họ đã làm chúng tôi phấn khởi. Phi đội của Yamashita đã hạ 3 oanh tạc cơ Dauntless, 5 chiến đấu cơ Wildcat và 1 chiếc P39 mà không mất một chiếc Zero nào. Do đó những gì có thể xảy ra ở Midway, ở biển San Hô hoặc bất cứ nơi nào khác không còn quan trọng đối với chúng tôi nữa. Chúng tôi chỉ cần biết trong bốn tháng liên tiếp vừa qua chúng tôi luôn luôn chiến thắng, và các phi cơ của hải quân Hoa Kỳ xuất hiện chẳng qua là giúp cơ hội cho chúng tôi chiến thắng nữa.

    Ba ngày liền các phi cơ mới của địch không thấy xuất hiện ở Buna. Vào ngày 30, chín oanh tạc cơ B.17 tấn công khu vực đầu cầu đổ bộ, và cuộc tấn công xem như đã đạt hiệu quả. Chín chiến đấu cơ của chúng tôi chỉ bắn rơi được 1 oanh tạc cơ địch. Tôi đã gặt hái được chiến thắng nầy khi tôi đụng đầu với chiếc oanh tạc cơ trên mũi Nelson vớt tất cả hoả lực tập trung vào mũi của nó. Chắc chắn viên phi công chính và phụ đều thiệt mạng, vì chiếc phi cơ khổng lồ đâm chúi xuống biển. Đó là một trong những trận đánh khó khăn nhứt của tôi, vì tôi trở về Lae với nhiều vết thương ở cánh tay phải do đạn địch gây ra. Tôi chỉ thoát chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc, và các chuyên viên cơ khí phải làm việc suốt đêm để vá lại hàng chục lổ đạn ở thân và cánh chiếc phi cơ của tôi.

    Vào ngày 2 tháng tám, hình ảnh của những chiếc phi cơ mới của hải quân Hoa Kỳ biến mất trong đầu óc của tôi. Khi ngày sắp hết, lúc bay quần trên Buna ở cao độ 12.000 bộ, chúng tôi phát hiện 5 chấm nhỏ li ti nổi bật trong mây, cách đầu cầu đổ bộ nhiều dặm. Hình như là những chiếc pháo đài bay và ở cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi bay dọc theo phi cơ của Sasai và chỉ những oanh tạc cơ đang đến. Ông gật đầu và chúng tôi cùng báo hiệu cho các phi công khác. Chúng tôi vẫn giữ đội hình, bay vòng quanh chầm chậm cho đến khi tiếng máy của năm oanh tạc cơ nghe thấy rõ ràng. Ông giơ tay lên, lắc cánh phi cơ ra lệnh phá vỡ đội hình chữ V của chúng tôi và tấn công trực diện theo hàng dọc. Các bình xăng phụ của chúng tôi được quăng ra.

    Chín chiến đấu cơ Zero chống với năm oanh tạc cơ B.17 và hầu hết chín chúng tôi đều là những phi công hàng đầu của Nhật Bản về số điểm chiến thắng. Sasai cầm đầu cuộc tấn công. Ota bay cách 500 thước phía sau ông, tiếp theo là Endo. Tôi ở vị trí thứ tư, cũng cách 500 thước, với hai phi công bên cánh là Yonekawa và Hatori ở phía sau tôi, tức ở vị trí thứ năm và sáu. Nishizawa ở vị trí thứ bảy, kế đó là Takatsuka và cuối cùng là trung sỹ Yashio Sueyoshi. Chín chiến đấu cơ trải dài ra 400 thước và trên đó là những phi công tài giỏi nhứt Nhật Bản.

    Các pháo đài bay khép chặt đội hình khi chúng tôi áp sát. Phi cơ Sasai hạ xuống phí dưới chiếc oanh tạc cơ dẫn đầu rồi vượt lên và từ từ lăn tròn để nhắm “dưới cằm” của phi cơ địch. Giây thứ hai sau khi ông khai hoả và vượt lên, vừa vượt vừa bắn. Từ các oanh tạc cơ, những dòng khói ria ra, nhưng đó là khói của các khẩu đại liên 50. Đội hình của địch vẫn không thay đổi.

    Thế rồi Ota lướt đến hàng động giống như Sasai. Tôi nhìn thấy những tia đạn từ phi cơ của hắn trúng vào chiếc oanh tạc cơ dẫn đầu, và hắn lướt thẳng lên. Một tiếng nổ dữ dội rung chuyển mọi phi cơ xung quanh và bầu trời như bao phủ trong làn khói. Chiếc oanh tạc cơ không còn nhìn thấy nữa. Nó biến mất, tan ra thành muôn ngàn mảnh vụn do bom chất đầy trong phi cơ phát nổ. Đó là một đòn sát thủ ngoạn mục nhứt trên không mà tôi được nhìn thấy từ trước đến nay. Tôi vui mừng khi nhìn thấy phi cơ của Ota vọt lên khỏi màn khói.

    Lúc đó Endo cũng nhập cuộc, nhưng vô hiệu vì bị hoả lực chéo dữ dội của các oanh tạc cơ ngăn chặn. Bây giờ tới phiên tôi. Tôi kéo cần điều khiển nhè nhẹ về phía sau, chiếc pháo đài bay thứ ba lướt tới phía tôi chầm chậm. Gần hơn nữa và gần hơn nữa, tôi ấn cò súng. Không có tiếng nổ. Đồ ngu. Tôi quên mở khoá an toàn, một sai lầm mà ngay cả những phi công mới biết bay chập choạng cũng không để mắc phải. Tôi lộn nhào thật dữ dội để tránh chiếc B.17 đang lướt đến chỉ còn cách tôi có 20 thước.

    Tôi bị hỏa lực chéo của các xạ thủ địch. Chiếc Zero lảo đảo khi những viên đạn chọc vô thân, và tôi cảm thấy bị xốc khi nghe tiếng đạn xoi vô chất kim khí. Hiện thời tôi bối rối hẳn, và chiếc phi cơ phơi bụng lên trên. Tôi gạt cần điều khiển thật mạnh sang trái, chiếc Zero lộn nhào thật dữ dội. Tôi lướt qua, nhưng không phải là không bị hư hại. Tôi chửi thề sự ngu dốt của mình, nhưng có chửi thì cũng đã quá muôn. Tôi hạ xuống phía dưới đội hình của đối phương, và vọt cấp tốc về phía các oanh tạc cơ để đánh nữa.

    Nishizawa đang quất một cú đẹp mắt, hắn vừa xoay tròn chầm chậm vừa vượt lên, lăn tròn một vòng như chớp khi khoảng cách giữa hắn và phi cơ địch thâu hẹp lại, rồi rót một loạt đại bác vô thùng xăng bên cánh của đối phương. Tức khắc, lửa túa ra, lan thật mau, và trong một vài giây chiếc pháo đài bay biến thành một cuộn lửa khổng lồ. Lửa hực hở theo chiều gió dọc theo thân chiếc phi cơ trôi tuồn tuột, rồi mũi cắm xuống đất. Lúc ấy Sasai đã quay trở lại chụp hoả lực lên chiếc một oanh tạc cơ từ mũi đến đuôi ở khoảng cách chỉ khoảng 150 thước. Thân chiếc phi cơ lãnh đạn lộn nhào về phải, mất kiểm soát. Tôi thấy lửa thò ra từ trong thân chiếc phi cơ, lan tới phòng lái và tháp súng thứ hai. Lửa dữ dội hơn trong vòng hai phút và một tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên, đánh dấu sự hủy diệt của chiếc B.17 thứ ba.

    Tôi vượt lên theo hình thắt nút dây, căng mắt dõi theo hai chiếc oanh tạc cơ cơ còn lại, chúng đang rẽ về hai hướng khác nhau. Một chiếc đang hướng đến một mỏm núi chởn chơ, một chiếc quay ra biển. Tôi đang theo hướng chiếc đang bay ra biển gần nhứt. Chiếc B.17 chao đảo liên hồi khi tôi cố chụp lên buồng lái và bên cánh của nó bằng những loạt đạn tầm dài. Có điều lạ là chiếc phi cơ không chịu buông sức nặng trong mình ra. Nó vẫn trốn chạy với những trái bom mang theo. Tôi chúi xuống để lấy đà rồi lại vượt lên từ phía dưới chiếc oanh tạc cơ và khép khoảng cách vào phía cánh trái của nó. Chiếc B.17 lớn hơn, lớn hơn nữa trong mắt tôi. Tôi vồ ngược lên, và đưa mắt nhìn những viên đạn chọc thủng cánh trái của nó. Thế giới như đổ sụp. Một màn ánh sáng gay gắt hừng hực tràn ngập bầu trời khiến tôi thấy tối tăm mặt mũi. Có một bàn tay không lồ tóm lấy chiếc Zero và lắc qua lắc lại thật dữ tợn. Tai tôi điếc câm và tôi nghe mùi máu ứa ra từ trong mũi ra. Pháo đài bay thứ tư đã ra đi vĩnh viễn. Mỗi chiếc đều bị hủy diệt với chính những trái bom mang bên trong. Hiện thời chỉ còn lại một chiếc đang chạy về phía dãy núi. Tám chiến đấu cơ Zero ùa theo, giương nanh múa vuốt như lũ chó săn bu quanh một con heo rừng. Tuy nhiên mấy chiếc Zero khó bắt kịp chiếc B.17, vì lẽ nó đã thả hết bom và gia tăng tốc lực. Hướng bay của nó cắt ngang qua mũi của tôi, tôi nhận thấy đó là một dịp may để ngăn chặn trước khi nó tiến sâu vô đất liền.

    Ngay khi gia tăng hết tốc lực lướt về phía trước, tôi phát hiện ba chiếc Airacobra ào xuống từ phía Đông và tiến sát vào tám chiến đấu cơ Zero đang truy địch. Ba chiếc P39 bắt đầu vượt lên, định chụp mấy chiếc Zero lơ đãng. Tôi xoay một vòng thật rộng, cũng với ý định chụp trước ba chiếc P39 “lơ đãng” nầy.

    Ngay khi chiếc P39 đầu tiên vừa đặt chiếc Zero bay cuối vào vòng ngắm thì tôi chúi xuống thật nhẹ nhàng. Chắc viên phi công địch sẽ không bao giờ biết được những gì đã xảy ra, ngay lập tức một loạt đạn đại bác và đại liên của tôi đã nghiền nát thân phi cơ địch ra từng mảnh, một cái cánh bay ngang qua thân chiếc Zero của tôi. Tiếng súng tôi đã báo động cho tám chiến đấu cơ Zero và lập tức hai chiếc Zero xoay thân và chúi xuống theo hình trôn ốc và rớt ngay xuống hai chiếc P.39 kia, diễn tiến chỉ trong vòng một giây. Tôi ghi nhận đó là hai viên phi công vô địch Nishizawa và Ota. Mỗi người chỉ thổi một quả đại bác, và hai chiếc Airacobra biến thành cây đuốc rớt xuống.

    Nhưng nhiệm vụ trên không vẫn chưa chấm dứt chiếc oanh tạc cơ còn sống sót đã bỏ đất liên để quay ra biển. Tốc lực của nó có vẻ sút giảm, và với máy móc đã hư hỏng, việc chiếc oanh tạc cơ nầy bị chúng tôi kéo xuống đất chỉ là vấn đề của thời gian.

    Trở về Lae, khi chúng tôi cho các chuyên viên cơ khí biết đã tiêu diệt được 5 pháo đài bay, họ nhảy nhót vui mừng. Năm pháo đài bay và ba Airacobra, một ngày làm ăn khá khẩm.[/spoil]

    - - - Updated - - -

    Chương XV[spoil]

    Ngày 3 tháng tám, Rabaul gọi về hầu hết những phi công được chỉ định đến Lae trước đây. Việc thuyên chuyển nầy khiến chúng tôi hân hoan, vì nó hứa hẹn thoát khỏi các phi vụ tuần tiễu Buan và thoát khỏi cảnh bị oanh tạc hàng đêm. Chúng tôi không mang theo vật gì cả, vì tin rằng sớm sẽ trở về. Chúng tôi sai lầm, bốn ngày đầu tiên ở Rabaul, chúng tôi phải thực hiện những phi vụ càn quét ở Rabi. Mạng lưới chiến đấu cơ đã được đối phương thiết lập nhanh chóng trên hòn đảo nầy, có thể so sánh với căn cứ Moresby.

    Ngày 8 tháng tám, sau khi nhận lịnh tuần thám của Bộ Chỉ Huy, chúng tôi bước ngang qua phi đạo để tiến đến các chiến đấu cơ của chúng tôi. Lúc hầu hết 18 phi công đều ngồi trong phòng lái, nhiều liên lạc viên chạy ra la lớn rằng phi vụ bị bãi bỏ. Chúng tôi lập tức trở lại trình diện Bộ Chỉ Huy. Nơi đây đang lên cơn sốt. Liên lạc viên và nhần viên đưa tin chạy tới chạy lui. Các sỹ quan lướt qua chúng tôi với vẻ mặt đầy khẩn trương. Trung tá Nakajima, cầm đầu phi vụ hôm nay, bước ra khỏi văn phòng của Đô Đốc, nói lớn với chúng tôi với vẻ tức tốc: “Phi vụ bị bãi bỏ. Chúng ta sẽ đi nơi khác.”. Ông chỉ một nhân viên đưa tin: “Anh, lấy cho tôi một bản đồ coi, mau lên!”.

    Ông trải bản đồ trên một cái bàn rộng và bắt đầu vạch một đường thẳng với một chiếc Compa. Ông cúi gầm trên bản đồ, không mảy may lưu ý đến bọn phi công chúng tôi. Tôi hỏi đại úy Sasai xem ông có biết việc gì xảy ra không. Sasai hỏi Nakajima và chỉ nhận mấy câu càu nhàu, rồi vị chỉ huy trưởng không đoàn ba chân bốn cẳng vô văn phòng của Đô Đốc. Vài phút sau ông trở ra, và ra dấu cho các phi công tụ họp quanh ông. Những tiếng nói của ông không khác nào một trái bom: “Vào lúc 5 giờ 20 phút sáng nay, một lực lượng địch vô cùng mạnh mẽ bắt đầu đổ bộ lên Lunga, ở cuối bãi phía Nam của đảo Guadalcanal. Theo các báo cáo sơ khởi của chúng ta, người Mỹ đã ném lên hòn đảo nầy một khối lượng người và trang bị khủng khiếp. Cùng lúc, họ cũng mở ra các cuộc tấn công ở Tulagi, trên đảo Florida. Tất cả thủy phi cơ của chúng ta tiêu không còn một chiếc. Khi vị tư lịnh thảo xong kế hoạch, chúng ta sẽ cất cánh lập tức hướng đến Guadalcanal để tấn công các lực lượng địch trên bãi biển.”

    Liên lạc viên phát bản đồ cho mỗi phi công. Chúng tôi xem xét và nghiên cứu hòn đảo còn xa lạ đó đối với chúng tôi, nhưng bỗng nhiên trở thành quan trọng nầy. Nhiều người bàn tán: “Ở đâu lại hiện ra hòn đảo trời đánh nầy?”. Một phi công nổi nóng la lên: “Ai đã từng nghe đến tên của một nơi chó chết như vậy chưa?”.

    Chúng tôi tính khoảng cách từ Rabaul đến Guadalcanal. Không tin nổi. Xa đến 560 dặm. Chúng tôi sẽ phải bay đi tấn công các đầu cầu đổ bộ của địch quân và trở về với khoảng cách đó. Khoảng cách chưa từng nghe nói đến. Điều nầy nghĩa là đường bay khứ hồi dài hơn 1.100 dặm, đó là không kể trường hợp gặp bão hoặc đụng độ giữa đường.

    Như vậy cũng đủ để mọi suy luận ngưng lại. Chúng tôi lặng yên để nghe vị chỉ huy trưởng đưa ra lịnh mới. Vừa lúc ấy một liên lạc viên chạy ùa vô văn phòng Đô đốc với những báo cáo mới đưa về từ mặt trận. Chúng tôi nghe một binh sỹ đưa tin nói với Nakajima rằng tất cả liên lạc với Tulagi đều bị cắt đứt, và quân phòng ngự ở đó đã hy sinh đến người cuối cùng.

    Nghe tin, mặt Sasai tái đi. Tôi phải hỏi năm lần bảy lượt xem có phải ông ta đau ốm hay không. Cuối cùng nhìn đăm đăm về phía trước, ông nói thì thầm: “Anh rể tôi chiến đấu ở Tulagi.” Nếu Tulagi bị địch quân chiếm đóng, anh rể của ông ta, thiếu tá Yoshiro Tashiro không thể nào sống sót được. Ông ta sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. (Cái chết của ông ta được xác nhận sau đó).

    Nakajima ban lịnh: “Các anh sắp thực hiện một phi vụ chiến đấu dài nhất trong lịch sử,” ông thông báo cho chúng tôi. “Đừng dựa vào dịp may vu vơ nào ở hiện tại. Hãy hành động đúng theo lịnh đã đưa ra và quan trọng nhứt, đừng bay một cách liều mạng và phí phạm xăng nhớt của các anh. Phi công nào hết xăng trên đường từ Guadalcanal trở về, kẻ đó phải đáp xuống đảo Buka. Lực lượng Nhật trên đảo nầy đã được chỉ thị phải theo dõi các phi cơ của chúng ta.

    “Hiện tại, để bay đến Guadalcanal và trở về Buka có nghĩa là chúng ta sẽ thực hiện một không trình khứ hồi dài bằng không trình từ Tainan đến phi trường Clark ở Philippine trước đây. Tôi chắc chắn chúng ta có thể bay suốt khoảng cách mới nầy mà không gặp rắc rối. Nhưng biết đâu chuyện bất ngờ, do đó tôi lặp lại lời cảnh báo: “Đừng phí phạm nhiên liệu.”

    (Tại Đông Kinh sau chiến tranh, trung tá Nakajima có nói với tôi rằng Đô Đốc muốn ông đưa hết chiến đấu cơ khả dụng ở Rabaul đến Guadalcanal vào ngày 7 tháng tám. Nakajima phản đối, ông cho rằng chỉ nên mang theo mười hai phi công tài ba nhứt bên cánh của ông mà thôi. Bởi lẽ ông phỏng đoán phải mất ít nhứt phân nửa số người của ông trong nhiệm vụ quá xa như vậy. Hai người thảo luận dằng co cho đến khi đạt được sự đồng ý với con số 18 chiến đấu cơ.)

    Ngay khi nhận lịnh các phi công chia ra làm từng tổ ba người. Tôi nói với Yonekawa và Hatori, hai phi công bên cánh của tôi: “Các bạn sẽ gặp bọn phi công hải quân Hoa Kỳ lần đầu tiên trong ngày hôm nay. Bọn họ sẽ nắm hẳn ưu thế do khoảng cách mà chúng ta phải bay. Hai bạn phải luôn luôn cẩn trọng trong mọi chuyển động của mình. Tốt hơn hết là các bạn đừng bao giờ rời xa khỏi tôi. Những gì xảy ra, những diễn biến xung quanh chúng ta không thành vấn đề, cứ bám chặt lấy phi cơ của tôi được chừng nào hay chừng nấy. Hãy nhớ, đừng có bay xa ra.”

    Chúng tôi chạy ra phi cơ và chờ phi đạo trống trải. Hai mươi bảy oanh tạc cơ Betty cất cánh trước chúng tôi. Trung tá Nakajima đứng trên phòng lái của ông vẫy tay. Lúc 8 giờ 30 sáng, tất cả chiến đấu cơ đều ở trên không. Nhân viên bảo trì và các phi công ở lại xếp hàng hai bên phi đạo vẫy nón chào và chúc chúng tôi may mắn. Thời tiết đẹp, nhứt là ở Rabaul. Ngay cả núi lửa cũng im tiếng. Nó ngưng phun phún thạch từ tháng bảy, và chỉ còn nhả ra một dòng khói mỏng lã ngọn về phía Tây.

    Chúng tôi giữ các vị trí hộ tống phía sau nhóm oanh tạc cơ. Tôi đã ngạc nhiên khi biết được mấy chiếc Betty nầy mang bom thay vì thủy lôi, vũ khí thông thường để tấn công tàu chiến. Điều nầy khiến tôi lo lắng. Tôi biết rõ vấn đề tấn công các mục tiêu di chuyển trên mặt biển từ cao độ. Hồi ở Buna, mặc dù các oanh tạc cơ B.17 địch có tiếng là oanh tạc chính xác, nhưng chúng đã phá hầu hết số lượng bom thả xuống các tàu chiến của chúng tôi.

    Chúng tôi gia tăng cao độ lên 13.000 bộ rồi bay về phía đông đến đảo Buka. Đây là hòn đảo xinh đẹp đặt biệt, cách Rabaul khoảng 60 dặm. Màu xanh tươi sáng, và giống như hình móng ngựa, hòn đảo san hô nầy có cái tên ghi trên bản đồ là Đảo Xanh. Tôi không bao giờ nghĩ rằng quang cảnh đầy màu sắc và hấp dẫn phía dưới sẽ cứu mạng tôi sau nầy.

    Trên không phận Buka, các đội hình của chúng tôi xoay hướng về nam, dọc theo bờ biển phía Tây Bougainville. Mặt trời chiếu xuyên qua mây. Sự oi bức khiến tôi khát nước, và đây cũng là hiện tượng mà chúng tôi thỉnh thoảng cảm thấy khi tiến vô đất địch. Tôi lấy một chai soda trong hộp thức ăn và, không suy nghĩ, tôi mở nút. Tôi quên khuấy độ cao. Ngay khi nút chai vừa bật, nước soda vọt lên dữ dội, áp lực thoát ra trong không khí hiếm hoi. Trong nhiều giây, nước soda bao phủ hết mọi thứ trước mắt tôi. Chất đường trong nước khô lại trên kiếng đeo mắt khiến tôi không nhìn thấy gì cả. Tôi chửi thề cho sự ngu đần của mình. Mất hết 40 phút tôi mới lau sạch hết mọi thứ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy buồn cười hơn. Lúc tôi có thể nhìn mọi hướng, chúng tôi đang lướt trên đảo Vella Lavella, nằm giữa đường Rabaul và Guadalcanal.

    Bay ngang New Georgia, chúng tôi gia tăng độ cao và lướt qua Russell ở 20.000 bộ. Cách năm mươi dặm trước mặt chúng tôi, Guadalcanal hiện ra lờ mờ trên mặt nước. Ngay cả ở khoảng cách xa nầy, chúng tôi cũng nhìn thấy ánh lửa màu vàng hực nổ bật trên nền trời xanh trên hòn đảo đang tranh chấp. Hiển nhiên các trận đụng độ đã xảy ra giữa những chiến đấu cơ đến từ các căn cứ khác hơn Rabaul và phi cơ bao che của địch quân. Tôi nhìn xuống bờ biển phía Bắc Guadalcanal. Trong eo biển nằm giữa Guadalcanal và Florida, hàng mấy trăm vệt màu trắng chạy ngang dọc trên mặt nước, tàu chiến của địch quân. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nhiều chiến hạm và chuyển vận hạm một lần như thế nầy.

    Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến một cuộc hành quân thủy không hỗn hợp của Hoa Kỳ. Một cuộc hành quân không thể nào tin nổi. Có ít nhứt 70 chiến hạm tiến vào các bãi biển, hàng chục khu trục hạm chạy quanh quẩn bên ngoài, và nhiều chiến hạm ẩn hiện dưới chân trời, khoảng cách quá xa khó có thể phân biệt hoặc đếm được.

    Lúc ấy các oanh tạc cơ chầm chậm vung rộng để thả bom. Ngay phía trên các phi cơ nầy là những đám mây nhỏ treo lơ lửng ở cao độ 13.000 bộ. Phía bên phải và ở trên mặt trời sáng chói loà, xoá nhoà mọi thứ trước mắt. Tôi cảm thấy bất an, vì chúng tôi không thể nào nhìn thấy được chiến đấu cơ nhào xuống từ góc đó. Điều lo sợ của tôi đã sớm thành sự thật. Không một dấu hiệu nào báo trước, sáu chiến đấu cơ địch thình lình nhô ra khỏi ánh sáng loé mắt. Chỉ cần liếc qua, tôi nhận ngay những phi cơ nầy to lớn hơn mọi loại chiến đấu cơ Mỹ mà chúng tôi thường đụng độ. Tất cả đều sơn màu ô liu, chỉ phía dưới cánh là sơn màu trắng. Đó là loại chiến đấu cơ Wildcat, Grumman F4F lần đầu tiên tôi nhìn thấy.

    Mấy chiếc Wildcat, không biết có sự hiện diện của các chiến đấu cơ Zero, chúi xuống tấn công các oanh tạc cơ. Nhiều chiến đấu cơ của chúng tôi xông tới, và một số khai hoả ngoài tầm hy vọng xua đuổi phi cơ địch. Sáu chiếc Wildcat cùng lộn nhào và chúi xuống biến mất. Phía trên mặt nước cạnh đảo Savo, các oanh tạc cơ bắt đầu thả bom xuống nhóm chuyển vận to lớn của địch quân. Tôi nhìn theo hướng bom rớt. Những cuộn nước dâng cao khỏi mặt biển, nhưng chiến hạm địch vẫn lướt tới, không hề rối loạn.

    Hiển nhiên, cố gắng thả bom cho trúng các chiến hạm đang chạy từ độ cao bốn dặm, là một việc làm ngu dại. Tôi không thể nào hiểu được tại sao không sử dụng loại thủy lôi đã từng chứng tỏ sự hữu hiệu trong quá khứ.

    (Ngày hôm sau các oanh tạc cơ quay lại, lần nầy mang theo thủy lôi để tấn công ở cao độ thấp. Nhưng bấy giờ thì đã trễ rồi. Nhiều chiến đấu cơ địch bu quanh các oanh tạc cơ đông như kiến, và nhiều chiếc bị nhận đầu xuống biển trước khi tiến đến được mục tiêu.)

    Sau khi trút hết bom, các oanh tạc cơ lạng qua trái và gia tăng tốc lực để trở về Rabaul. Chúng tôi hộ tống qua khỏi Russell, bên ngoài tầm hoạt động của chiến đấu cơ địch, và quay lại Guadalcanal. Lúc ấy khoảng 1 giờ 30 chiều. Chúng tôi lướt qua Lunga, tất cả 18 chiến đấu cơ Zero đều chuẩn bị lâm trận. Một lần nữa, trong ánh mặt trời mù loà, mấy chiếc Wildcat nhào xuống nhóm phi cơ của chúng tôi. Tôi là phi công duy nhứt phát hiện cuộc tấn công và lập tức, tôi chĩa mũi chiếc phi cơ của tôi thẳng đứng lên với những chiếc khác tiếp theo sau. Mấy chiếc Wildcat lại phân tán vào chúi xuống nhiều hướng khác nhau. Chiến thuật lẩn tránh của đối phương không có vẻ rối loạn, vì lối lẩn tránh nầy chỉ là để lẩn tránh mà thôi. Hiển nhiên phi công Mỹ không có ý định quyết chiến hôm nay.

    Tôi quay lại để kiểm soát các phi cơ bên cánh của tôi. Nhưng, nhìn khắp nới, tôi vẫn không thấy Yonekawa và Hatori ở đâu. Phi cơ của Sasai, với hai sọc xanh kẻ dọc theo thân, trở lại đội hình với nhiều chiến đấu cơ khác bay thành hàng phía sau ông. Nhưng vẫn không có hai phi cơ bên cánh của tôi.

    Cuối cùng, tôi nhìn thấy họ bay khoảng 1.500 bộ phía dưới tôi. Tôi há hốc miệng. Một chiếc Wildcat đơn độc truy đuổi ba chiến đấu cơ Zero đang cuống cuồng lẩn trốn.

    Tôi lắc cánh để báo hiệu cho Sasai và chúi xuống. Chiếc Wildcat đang bám sát, rót đạn vô cánh và đuôi của một chiếc Zero. Trong lúc khẩn cấp, tôi bắn vội một viên đại bác. Lập tức chiếc Wildcat lạng ra bằng cách lộn nhào một vòng về phía phải, quành thật ngặt rồi vượt thẳng lên phi cơ của tôi. Chưa bao giờ tôi được nhìn thấy một chiếc phi cơ địch nào bay mau lẹ và đẹp mắt như vậy. Mỗi giây các họng súng của nó mỗi chĩa vô sát bụng của tôi hơn. Tôi lăn thật nhanh để tránh né. Chiếc Zero rùng mình khi tôi hạ tốc độ xuống. Vồ trật viên phi công địch lộn ngược trở lại. Tôi tăng tốc độ, lộn nhào về bên trái. Ba lần lộn nhào, tôi cho chiếc Zero xoay tít để rớt xuống tạo một vòng xoay hình trôn ốc. Chúng tôi vẫn giữ hai chiếc phi cơ xoay theo hình trôn ốc. Tim tôi đập liên hồi và đầu tôi như có sức mạnh ngàn cân đè lên. Mắt tôi nổ đom đóm. Tôi cắn chặt răng chịu đựng. Nếu kẻ nào bỏ cuộc đầu tiên, lạng ra một hướng để giải toả áp lực, kẻ ấy sẽ đi đời.

    Trên vòng xoay thứ năm, chiếc Wildcat hơi lơi ra. Tôi sẵn sàng, nhưng đối thủ chúi mũi xuống, gia tăng tốc lực và, một lần nữa, viên phi công địch nắm vững cần lái. Đáng nể!

    Tuy nhiên, hắn đã tạo ra sai lầm ngay phút kế đó. Thay vì tiếp tục vung trở lại vòng xoay thứ sáu, hắn nhấn thêm tốc lực, phá vỡ một góc vòng xoay và lộn nhào theo hình thắt nút dây. Tôi chĩa mũi ngay phía sau, cắt ngang đường bay của hắn. Và tôi cứ cắt như vậy nhiều lần, khiến cho hình thắt núy dây của hắn càng lúc càng thâu hẹp lại. Khi hai phi cơ còn cách nhau 50 thước, chiếc Wildcat bỏ lối bay cũ để vượt thẳng lên. Tôi kinh ngạc khi nhìn thấy lối tránh né nầy. Ở khoảng cách hiện thời, tôi không cần sử dụng đại bác 20 ly. Tôi rót 200 viên đạn đại liên vô phòng lái, nhìn thấy đạn soi thủng lớp kim khí mỏng và phá tan kiếng chắn gió của chiếc Wildcat.

    Tôi không thể tin nổi vào đôi mắt của mình. Chiếc Wildcat vẫn tiếp tục bay như không có việc gì xảy ra. Nếu phòng lái bị lãnh đạn như vậy, một chiếc Zero sẽ bốc cháy lập tức. Tôi không sao hiểu nổi. Tôi gia tăng tốc lực, tiếp tục áp sát đối thủ, vừa đúng lúc chiến đấu cơ địch mất tốc lực. Trong một thoáng, tôi đã ở phía trước chiếc Wildcat mười thước. Tôi đưa lưng, chuẩn bị lãnh đạn của đối phương.

    Không một viên đạn nào bay đến! Các khẩu súng của chiếc Wildcat vẫn im lặng. Tôi hạ tốc độ cho đến khi hai phi cơ bay song song. Tôi mở cửa buồng lái để nhìn. Tôi có thể nhìn thấy viên phi công địch rõ ràng. Một người khổng lồ với gương mặt bầu bĩnh, mặt quân phục ka ki nhạt, có vẻ đứng tuổi.

    Chúng tôi bay song song nhiều giây trong đội hình kỳ quái của chúng tôi. Đôi mắt chúng tôi gặp nhau qua khoảng không gian nhỏ hẹp giữa hai chiếc phi cơ. Chiếc Wildcat như một đống sắt vụn. Nhiều lổ đạn soi thủng ở thân và cánh từ bên nầy suốt qua bên kia. Bánh lái chiếc phi cơ te tua, những miếng kim khí chỉa ra giống như một bộ xương. Tôi có thể hiểu tại sao viên phi công không khai hỏa: máu đẫm ướt đôi vai và chảy thành nhiều vệt xuống ngực hắn. Vậy mà phi cơ của hắn vẫn còn bay, không thể tin nổi.

    Nhưng tôi không thể hạ sát một người bất động, mang đầy thương tích, trong một chiếc phi cơ chỉ còn là một đống sắt vụn. Tôi giơ nắm tay trái lên lắc lắc la lớn, biểu hắn hãy đánh nhau thay vì bay giống như một con bồ câu đất, mặc dù tôi biết chuyện đó khó thể xảy ra. Viên phi công Mỹ nhìn tôi có vẻ hoảng sợ, hắn giơ tay phải lên vẩy vẩy một cách yếu ớt.

    Tôi chưa bao giờ có cảm giác kì dị như thế nầy. Tôi đã giết nhiều người Mỹ trên không, nhưng đây là lần đầu tiên, trước một đối thủ kiệt lực mang đầy thương tích, tôi lại ngần ngừ. Tôi không biết có nên dứt điểm hắn hay không. Nhưng ý nghĩ của tôi rõ ràng là ngù ngờ. Bị thương hay không, hắn cũng là kẻ thù, một kẻ thù vừa hạ ba đồng bạn của tôi vài phút trước đây. Tuy nhiên, thật sự tôi muốn hạ chiếc phi cơ hơn là hạ viên phi công.

    Tôi lùi lại và lướt đến sau đuôi chiếc Wildcat. Viên phi công cố thu hết năng lực cuối cùng để đưa chiếc phi cơ của hắn lướt lên. Tôi nhắm đầu máy và ấn cò đại bác. Một tiếng nổ bùng với lửa và khói túa ra. Chiếc phi cơ lộn nhào và viên phi công nhảy dù ra ngoài. Phía dưới tôi, gần đúng trên bãi biển Guadalcanal, chiếc dù bung ra. Cuối cùng, tôi thấy viên phi công đáp xuống bãi biển.

    Ba chiến đấu cơ Zero khác đã trở về kết hợp bên cánh của tôi. Chúng tôi vượt lên và quay trở lại hòn đảo để kiếm phi cơ địch nữa. Đạn cao xạ bắt đầu nổ quanh chúng tôi. Chỉ vài giờ sau khi đổ bộ, các giàn cao xạ hạng nặng của địch quân đã được thiết lập trên bãi biển. Tôi biết rằng những lực lượng Nhật phải mất ít nhất ba ngày sau khi đổ bộ mới thiết dựng được các vị trí phòng không. Tốc độ di chuyển chiến cụ lên bờ của người Mỹ nhanh chóng đến mức kinh ngạc.

    Tôi trở lại cao độ 7.000 bộ với ba chiến đấu cơ phía sau. Chúng tôi bay xuyên qua những đám mây, lần đầu tiên trong suốt mấy năm chiến đấu, tôi bị một phi cơ địch vồ mà không hay biết. Tôi nghe một tiếng phụp thật mạnh và một lỗ hổng nửa phân xuất hiện trên kiếng chắn gió bên trái của tôi. Lỗ hổng chỉ cách tôi vài phân.

    Tôi vẫn không nhìn thấy chiếc phi cơ nào khác trên không. Có lẽ viên đạn từ mặt đất bắn lên. Sau đó, tôi mới nhìn thấy loáng thoáng một chiếc oanh tạc cơ địch, không phải một chiến đấu cơ, đang lủi vô mây. Sự liều lĩnh của viên phi công địch đáng sợ. Với một chiếc oanh tạc cơ chậm chạp, hắn dám giỡn mặt với ba chiến đấu cơ Zero của chúng tôi.

    Chớp mắt, tôi đã ở phía sau đuôi hắn. Chiếc Dauntless nhô lên hụp xuống nhiều lần rồi thình lình chui vô một đám mây. Đâu thể để mất con mồi dễ dàng như vậy, tôi đeo dính hắn. Khoảng một vài giây, tôi chỉ thấy một màu trắng xoá khi chúng tôi lướt xuyên qua một đám mây dày đặc. Kế đó, chúng tôi bay ra khoảng trống, tôi tiến sát như chớp và khai hỏa. Tên xạ thủ phía sau đuôi chiếc oanh tạc cơ ngã chúi trên khẩu súng của hắn. Một loạt đại bác nữa rót vô đầu máy. Chiếc Dauntless lộn về phía trái mấy vòng, rồi chúi xuống dữ dội. Yonekawa thấy viên phi công nhảy dù ra. Đó là sát thủ thứ sáu mươi của tôi.

    Trở lên 13.000 bộ, tôi tìm kiếm những phi cơ khác của chúng tôi nhưng không thấy. Một vài phút sau, bay trên bờ biển Guadalcanal, tôi phát hiện một nhóm phi cơ bay cách phía trước mặt nhiều dặm. Tôi báo hiệu cho hai phi cơ bên cánh và lướt đến. Không lâu, tôi đếm rõ tám phi cơ địch tất cả, bay làm hai nhóm. Tôi ra dấu đánh nhóm bên phải nhường nhóm bên trái cho ba chiếc Zero theo sau tôi. Đối thủ bay trong một đội hình rất chặt chẽ, hình như là chiến đấu cơ Wildcat. Tôi có thể lướt từ dưới lên đánh tập hậu, và có thể hạ hai chiếc trong loạt khai hoả đầu tiên. Tôi tiến sát được chừng nào hay chừng nấy. Khoảng cách còn 200 thước, rồi 100 – 70 – 60 thước.

    Tôi đã lọt vô bẫy! Phi cơ địch không phải chiến đấu cơ mà là oanh tạc cơ. Loại Avenger trang bị thủy lôi, loại oanh tạc cơ mà tôi chưa từng thấy trước đây. Từ phía sau, Avenger trong giống như chiến đấu cơ Wildcat, nhưng khi lại gần mới thấy kích thước đồ sộ của nó với hai tháp súng trên lưng và dưới bụng đều trạng bị đại liên 50.

    Hèn chi chúng bay theo một đội hình chặt chẽ như vậy. Mấy chiếc Avenger đang đợi tôi, và bây giờ tôi bị chụp ở cả hai bên phải và trái với 16 khẩu đại liên một lúc. Tôi gia tăng tốc lực khẩn cấp. Tôi không thể giảm tốc lực để quay lưng. Nếu tôi bỏ chạy hoặc lộn nhào tôi sẽ lãnh đạn vô chiếc bụng phơi trần tức khắc. Chỉ còn một cách để chọn, cứ lướt đến và khai hoả tất cả vũ khí trong tay. Tôi ấn nút hoả lực, hầu như cùng một lúc với tất cả súng của địch quân. Tiếng đại bác và đại liên lấn át mọi tiếng động khác. Khi hai oanh tạc cơ bốc cháy, đối phương chỉ cách trước mặt tôi hai mươi thước. Đó là tất cả những gì mà tôi nhìn thấy. Một tiếng nổ dữ dội như chà nát thân thể tôi. Tôi cảm thấy hai lỗ tai như bị muôn ngàn lưỡi dao đâm thủng. Thế giới bừng lên trong lửa đỏ và đôi mắt tôi như mù hẳn.

    (Ba phi công bay theo tôi về báo cáo với chỉ huy trưởng không đoàn rằng họ đã nhìn thấy hai chiếc Avenger rớt xuống cùng với chiếc phi cơ của tôi. Họ còn cho biết thêm, hai phi cơ địch kéo hai vệt lửa và khói thật dài. Đó là nạn nhân chính thức thứ 61 và 62 của tôi. Nhưng một báo cáo chính thức của người Mỹ phủ nhận sự mất mát các oanh tạc cơ Avenger cất cánh từ ba hàng không mẫu hạm hoạt động ở phía Tây Nam Guadalcanal. Có lẽ hai phi cơ đã trở về tàu được. Khi chiếc Zero của tôi chúi xuống, với tôi hôn mê bất tỉnh trong buồng lái, cả ba chiếc Zero cùng chúi với tôi. Họ đã bỏ dở cuộc săn tìm khi tôi biến mất trong một đám mấy sà thấp.)

    Trong nhiều giây trôi qua tôi mới hồi tỉnh. Một luồng gió lạnh và mát mẻ quất vào tôi, xuyên qua tấm kính chắn gió đã vỡ nát. Nhưng tôi vẫn còn mất cảm giác. Mọi vật đều mờ mờ ảo ảo. Đầu tôi ngã hẳn về phía sau, ngoẻo trên tựa đầu. Tôi cố nhìn, nhưng mọi vật chập chờn nhảy múa trước mắt tôi. Phòng lái hình như đã mở ra, kiếng bể nát hết, gió ru tôi vào cơn mê nửa tỉnh. Tôi không cảm thấy gì khác hơn là một sự chìm đắm êm ả dịu dàng. Tôi muốn ngủ. Tôi cố gắng và biết rằng tôi đã bị bắn trúng, rằng tôi đang hấp hối, nhưng tôi không hề cảm thấy sợ hãi. Nếu chết là như thế nầy, không đau đớn, thì có gì đáng lo.

    Tôi đang ở trong một thế giới đầy mộng mị. Một sự ngây ngất tràn đầy trong trí não tôi. Ảo ảnh bơi lội phía trước tôi. Với sự ngạc nhiên, tôi nhìn thấy khuôn mặt má tôi rõ rệt. Bà kêu lên: “Xấu hổ chưa! Xấu hổ chưa! Thức dậy đi, Saburo, thức dậy đi! Con làm như đàn bà con gái không bằng. Con đâu phải là một tên hèn nhát! Thức dậy đi!”.

    Dần dần tôi cảm biết những gì đang xảy ra. Chiếc Zero lao về phía đông giống như một hòn đá. Tôi cố mở mắt ra và nhìn quanh, thấy màu sáng chói, hực hở của lửa. Tôi nghĩ rằng chiếc phi cơ đang bốc cháy. Nhưng tôi không nghe một mùi khói. Tôi vẫn choáng váng.

    Tôi nháy mắt nhiều lần. Sao lại như vậy? Mọi vật đều màu đỏ hết ! Tôi đưa tay sờ soạng. Cần lái! Tôi nắm lấy nó. Vẫn không thấy gì hết. Tôi kéo cần lái lại phía sau. Nhẹ nhàng. Chiếc phi cơ bắt đầu gượng lại từ sức chúi xuống, lấy lại thăng bằng và vượt lên. Áp lực của gió giảm bớt, không còn quật mạnh vô mặt tôi nữa. Một ý nghĩ đầy kinh hãi bao trùm lấy tôi. Tôi có thể bị mù! Tôi không bao giờ có cơ hội trở về Rabaul!

    Tôi hành động theo linh tính. Tôi đưa tay trái về phía trước để nắm lấy cần gia tăng tốc độ. Tay tôi bất động. Tôi cố co mấy ngón tay lại. Không có một cảm giác nào cả. Đúng là nó đã liệt hẳn. Tôi nhấn hai chân lên bàn đạp bẻ lái. Chỉ có chân mặt của tôi còn chuyển động, và chiếc Zero lạng qua một bên khi bàn đạp bị ấn xuống. Chân trái của tôi tê liệt. Tôi nghiến răng cố gắng cử động lại một lần nữa. Vô ích.

    Cả thân bên trái của tôi hình như đã bị tê liệt. Trong nhiều phút tôi cố cử động chân và tay trái, nhưng không thể nào cử động được. Tôi không nghe đau đớn. Thật khó hiểu.

    Đôi má tôi ướt đẫm. Tôi đang khóc. Hai hàng lệ chảy xuống. Khối nặng trĩu trong lòng mắt tôi bắt đầu trôi đi. Nước mắt đã lau sạch máu đọng trong mắt tôi.

    Tai vẫn còn điếc câm, nhưng mắt có thể nhìn thấy chỉ một chút ít, nhưng màu đỏ đã tan loãng dần. Ánh sáng mặt trời chiếu rọi trong phòng lái cho phép tôi nhìn thấy lờ mờ những dụng cụ bằng kim khí. Dần dần tôi nhìn thấy những dụng cụ hình tròn, nhưng không thể nhìn thấy chi tiết. Tôi xoay đầu và nhìn ra ngoài buồng lái. Những khối màu đen vĩ đại lướt qua dưới cánh phi cơ với tốc độ kinh khiếp.

    Những khối màu đen chắc chắn là chiến hạm địch. Điều nầy có nghĩa là tôi chỉ cách mặt nước khoảng 300 bộ. Thế rồi tai tôi vang lên những âm thanh. Thoạt đầu là tiếng máy phi cơ kế đến đó là tiếng súng. Các chiến hạm đang khai hỏa vào tôi. Chiếc Zero đong đưa trong những làn sóng chớp loé của đạn cao xạ bùng nổ. Lạ lùng thay, tôi không hề đưa ra một phản ứng nào cả. Tôi bất động, không tìm cách né tránh. Tiếng súng rơi lại phía sau. Tôi không còn nhìn thấy những khối màu đen trên mặt nước nữa. Tôi đã vượt qua khỏi tầm súng. Nhiều phút trôi qua, tôi vẫn ngồi bất động trong phòng lái với muôn ngàn ý nghĩ lẫn lộn. Tôi lại muốn thiếp ngủ. Trong cơn ngầy ngật, tôi cũng biết rằng tôi không thể nào bay trở về Rabaul, và ngay cả Buka gần hơn Rabaul 300 dặm. Một thoáng ý nghĩ đâm thẳng xuống biển với hết tốc lực đã lôi cuốn tôi, như là một cách giải quyết nổi tuyệt vọng trong tôi.

    Trở nên ngu muội. Tôi cố mở mắt ra. Tôi nguyền rủa mình: Chết như vậy không phải! Nếu phải chết, tôi nghĩ, tôi phải chết cho ra hồn. Tôi đâu phải là một tay mơ chưa từng biết chiến đấu là gì? Tư tưởng của tôi chợt ẩn chợt hiện, nhưng tôi biết rằng bao lâu mà tôi kiểm soát chiếc phi cơ, bao lâu mà tôi còn có thể bay, tôi sẽ làm mọi cách để lôi theo một hai kẻ thù trước khi chết.

    Chiến đấu cơ địch ở đâu? Tôi chửi rủa và la hét: Đến đây? Tôi đây! Đến đánh với tôi!.

    Trải qua nhiều phút, tôi thịnh nộ như một tên điên trong phòng lái. Dần dần tôi bình tĩnh trở lại và ý thức hành động đáng buồn cười của mình… Tôi bắt đầu nghĩ đến những may mắn vô song đã khiến tôi sống sót cho đến bây giờ. Tôi đã gặp nhiều hiểm nguy trước đây, nhưng chưa lần nào hiểm nguy hơn lần nầy. Những viên đạn chỉ cách đầu tôi mấy phân, và gây cho tôi nhiều vết sướt, nhưng không trầm trọng mấy. Tôi có may mắn, tại sao tôi quăng nó đi? Và bỗng nhiên tôi muốn sống, tôi muốn trở về Rabaul.

    Việc có ý thức đầu tiên của tôi là xem xét các thương tích. Tay trái tôi vẫn tê liệt, tôi đưa tay mặt lên rờ đầu một cách e dè như sợ những gì sẽ tìm thấy. Mấy ngón tay trên nón phi công, cảm thấy nhớp nháp. Tôi biết đó là máu. Rồi tôi gặp một lỗ thủng trên nón, tôi thọc nhè nhẹ một ngón tay vô. Để coi bao lâu ? Có vật cưng cứng chạm vô ngón tay tôi. Tôi sợ hãi để chấp nhận sự thật. Ngón tay tôi lọt hẳn vô bên trong chiếc nón. Vật cứng đó không gì khác hơn là xương sọ của tôi do đạn phá ra. Có lẽ là nó bể. Ý nghĩ nầy làm tôi lặng người. Viên đạn có thể chui vô trong óc, nhưng chắc chắn không sâu. Tôi nhớ lại những gì đã từng học hỏi về thương tích trong lúc chiến đấu. Tôi không cảm thấy đau đớn, nhưng có lẽ vết thương đã làm tê liệt phần thân thể bên trái của tôi. Những ý nghĩ nầy đến chầm chậm. Có bao giờ bạn ngồi trong phòng lái chiếc phi cơ hư hại, nửa phần đui mù, nửa phần tê liệt, thọt mấy ngón tay qua lỗ thủng trên đầu của bạn và tìm hiểu sự việc xảy ra chưa ? Tôi ý thức những gì đã xảy ra, tôi cảm thấy chất máu nhớp nháp và lỗ thủng trên đầu của tôi, nhưng sự nghiêm trọng thật sự của vết thương không bao giờ xâm nhập vào tư tưởng của tôi lúc ấy. Tôi biết tôi bị thương, chỉ có vậy thôi.

    Tôi lại di chuyển mấy ngón tay trên mặt tôi. Nó sưng phù lên, nhiều vết sướt, và cũng có máu.

    Chiếc Zero tiếp tục bay đều. Đầu óc tôi dần dần sáng suốt thêm. Cử động của tôi chính xác hơn. Tôi hít một hơi thở thật mạnh. Không có mùi dầu, như vậy là cả máy lẫn thùng xăng không bị trúng đạn. Sự ý thức nầy là nỗi vui mừng lớn nhất trong đời chiến đấu của tôi. Với thùng xăng còn nguyên vẹn và máy móc không hư hại, chiếc phi cơ có thể nuốt hết khoảng không trình còn lại. Gió luồng vô chỗ thủng trên sọ vẫn còn rĩ máu. Tôi có thể bất tỉnh trở lại vì mất máu.

    Bỗng nhiên nỗi đau đớn bao trùm lấy tôi. Mắt phải của tôi. Nó bắt đầu mờ dần khi cơn đau gia tăng kịch liệt. Tôi đưa tay dụi mắt. Cơn đau đến lúc không chịu đựng nổi. Tôi lại dụi mắt. Tôi mù rồi!

    Tất cả phi công Nhật đều mang theo trong túi bốn mảnh băng vải hình tam giác. Tôi lôi ra một mảnh và phun nước miếng lên đó. Miệng tôi khô khốc và cảm thấy khát nước kinh khủng.

    Tôi đưa mảnh băng lên miệng để nhai cho đến khi một góc của nó trở thành ẩm ướt. Chồm về phía trước để tránh gió, tôi lau mắt với góc băng ướt. Có hiệu quả, tôi nhìn thấy chút ít.

    Một vài giây sau, khi tôi ngồi ngay ngắn trở lại, đầu tôi đau dữ dội, như có một chiếc búa gõ lên sọ. Tôi đắp ngay mảnh băng vô lổ hủng trên đầu, nhưng khi tôi vừa lấy tay ra, gió thổi mảnh băng bay mất ra ngoài cửa kiếng bể.

    Thất vọng tột cùng! Làm cách nào tôi có thể cột mảnh băng quanh đầu? Tôi phải cầm máu lại. Tay trái tôi tê liệt, tôi chỉ có thể xử dụng tay mặt để giữ mảnh băng, nhưng tay nầy phải giữ cần điều khiển và các dụng cụ khác.
    Tôi kéo mảnh băng thứ hai để đắp, nó lại bay mất khi tôi vừa lấy tay ra. Mảnh thứ ba và bốn cũng vậy. Tôi có thể làm gì đây? Tôi hầu như rối loạn. Cơn đau gia tăng dữ dội hơn.

    Tôi còn một chiếc khăn quàng bằng lụa quấn quanh cổ. Tôi tháo ra và đè một chéo dưới đùi mặt để gió khỏi cuốn đi. Sau đó tôi rút con dao bỏ túi dùng răng kéo lưỡi dao ra. Tôi cắn chặt một chéo của khăn quàng và cắt một đoạn, nhưng bị gió cuốn bay mất lập tức. Tôi không biết làm sao. Tuyệt vọng. Tôi cuống cuồng tìm giải pháp. Chỉ còn một đoạn khăn quàng.

    Tôi khom người về phía trước để tránh gió, và bắt đầu nhét đoạn khăn vô bên trong chiếc nón phi công ngay chỗ vết thương. Thành công, tôi ngồi thẳng dậy và đưa chiếc phi cơ vượt lên. Cơn đau dịu xuống nhanh chóng. Máu ngưng chảy. Nhưng cơn buồn ngủ lại ùa đến, tôi xô đuổi cách mấy cũng không được. Hơn một lần tôi chợp mắt, càm gục xuống ngực. Tôi lắc lắc đầu, hy vọng cơn đau sẽ làm tôi tỉnh táo. Chiếc phi cơ đâm đầu xuống mấy lần. Cơn buồn ngủ vẫn không xua đuổi được khiến tôi nổi giận. Tôi đưa tay tát vào má thật mạnh nhiều lần. Tôi không thể tiếp tục lối nầy mãi được. Tôi sớm cảm chất máu mằn mặn. Má tôi sưng phù thêm, không khác nào ngậm một trái banh trong miệng. Nhưng không có cách nào khác hơn, tôi tiếp tục tát vào má nữa. Có lẽ thức ăn sẽ thắng cơn buồn ngủ. Tôi lôi hộp thức ăn ra và nhét bánh mặn đầy miệng. Tôi lại cảm thấy buồn ngủ hơn bao giờ hết. Tôi nhét thêm thức ăn vô miệng nữa, nhai thật kỹ trước khi nuốt.

    Lát sau, tôi nôn mửa dữ dội. Chiếc phi cơ mất kiểm soát khi tôi vặn vẹo thân thể trong cơn nôn mửa. Thức ăn tung toé đầy trên chân tôi và trên tấm bưng dụng cụ. Ngay cả sự khổ sở mới nầy vẫn không xua đuổi nổi cơn buồn ngủ của tôi. Tôi lại tát má liên hồi cho đến khi không còn cảm giác nào nữa. Trong lúc tuyệt vọng, tôi đưa tay đập lên đầu, nhưng cũng vô ích. Tôi muốn ngủ! Ồ! Hãy cứ ngủ, quên mọi chuyện.

    Chiếc phi cơ chao qua chao lại, bay xiên xẹo. Tôi cố giữ cần lái một mực, không biết rằng nhiều khi tay tôi rớt xuống bên trái hoặc bên phải khiến cho phi cơ xoay vòng dữ dội. Tôi sẵn sàng bỏ cuộc. Tôi biết không thể giữ mãi tình trạng nầy mãi mãi. Nhưng tôi nguyện với lòng sẽ không chết như một tên hèn nhát, bằng cách chúi xuống biển hoặc ít ra tôi cũng chết như một Samurai. Cái chết của tôi sẽ mang theo nhiều kẻ thù.

    Một chiến hạm. Tôi cần một chiến hạm địch. Thoát ra khỏi cơn tuyệt vọng tràn ngập, tôi quay chiếc Zero hướng về Guadalcanal. Nhiều phút sau đó tôi tỉnh táo. Không còn buồn ngủ nữa. Không còn đau đớn nữa. Tôi có thể hiểu biết hành động của mình. Tại sao lại chết bây giờ, nếu tôi có thể bay đến Buka hoặc ngay cả Rabaul? Tôi lại quay hướng chiếc Zero và bay về phía bắc. Một vài phút sau đó tôi lại muốn thiếp ngủ. Trí óc tôi u mê. Thế giới quanh tôi mù mịt. Tôi lại quay phi cơ, hướng về Guadalcanal. Quay đi quay lại năm lần như vậy. Tôi bắt đầu la khan nhiều lần. “Hãy tỉnh”. Dần dần cơn buồn ngủ biết mất. Tôi nhắm hướng Rabaul. Nhưng hiển nhiên cứ bay về phía bắc thì không thể bảo đảm bao giờ tôi về tới căn cứ nhà. Tôi không định nổi vị trí. Tôi chỉ biết nhắm hướng Rabaul một cách tổng quát. Tôi biết tôi ở phía bắc Guadalcanal, nhưng không biết khoảng cách bao xa. Tôi nhìn xuống biển, nhưng không tìm ra một hòn đảo nào trong chuỗi đảo trải dài đến Rabaul. Chỉ chân mặt của tôi còn đạp lái được, như vậy chiếc phi cơ có thể xoay về phía đông của quần đảo Salomon.

    Tôi rút tấm hải đồ dưới ghế ngồi. Nó vấy đầy máu. Tôi nhìn hồi lâu, chà tấm hải đồ lên quần để tẩy mấy vết máu, nhưng vô ích. Tôi cố định vị trí bằng cách nhìn mặt trời nhưng vô ích, cả ba mươi phút trôi qua vẫn không có một hòn đảo nào xuất hiện. Có cái gì không ổn ? Tôi hiện ở đâu? Bầu trời trong sáng hoàn toàn, và đại dương trải dài vô tận.

    Một hòn đảo! Cuối cùng, một hòn đảo, ngay trước mặt tôi. Nó ở mãi phía chân trời, nổi lờ mờ trên mặt nước. Phấn khởi, tôi cười khan. Bây giờ, mọi việc yên rồi, tôi có thể định vị trí và chắc chắn tôi đang hướng về Rabaul. Tôi bay và tiếp tục bay, bồn chồn dõi mắt tìm kiếm bờ biển.

    Hòn đảo biến mất. Nó đâu rồi? Tôi không nằm mơ chớ? “Hòn đảo” đã trôi qua bên phải tôi, đó là một đám mây sà thấp.

    Tôi cố gắng xem lại la bàn. Tôi không thể nào đọc được những con số. Tôi cúi mọp về phía trước, mũi hầu như chạm vô mặt kiếng la bàn. Cuối cùng tôi đọc được. Tôi đang bay ở hướng 330 độ. Gần hai tiếng đồng hồ tôi không nhìn thấy hòn đảo nào cũng phải. Chiếc Zero đang tiến ra trung tâm Thái Bình Dương.

    Soát lại hải đồ, tôi biết vị trí của tôi cách phía đông bắc quần đảo Solomon 60 dặm. Chỉ phỏng đoán, nhưng đó là điều tốt nhất mà tôi có thể làm. Tôi xoay chiếc phi cơ về phía trái 90 độ và hướng đến một nơi mà tôi hy vọng là hòn đảo New Ireland, nằm phía Đông Bắc New Britain và Rabaul.

    Những lượn sóng buồn ngủ lại phủ chụp lấy tôi. Nhiều lần làm tôi hoảng hốt giữ thăng bằng khi chiếc phi cơ đảo cánh hoặc lộn ngược. Tôi bay chập choạng. Xuyên qua bầu trời, lâu lâu cúi về phía trước xem la bàn, điều chỉnh hướng bay cho đến khi tôi chắc chắn phi cơ đang tiến đến New Ireland.

    Nhưng bỗng nhiên cơn đau trên đầu gia tăng khiến tôi không còn buồn ngủ nữa. Rồi thình lình tôi tỉnh táo hẳn. Không một dấu hiệu báo trước, chiếc phi cơ tắt máy. Tôi biết bình xăng chính đã cạn.

    Tôi còn một bình xăng phụ, nhưng phải mất một thời gian ngắn để chuyển qua. Tôi nhanh chóng và chính xác khi mở nút chuyển tiếp xăng. Thông thường, công việc nầy tôi xử dụng tay trái và không có gì khó khăn. Nhưng hiện thời tay trái tôi đã liệt hẳn. Tôi phải xử dụng tay mặt, nhưng với qua phía bên kia phòng lái không tới.

    Chiếc Zero rớt xuống biển chầm chậm và êm ái. Tôi cố gắng hết sức cuối cùng mở được.

    Xăng không chảy qua ống, vì ống quá lâu nên đã thoát hết không khí. Tôi vội vã xử dụng bơm tay, dự trù cho trường hợp bất ngờ. Hiệu quả tức khắc. Với một tiếng rồ nhẹ, máy chạy trở lại và chiếc Zero lướt về phía trước. Không phí một giây nào, tôi trở lên cao độ 1.500 thước.

    Phi cơ bay chầm chậm. Tôi chỉ còn trong tau không đầy hai giờ để tiến đến hòn đảo do Nhật Bản chiếm đóng. Không đầy hai giờ, tôi sống hoặc chết.

    Một giờ trôi qua. Trước mắt tôi chỉ là biển cả bao la và bầu trời xanh thẳm. Thình lình tôi thấy một vật gì nổi trên mặt nước. Một hòn đảo! Lần nầy không lầm nữa, không phải là một đám mây trước mắt tôi. Nhứt định là một hòn đảo. Hòn đảo Xanh, hòn đảo san hô có hình chiếc móng ngựa mà tôi đã để ý trên đường bay đến Guadalcanal. Tôi soát lại bản đồ. Hy vọng tràn trề trong tôi… Tôi chỉ cách Rabaul 60 dặm.

    Sáu chục dặm. Thông thường chỉ là một cái nhảy ngắn. Nhưng tình trạng hiện thời đầy bất thường. Tôi chưa từng lâm vào tình trạng tồi tệ hơn. Tôi chỉ còn đủ nhiên liệu để bay trong vòng 40 phút. Chiếc Zero lại bị hư hại trầm trọng, ảnh hưởng rất nhiều đến tốc lực. Tôi bị thương nặng, tê liệt một phần thân thể, mắt bên mặt mù hẳn và mắt trái nhìn thấy không rõ lắm. Tôi đã kiệt sức, và tôi phải tận dụng hết năng lực để giữ chiếc phi cơ thăng bằng.

    Một hòn đảo khác, ngay trước mắt tôi. Đây là đảo New Ireland, và phía xa xa là rặng núi cao 2.400 bộ. Vượt qua phía bên kia rặng núi đó, tôi có thể về tới Rabaul.

    Tôi đã đấu mặt với với hàng loạt chướng ngại vật phía trước khi có thể tiến vô căn cứ nhà. Những đám mây dầy đặc tụ quanh các đỉnh núi, và một cơn mưa bão thật dữ dội trút xuống. Dường như khó có thể vượt qua nổi. Kiệt quệ cả tinh thần lẫn thể xác, nửa đui nửa sáng, và trong một chiến đấu cơ hư hại trầm trọng, làm sao tôi có thể vượt qua một cơn mưa bão, nguy hiểm tột cùng ngay cả dưới những tình trạng bình thương ?

    Tôi không thể bay vòng. Kim đồng hồ chỉ mực xăng của tôi càng lúc càng hạ thấp. Tôi chỉ còn vài mươi phút trên không. Tôi bậm môi và quay về hướng nam. Chiếc phi cơ bay chầm chậm xuống eo biển George nằm giữa Rabaul và New Ireland. Hai vệt trắng xoá lướt trên mặt nước phía dưới cánh tôi. Tôi thấy hai chiến hạm Nhật, có vẻ là hai tuần dương hạm hạng nặng, đang xả hết tốc lực chạy về hướng nam, tức hướng Guadalcanal.

    Tôi hầu như ứa nước mắt khi nhìn thấy hai chiến hạm. Tôi muốn chúi phi cơ xuống biển, một trong hai tuần dương hạm có thể cứu tôi. Hy vọng tràn ngập trong tôi. Rabaul lúc ấy hình như cách xa hàng triệu cây số. Tôi quần mấy lần trên hai chiến hạm, sẵn sàng đáp xuống mặt nước.

    Tôi không thể thực hiện ý định của mình. Hai tuần dương hạm đang trên đường đến Guadalcanal để chiến đấu. Nếu chúng ngừng lại để vớt tôi lên, việc nầy không chắc lắm, nhiệm vụ thúc bách của chúng sẽ trì trệ. Không thể nào đáp được.

    ( Nhiều tuần lễ sau nầy tôi mới biết được đó là hai tuần dương hạm Aoba và Kinugasa, mỗi chiếc 9.000 tấn đang hướng đến Guadalcanal với tốc lực hơn 33 hải lý một giờ. Cùng với nhiều chiến hạm khác, Aoba và Kinugasa tấn công đoàn công voa của Đồng Minh ở Luga, đánh chìm bốn tuần dương hạm cùng gây hư hại cho một tuần dương hạm và hai khu trục hạm khác của địch quân).

    Một lần nữa, tôi quay về hướng Rabaul. Đồng hồ chỉ mức độ xăng cho thấy chỉ còn hai mươi phút bay nữa mà thôi. Tuy nhiên nếu không tiến về Rabaul được, tôi có thể đáp trên bãi biển. Thế rồi hòn núi lửa quen thuộc hiện ra ở chân trời. Đã đến nơi rồi, Rabaul đã nằm trong tầm mắt.

    Tôi phải đáp xuống. Việc nầy thật khó khăn vô cùng, với một nửa thân thể hoàn toàn tê liệt của tôi. Tôi cố đảo quanh phi trường, không quyết định, không biết làm gì. Tôi không biết rằng tôi đã bị báo cáo mất tích, tôi cũng không biết rằng tất cả các phi cơ khác đã đáp xuống hai giờ trước đó, ngoại trừ hai chiếc bị hạ ở Guadalcanal. Sau nầy đại úy Sasai nói với tôi ông không tin hai mắt của mình khi nhận ra chiếc Zero của tôi xuyên qua ống dòm. Ông la tên tôi thật lớn, và tất cả các phi công khác túa ra khắp nơi trên phi đạo. Tất cả những gì tôi nhìn thấy được là phi đạo nhỏ hẹp phía dưới.

    Tôi quyết định đáp xuống mặt nước cạnh bờ biển. Chiếc Zero xuống chầm chậm. Tám trăm bộ, bảy, bốn rồi một trăm bộ, tôi chỉ còn cách mặt nước năm mươi bộ. Tôi lại thay đổi ý kiến. Hình ảnh chiếc phi cơ vỡ tan trong biển và chiếc đầu bị thương của tôi đập về phía trước, là hình ảnh đáng sợ đối với tôi. Tôi cảm thấy khó có thể sống sót được.

    Tôi vượt lên và quay lại phi đạo ở cao độ 1.500 bộ. Lần nầy hoặc là tôi đáp xuống hoặc là không bao giờ nữa. Chiếc Zero hạ chầm chậm khi tôi đẩy cần điều khiển về phía trước. Tôi hạ bánh xe. Tốc lực chiếc phi cơ giảm xuống. Tôi nhìn những dãy chiến đấu cơ xếp dài hai bên phi đạo đang xô chạy về phía tôi. Tôi phải tránh đụng chạm các phi cơ đó. Tôi vượt trở lên, vì nhận thấy tôi đã xuống lệch quá xa về phía trái.

    Sau khi quần lần thứ tư trên phi trường, tôi cố đáp xuống một lần nữa. Dù cho xăng còn rất ít trong bình, chiếc phi cơ vẫn có thể nổ nếu nó đụng chạm. Hàng dừa trồng ở đầu phi trường lờ mờ trước mắt tôi. Tôi lướt phía trên và cố điều chỉnh độ cao của tôi bằng những ngọn dừa nầy. Bây giờ … tôi đã ở trên phi đạo. Có một cái xốc thật mạnh khi bánh xe của chiếc phi cơ chạm mặt đất. Tôi kéo ngược cần điều khiển và ghì chặt với tất cả sức mạnh để giữ cho chiếc phi cơ khỏi chạy xiên vẹo. Chiếc Zero lăn bánh và ngừng lại gần Bộ Chỉ Huy. Tôi cố mỉm cười, một làn sóng thẫm đen phủ chụp lên tôi.

    Tôi cảm thấy như bị rớt và chìm xuống đáy của một cái hố sâu vô tận. Mọi vật hình như đều xoay tít dữ dội. Tôi nghe những tiếng thét gọi tên tôi vang lên xa xa. “Sakai! Sakai” Tôi rủa thầm. Tại sao họ không giữ im lặng? Tôi muốn thiếp ngủ.

    Màu đen biến mất. Tôi mở mắt ra nhìn thấy nhiều khuôn mặt bao quanh tôi. Tôi đang nằm mơ, hay tôi đã thật sự trở về Rabaul? Tôi không biết. Mọi thứ đều không thật. Tất cả đều là mộng mị. Tôi chắc vậy. Những gì tôi thấy không thể là sự thật. Mọi thứ đều tan thành những lượn sóng màu đen thẫm và những tiếng la lớn.

    Tôi cố gượng dậy. Tôi bám vào cạnh cửa buồng lái phi cơ và đứng lên. Đó là “Rabaul”. Cuối cùng, không phải là mộng mị. Thế rồi tôi ngã quỵ xuống hẳn.

    Những cánh tay mạnh mẽ nhấc bổng tôi ra khỏi phi cơ. [/spoil]
     
    Chỉnh sửa cuối: 9/8/13
  2. SowonAoD

    SowonAoD C O N T R A

    Tham gia ngày:
    26/12/12
    Bài viết:
    1,741
    Đọc mãi mới hết, yêu cầu bác chủ cho từng chap vào spoil cái @@

    - - - Updated - - -

    Đọc mãi mới hết, yêu cầu bác chủ cho từng chap vào spoil cái @@
     
  3. ki43hayabusa

    ki43hayabusa The Warrior of Light

    Tham gia ngày:
    14/3/07
    Bài viết:
    2,032
    Nơi ở:
    Manchester
    còn nữa bác ạ....chưa hết ạ.........
     
  4. SowonAoD

    SowonAoD C O N T R A

    Tham gia ngày:
    26/12/12
    Bài viết:
    1,741
    Em biết là chưa hết nhưng mà ko có spoil chắc em chả dám đọc nữa @@
     
  5. vitcai

    vitcai Dragon Quest

    Tham gia ngày:
    1/3/13
    Bài viết:
    1,386
    thêm ảnh ò này nọ đi cha :v .
     
  6. kanteung

    kanteung Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    15/3/07
    Bài viết:
    195
    Đọc rồi, đọc nữa vẫn thấy thích
     
  7. ki43hayabusa

    ki43hayabusa The Warrior of Light

    Tham gia ngày:
    14/3/07
    Bài viết:
    2,032
    Nơi ở:
    Manchester
    tại sao ko cho vào spoiler dc hu hu
     
  8. kanteung

    kanteung Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    15/3/07
    Bài viết:
    195

Chia sẻ trang này