Chào mừng các member với tác phẩm kinh điển của văn học Trung Quốc. Nghiêm cấm post bài, comment trong Topic này! Thanks and Enjoys! Tam Quốc Chí Bài Ca Mở Ðầu (Và cũng là bài ca kết thúc) Sông dài cuồn cuộc ra khơi , Anh hùng : sóng dập, cát vùi thiên thu... Dở hay, thành bại nào đâu ? Bể dâu chớp mắt , nghoảnh đầu thành mơ ! Non xanh còn đó trơ trơ , Tà dương lần lửa sưởi hơ ánh hồng . Lão tiều gặp lại ngư ông , Bên sông gió mát , trăng trong , kho trời . Rượu vò lại rót khuyên mời , Cùng nhau lại kể chuyện thời xa xưa... Kể ra biết mấy cho vừa ? Nói cười hỉ hả , say sưa quên đời... . ___________Auto Merge________________ . Hồi Thứ Nhất - Tam Quốc Chí - La Quán Trung Hội Ðào Viên Anh Hùng Kết Nghĩa Ðánh Huỳnh Cân Hào Kiệt Lập Công Phàm thế cuộc trong thiên hạ (1), chia rồi lại hợp, hợp rồi lại chia. Tỷ như nhà Châu mất vận, bảy nước phân tranh, sau đó nhà Tần lại gồm thâu về một mối. Rồi khi nhà Tần bị diệt vong, để cho Hán, Sở tranh hùng, và cuối cùng Hán đã diệt Sở để thu về một mối. Nhà Hán kể từ vua Cao Tổ là Lưu Bang trảm xà khởi nghĩa thống nhất được thiên hạ, giữ lấy ngai vàng cho Ðến khi vua Quang Vũ là Lưu Tú quật khởi, giết loạn thần là Vương Mãng, phục hưng cho nhà Hậu Hán (2), rồi truyền Ðến đời vua Hiến Ðế thì bị chia làm ba nước. Cái nguyên do rối loạn sau này là do tới hai ông vua Hoàn Ðế và Linh Ðế. Vua Hoàn Ðế giam cầm các bề tôi trung trực, lại tin dùng bọn hoạn quan, làm cho thế nước bị suy vi. Khi vua Hoàn Ðế băng hà, vua Linh Ðế lên nối ngôi, có quan Ðại Tướng Quân Ðậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp việc trị nước. Hai vị tôi thần nầy vốn một lòng trung nghĩa, nhưng bên cạnh lại có bè lũ hoạn quan Tào Tiết chuyên quyền làm bậy. Ðậu Vũ và Trần Phồn lập mưu tru diệt bọn này để trừ tai họa cho nước, chẳng may cơ mưu bị bại lộ, hai vị tôi thần nầy đều bị chúng hãm hại. Từ đó, bọn hoạn quan càng lộng quyền, chúng liên kết với loạn thần tác yêu, tác quái. Năm Kiến Ninh thứ hai (niên hiệu của vua Linh Ðế), tháng tư ngày rằm, nhà vua ngự ra điện Ôn Ðức, vừa ngồi xuống ngự ỷ, bỗng có một trận cuồng phong rất lớn nổi lên, rồi một con rắn xanh to tướng từ trên sà ngang cung điện rơi xuống nằm ngang trên ngự ỷ. Vua thất kinh ngã lăn ra bất tỉnh, các quan hầu cận phải đưa vua vào nội cung cứu cấp. Nhưng chỉ trong giây lát, con rắn biến đi đâu mất, trời lại nổi lên một trận cuồng phong dữ dội, mưa tuôn như trút nước. Kế đó, mưa đá lại rơi theo tới hơn nửa ngày, nhà cửa bị hư sập vô số. Vào tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư, kinh đô Lộc Dương lại bị động đất, rồi nước biển dâng lên tràn ngập cả một miền duyên hải. Dân cư, làng mạc, của cải bị sóng cuốn ra khơi mất tích. Cũng vào đời vua Linh Ðế, vào năm Quang Hòa thứ nhất, tại một vùng thôn dã, có một con gà mái hóa gà trống, rồi đến ngày mồng một tháng sáu, một luồng hắc khí dài hơn mười trượng bay thẳng vào điện Ôn Ðức. Cũng vào mùa thu năm đó, trước nhà Ngọc Ðường bỗng hiện lên một cầu vồng sáng chói. Sườn núi Ngữ Nguyên bị sụp lở, đất đá đè chết người. Chỉ trong thời gian mấy năm mà không biết bao nhiêu sự việc ly kỳ xảy ra. Vua buồn bã hạ chiếu hỏi các quan triều thần tới sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Quan Nghị Lang Thái Ung dâng sớ tâu, đại ý nói: "Rắn sa, gà mái hóa gà trống là điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước..." Lời tâu rất thống thiết, khiến nhà vua xem xong cũng phải não lòng. Vua chỉ thở dài rồi quay vào thay áo. Bấy giờ Tào Tiết đứng núp đằng sau vua, xem trộm được tờ biểu, thấy thế tức giận vô cùng, liền bàn mưu với bè đảng của hắn, lập kế gieo tội cho Thái Ung, và cách chức đuổi Thái Ung về làm thứ dân nơi điền lý. Sau đó bọn Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng, tất cả mười người họp nhau xưng là "Thập Thường Thị" chuyên làm điều gian ác. Vua Linh Ðế lại nhu nhược, tin dùng Trương Nhượng như một kẻ tôi trung, việc triều chính đều giao cho Trương Nhượng quyết đoán, Ðến nỗi kêu Trương Nhượng bằng "Á phụ". Triều đình càng bê tha thối nát, lòng người muốn nổi loạn, giặc giã khắp nơi dấy loạn lên như ong vỡ tổ. Bấy giờ, tại quận Cự Lộc có ba anh em họ Trương là Trương Giác, Trương Bảo, và Trương Lương. Trương Giác thi hỏng Tú Tài, không quản đèn sách nữa, ngày ngày vào núi hái thuốc. Bỗng một hôm, Trương Giác gặp một ông lão mặt đỏ như hài đồng, mắt xanh như nước biếc, tay chống gậy lê, kêu Trương Giác vào một hang núi, rồi trao cho ba quyển "thiên thư" và dặn: - Ðây là bộ "Thái bình yêu thuật" ta ban cho con để học. Học được sách này, con phải thay trời mà tuyên hóa, cứu dân độ thế. Còn nếu manh tâm đổi dạ thì sẽ gặt lấy quả báo không nhỏ. Trương Giác tiếp lấy Thiên thư, bái tạ rồi yêu cầu xin được biết tên ông lão. Ông lão nói: - Ta chính là Nam Hoa Lão Tiên đây. Dứt lời hóa thành luồng gió mát bay đi mất. Trương Giác được bộ sách ấy, ngày đêm tập luyện, chẳng bao lâu đã biết cách kêu mưa gọi gió, và tự xưng hiệu là "Thái Bình đạo nhân". Vào tháng giêng năm Trung Bình thứ nhất (cũng đời vua Linh Ðế), có bệnh thời khí nổi lên, lan rộng khắp vùng. Trương Giác đem bùa phép đi trị bệnh cho dâng gian, lấy hiệu là "Ðại Hiền lương sư". Lúc đó Trương Giác lại có dạy thêm được hơn năm trăm đồ đệ, cũng học rành phép bùa chú, nên cả thầy trò chia nhau vân du khắp nơi. Thấy việc chữa bệnh của Trương Giác có hiệu quả, thiên hạ đồn ầm lên, và rủ nhau theo làm đồ đệ của Trương Giác mỗi ngày một đông thêm. Trương Giác đem tất cả tín đồ trong thiên hạ chia ra làm ba mươi sáu phường, mỗi phường có hơn một vạn người, và có cử một viên Cừ Soái để cai quản. Rồi Trương Giác lại tự xưng mình là Tướng Quân, coi cả ba mươi sáu phường đó. Chưa hết, Giác còn phao ngôn để mê hoặc dân chúng rằng: "Trời xanh đã chết, trời vàng nên lên thay. Ðến năm Giáp Tý, thiên hạ đại cát". Giác lại truyền cho các tín đồ dùng đất sét trắng viết lên nơi cửa lớn hai chữ "Giáp Tý", và dân cư khắp tám châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, ai muốn được hưởng phước phải viết danh vị "Ðại Hiền lương sư Trương Giác" mà thờ. Trương Giác đã có ý làm phản, nên mật sai đồ đệ là Mã Nguyên Nghĩa đem vàng bạc gấm vóc vào triều lo lót với tên hoạn quan Phong Tư, để nhờ tên này làm nội ứng. Trương Giác lại bàn với hai người em rằng: - Cái khó đạt nhất là lòng dân. Nay dân đã thuận theo mình rồi, nếu không thừa cơ đoạt thiên hạ thì đáng tiếc lắm. Rồi Trương Giác vội vã sắm cờ vàng, khăn vàng để hẹn ngày khởi sự. Giác sai một tên đệ tử là ựường Châu mang mật thư đưa cho Phong Tư, nhưng chẳng may Ðường Châu không thích hành động của Giác cho nên chạy thẳng vào tòa Thượng Thư cáo biến. Thế là việc làm của Trương Giác bị bại lộ. Vua hay tin phản loạn liền triệu Ðại Tướng Quân Hà Tiến vào triều, truyền bắt Mã Nguyên Nghĩa đem chém, và hạ ngục cả gia quyến Phong Tư hơn ngàn người. Trương Giác thấy vậy liền gấp rút khởi binh, tự xưng là Thiên Công Tướng Quân, phong cho Trương Bảo làm Ðịa Công Tướng Quân, Trương Lương làm Nhân Công Tướng Quân. Thủ Lĩnh HOàng Cân: Thiên Công Trương Giốc - Địa Công Trương Bảo - Nhân Công Trương Lương Giác lại rêu rao với bá tánh rằng: "Nay vận Hán đã hết, có đại thánh nhân xuất thế, ai nấy thuận trời theo chính, để hưởng thái bình an lộc." Thế là khắp bốn phương có hơn bốn, năm mươi vạn người đội khăn Vàng hưởng ứng theo Trương Giác làm phản. Thế giặc rất mạnh, quan quân nghe gió đã chạy dài. Hà Tiến liền tâu với vua cấp tốc sai sứ đến các Châu, Quận truyền lệnh phòng ngự, ngăn địch lập công. Ðồng thời sai Trung Lang Tướng Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, và Châu Tuấn dẫn ba đội tinh binh chia ra làm ba đường dẹp giặc. Đại Hán Tam Tướng Quân Lư Thực - Hoàng Phủ Tung - Chu Tuấn Bấy giờ, giặc Khăn Vàng một đạo do Trương Giác cầm đầu, kéo thẳng đến U Châu xâm lấn. Quan Thái Thú châu này là Lưu Yên vốn dòng tôn thất ở đất Cảnh Lăng, vùng Giang Hạ, là con cháu Lỗ Cung Vương nhà Hán. Lưu Yên thấy tình thế khẩn trương vội triệu quan Hiệu Úy Châu Tĩnh vào bàn kế. Thái Thú U Châu Lưu Yên - Hiệu Úy Trâu Tĩnh Châu Tĩnh nói: - Quân giặc đông như nước lũ, quân ta ít không thể nào ngăn nổi. Minh công nên gấp rút chiêu mộ nghĩa binh mới giữ nổi Châu này. Lưu Yên nghe lời liền treo bảng khắp nơi chiêu mộ nghĩa binh. Ngày kia, bản văn đưa đến Trác Huyện, dân chúng ra xem đông nghịt. Trong số dân chúng ấy có một vị anh hùng tánh tình khoan hòa, ít nói, mừng giận không lộ ra sắc mặt, nhưng lại có chí lớn, thường kết giao với các anh hùng, hào kiệt trong thiên hạ. Người này mình cao tám thước, hai tai lớn như chày, môi đỏ như thoa son, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Ðức, vốn cháu chắt Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu Thắng, tức dòng dõi vua Hiếu Cảnh Hoàng Ðế nhà Hán. Đại Hán Tả Tướng Quân, Nghi Thành Đình Hầu, Hán Tiên Đế Lưu Bị Nguyên trước kia, thời Hán Vũ Ðế, con trai Lưu Thắng là Lưu Trinh được phong tước Trác Lộc Ðình Hầu. Về sau, nhân một buổi tế tông miếu, Lưu Trinh vào dâng vàng hành lễ, chẳng may vàng sắc xấu, bị mất tước Hầu (3), và từ đấy con cháu mới có một chi dời về Trác Quận lập nghiệp. Lưu Huyền Ðức tức là cháu Lưu Hùng, con Lưu Hoằng. Lưu Hoằng có thi đậu Hiếu Liêm, rồi làm chức Lại, nhưng mất sớm. Huyền Ðức mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Tánh ham đọc sách, nhưng nhà nghèo, Huyền Ðức phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu để sinh sống. Nhà ông ở tới thôn Lâu Tang, phía Ðông Nam có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, đứng xa trông như một chiếc lọng vậy. Ðã có nhiều người đi qua trông thấy câu dâu kỳ dị ấy, từng nói: - Nhà này ắt sanh quý tử. Lúc còn nhỏ, Huyền Ðức thường chơi đùa với trẻ con trong làng, và thường đứng dưới gốc cây dâu mà nói: - Tao làm Thiên tử, nên ngự cỗ xe có lọng nầy! Người chú là Lưu Nguyên Khởi nghe nói thường mắng: - Cháu chỉ nói bậy. Tuy vậy, Nguyên Khởi cũng nói rằng: - Thằng bé này phải là một người phi thường mai sau. Nhân thấy nhà Huyền Ðức nghèo, Lưu Nguyên Khởi tìm cách giúp đỡ để Huyền Ðức ăn học. Năm Huyền Ðức mười lăm tuổi, được mẹ cho đi du học, thụ giáo Trịnh Huyền và Lư Thực, lại kết bạn với Công Tôn Toản. Ðến nay, Huyền Ðức đã được hai mươi tám tuổi, và ngày hôm ấy, khi đọc bản chiêu quân của Lưu Yên, Huyền Ðức cảm khái thở dài một tiếng. Bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói lớn: - Ðại trượng phu phải vì quốc gia mà ra sức, chứ than thở có ích gì? Huyền Ðức quay đầu lại, thấy người vừa nói mình cao tám thước, mặt dữ như cọp, mắt ốc tròn xoe, hàm én râu hùm, tiếng nói rền như sấm. Biết không phải là người thường, Huyền Ðức liền hỏi thăm tên họ. Người ấy đáp: - Tôi họ Trương tên Phi, tự là Dực Ðức, ông cha mấy đời ở nơi Trác Quận nầy làm nghề bán rượu, mổ thịt, vì vậy tôi cũng có chú ít ruộng vườn, thích kết giao những anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, nay thấy ông xem bảng chiêu quân mà than thở nên hỏi thử một lời. Huyền Ðức nói: - Tôi vốn là người trong thân tộc nhà Hán, họ Lưu tên Bị, đáng lẽ trong lúc giặc "Khăn Vàng" dấy loạn cũng phải góp một phần cứu nước an dân, nhưng vì sức chưa làm được nên đau lòng than thở. Trương Phi nói: - Nhà tôi cũng có chút ít của cải, tôi muốn bỏ ra để tuyển mộ một đoàn hương dũng, rồi cùng ông cử đại sự, ông thấy có nên chăng? Huyền Ðức rất mừng, nắm tay Trương Phi dắt vào trong quán rượu đàm đạo. Trong lúc hai người đang đối ẩm bàn thế sự thì bỗng thấy một đại hảo hán đẩy một chiếc xe để ngoài cửa rồi bước vào thét tửu bảo, nói: - Ðem rượu thịt ra đây! Hôm nay ta uống say sưa cho một bữa để ngày mai đầu quân giết giặc. Huyền Ðức liếc nhìn ra cửa thấy người này mình cao lớn chín thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt. Biết người ấy cũng là một cái thế kỳ nhân, nên Huyền Ðức vội đứng dậy tiếp mời vào ngồi chung bàn và hỏi thăm danh tánh. Người ấy đáp: - Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Thọ Trường, sau đổi là Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh Hà Ðông. Nhân vì vùng tôi ở có một tên thổ hào ỷ thế hiếp đáp dân lành, tôi nổi giận giết chết nó rồi bỏ đi lánh nạn. Tôi phiêu bạt trong giang hồ đã hơn năm năm, nay nghe có giặc "Khăn Vàng" nổi lên khấy nhiễu, nên muốn đầu quân trừ giặc, cứu an bá tánh. Đại Hán Hán Thọ Đình Hầu, Kinh Tương Đô Đốc, Thục Hán Ngũ Hổ Đại Tướng Quân Quan Vũ Huyền Ðức cũng đem chí nguyện của mình tỏ bày. Vân Trường mừng rỡ uống ba chung rượu rồi theo Huyền Ðức và Trương Phi dắt nhau về trang trại để bàn bạc. Trương Phi nói: - Muốn làm nên việc lớn, cốt nhất phải hiệp sức đồng tâm mới được. Sau nhà tôi có một vườn đào đang tiết hoa nở rất nhiều, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo trời đất, kết làm anh em. Huyền Ðức và Vân Trường đồng thanh khen phải. Ngày hôm sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng bày đủ lễ trong vườn đào. Ba người đứng trước hương án, vái mỗi người hai cái rồi cùng thề rằng: "Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực, cứu khổn lao động đường phố nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt." Thề xong, ba người đem so tuổi nhau thì Huyền Ðức được làm anh cả, Vân Trường làm thứ, Trương Phi làm em út. Trương Phi lại sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng đem mổ làm tiệc tới vườn đào, tập trung tất cả dũng sĩ trong vùng đến ăn uống. Dũng sĩ tề tựu có tới hơn ba trăm người, vui say một bữa thật no nê. Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới, mọi việc tạm yên, chỉ hiềm một nỗi còn thiếu ngựa để cỡi. Trong lúc đang lo tính, bỗng có một người chạy vào báo: - Có hai người khách thương, cùng đoàn tùy tùng dẫn bầy ngựa khá đông, đang đi về hướng trang trại này. Huyền Ðức nói: - Ðây là trời giúp ta! Ba anh em vội ra khỏi trại đón tiếp hai người khách thương mời vào trang trại. Hai người này chính là hai thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người là Trương Thế Bình, một người là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống ngựa khỏe đem về Tràng An bán. Nay vì miền này có giặc nên không thể đem ngựa đi qua được. Sau khi đã mời được hai vị khách thương vào trại, Huyền Ðức hối dọn tiệc đãi đằng, rồi đem ý muốn cứu dân độ thế của mình ra bày tỏ. Hai người khách thương vui lòng hiến cho năm mươi con ngựa khỏe, lại tặng thêm năm trăm lượng vàng bạc, một ngàn cân thép tốt để rèn binh khí và giáp trụ. Khách cáo từ, Huyền Ðức tạ ơn tiễn chân vài dặm rồi trở về cậy thợ giỏi chế một đôi song cổ kiếm. Vân Trường cũng đánh một cây đại đao "Thanh long yểm nguyệt", gọi là "Lãnh diễm cứ" nặng tám mươi hai cân. Trương Phi rèn một cây trượng "Bát điểm cương mâu". Ai nấy đều trang bị cương giáp, rồi kéo năm trăm quân hương dũng đến ra mắt quan Thái Thú Lưu Yên. Lưu Yên hỏi đến danh tánh, ba anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Huyền Ðức còn nói cho Lưu Yên biết mình là tông phái Hoàng Gia. Lưu Yên mừng rỡ nhận Huyền Ðức làm cháu (So theo vai vế thì Lưu Yên thuộc vai chú bác). Vào thành chưa được vài hôm thì đã có tin quân thám thính về báo: - Tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí thống lãnh năm vớn quân kéo đến quấy nhiễu Trác Quận. Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Ðức cùng năm trăm quân hương dũng đi trước phá giặc. Anh em Huyền Ðức không hề ngần ngại, lãnh quân tiền đạo trực chỉ đến chân núi Ðại Hưng, và trông thấy quân giặc cũng vừa kéo đến đó. Huyền Ðức thúc ngựa ra trước trận, bên tả có Vân Trường, bên hữu có Trương Phi yểm hộ. Huyền Ðức giơ roi thét mắng quân giặc: - Phản loạn, đừng hòng múa rối, hãy xuống ngựa đầu hàng cho sớm. Trình Viễn Chí nổi giận sai Phó Tướng Ðặng Mậu ra đánh. Ðặng Mậu vừa nhảy ra đã bị Trương Phi xông đến đâm một xà mâu trúng ngay giữa ngực, ngã lăn xuống ngựa. Hoàng Cân Quân Trình Viễn Chí - Đặng Mậu Thấy Phó Tướng mình chưa ra tay đã bị hại rồi, Trình Viễn Chí liền múa đao đến đánh Trương Phi, nhưng Vân Trường đã vung Thanh Long Ðao cản lại. Uy lực của Vân Trường rất mạnh, Trình Viễn Chí kinh hãi run sợ, trở tay không kịp bị Vân Trường chém một đao đứt làm hai đoạn. Người sau có thơ khen Vân Trường và Trương Phi như sau: Anh hùng xuất trận buổi đầu tay, Một thử xà mâu, một thử đao. Khí tiết rạng ngời oai lực khét, Chia ba thiên hạ rạng anh hào. Quân giặc bị mất chủ tướng hoảng hốt chạy dài. Huyền Ðức xua quân đuổi đánh, chúng đầu hàng vô số. Ðoàn quân đắc thắng kéo về thành được Lưu Yên thân hành ra tận bên ngoài tiếp đón và ủy lạo quân sĩ. Sáng hôm sau, lại có tin giặc "Khăn Vàng" Ðến vây phá Thanh Châu, và quan Thái Thú Thanh châu là Cung Cảnh cho người sang cầu cứu. Lưu Yên liền cho mời Huyền Ðức đến thương lượng. Huyền Ðức nói: - Giặc cậy thế đông chia quân khuấy rối, nay U châu đã tạm yên, Bị này xin tình nguyện đem quân để cứu Thanh Châu. Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh đem năm ngàn quân cùng ba anh em Huyền Ðức kéo đi. Giặc thấy cứu binh tới liền chia làm ba đạo, bao vây rất ngặt. Huyền Ðức thấy mình ít quân quá, không thể nào cự nổi liền cho lệnh rút quân ngoài ba mươi dặm hạ trại. Ðoạn nói với Quan, Trương: - Muốn phá giặc phải thi hành kỳ binh mới được. Rồi chia cho Vân Trường một ngàn quân dọn ra phục bên tả nơi chân núi, Trương Phi cũng lãnh một ngàn quân phục bên hữu nơi chân núi. Sáng hôm sau, Huyền Ðức cùng Châu Tĩnh dẫn quân gióng trống tiến đến trới địch. Quân giặc ra nghênh chiến, Huyền Ðức giả thua kéo quân chạy về. Tưởng mình đắc thế, quân giặc ồ ạt đuổi theo. Khi đuổi đến chân núi, bỗng nghe mấy tiếng chiêng báo hiệu, hai toán quân phục của Vân Trường và Trương Phi đồng kéo ra một lượt đánh bộc hậu. Ðạo quân của Huyền Ðức quay lại tác chiến. Ba mặt đánh dồn, quân giặc đại bại, chết không biết bao nhiêu mà kể. Chúng bỏ kết cờ xí, mạnh ai nấy chạy. Huyền Ðức xua quân truy kích, đuổi đến thành Thanh Châu thì quan Thái Thú Cung Cảnh hay được tin thắng trận vội mở cửa thành thúc quân tràn ra tiếp ứng. Nhờ đó mà Thanh Châu được giải vây, quân giặc tản mác hết. Người sau có thơ khen Huyền Ðức: Mưu hay tỏ rõ sức thần công, Hai cọp suy ra kém một rồng. Gặp lúc cô cùng, người mới rõ, Tam phân thiên hạ, xứng anh hùng Cung Cảnh đón tiếp ba anh em Huyền Ðức và Châu Tĩnh vào thành bày tiệc khao thưởng ba quân. Tiệc xong, Châu Tĩnh muốn trở về U Châu, Huyền Ðức nói: - Gần đây, nghe quan Trung Lang Tướng Lư Thực đánh nhau với Trương Giác, chúa giặc Khăn Vàng tới Quảng Tôn. Bị tôi xưa đã từng theo học Lư tiên sinh, nay muốn đến đó giúp ân sư một phen. Châu Tĩnh bằng lòng, dẫn quân trở về một mình. Ba anh em Huyền Ðức đem năm trăm quân bản bộ thẳng đến Quảng Tôn, vào dinh ra mắt Lư Thực, và nói rõ ý kiến mình tình nguyện phá giặc. Lư Thực mừng lắm, lưu ba anh em Huyền Ðức dưới trướng để đợi lệnh. Bấy giờ, Trương Giác có hơn mười lăm vạn quân, chia ra quấy nhiễu nhiều chỗ. Phần Trương Giác thì giữ năm vạn, đang cầm cự tới Quảng Tôn, chưa phân thắng bại. Lư Thực bảo Huyền Ðức: - Nay Trương Giác bị ta vây ở đây chưa thể làm gì được, nhưng hai người em của nó là Trương Lương, Trương Bảo đang quấy rối ở Dĩnh Xuyên, đối trận với Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn. Nếu quân giặc ở Dĩnh Xuyên mà thắng thế được thì nơi đây ắt bị nguy hiểm. Vậy ngươi hãy dẫn binh mã bản bộ, và thêm một ngàn quân ta cấp, đến Dĩnh Xuyên dò thám tình hình, sau sẽ hẹn ngày cùng đánh. Huyền Ðức lĩnh mệnh, kéo quân đi suốt ngày đêm mới đến Dĩnh Xuyên. Bấy giờ Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn đang đánh nhau với quân giặc. Giặc núng thế phải rút lui vào Trường Xã, dựa thế một rừng lau rậm rạp để lập doanh trại. Hoàng phủ Tung bàn với Châu Tuấn: - Giặc tuy đông, nhưng khờ khạo. Chúng lập doanh trại trong rừng lau, vậy ta nên dùng hỏa công mà đốt. Liền đó Hoàng Phủ Tung ra lệnh cho quân sĩ mỗi người đem theo một bó cỏ khô kéo đi mai phục. Ðêm ấy gặp gió lớn, quân Hán nhất tề phóng hỏa đốt trại. Giữa lúc đó Hoàng phủ Tung và Châu Tuấn dẫn hai ngàn kỵ binh xông vào chém giết. Trại giặc lửa cháy ngợp trời, quân giặc hoảng hốt không kịp mặt giáp lên yên, bỏ chạy tứ tán. Quân Hán chém giết cho đến lúc trời mờ sáng thì mới thấy Trương Lương, Trương Bảo thu thập tàn quân cướp đường chạy thoát chết. Quân giặc chạy chưa đầy ba mươi dặm thì lại gặp một tướng mắt nhỏ, râu dài, mình cao bảy thước, đang cầm đầu một đạo quân cắm toàn cờ đỏ, đổ ra chận đánh. Bị trận phục kích thứ hai này, quân giặc bạt vía kinh hồn, lớp thì chết, lớp ôm đầu chạy trốn không còn một manh giáp. Vị tướng nhỏ vừa xuất hiện chính là quan Kỵ Ðô Úy, người Tiêu Quận, nước Bái, họ Tào tên Tháo, tự là Mạnh Ðức. Đại Hán Thừa Tướng, Ngụy Vũ Đế Tào Tháo Trước kia, cha Tào Tháo vốn họ Hạ Hầu tên là Hạ Hầu Tung, nhưng sau làm con nuôi quan Trung Thường Thị Tào Ðằng nên Hạ Hầu Tung mới đổi ra là Tào Tung. Tào Tung sanh ra Tào Tháo có đặt cho Tháo tiểu tự là A Man, lại có thêm một tên nữa là Cát Lợi. Lúc thiếu thời, Tào Tháo thích chơi bời, săn bắn, hát xướng, nhưng bản lãnh lại rất mưu mô xảo quyệt. Người chú của Tào Tháo thấy cháu mình du đãng, ham chơi bỏ học nên có nhiều lần phiền trách nói cho Tào Tung biết. Mỗi lần như vậy, Tào Tung kêu con vào quở mắng, Tào Tháo đem lòng giận chú, mới nghĩ ra một kế. Một hôm, thấy chú đến chơi, Tào Tháo giã vờ ngã lăn xuống đất, ngất lịm như trúng gió. Người chú thấy vậy thất kinh vội chạy đi tìm Tào Tung báo lại. Lúc Tào Tung chạy ra xem, thì thấy Tháo vẫn đứng chơi không có việc chi cả. Tào Tung ngạc nhiên hỏi: - Kìa, sao chú con bảo là con trúng gió? Tào Tháo thản nhiên thưa: - Từ trước đến nay con có bệnh tật gì đâu? Có lẽ con đã làm điều gì mất lòng chú, nên chú giận rủa con như vậy. Tào Tung nghe lời con, nên về sau Tào Tháo có lỗi gì người chú phiền trách, Tào Tung đều bỏ qua, không trách mắng Tháo nữa. Tháo được thế càng chơi bời phóng đãng hơn. Thời ấy, có người tên là Kiêu Huyền bảo Tháo rằng: - Thiên hạ loạn to đến nơi rồi, nếu không phải là người có tài tái thế, không ai xoay loạn ra an được. Người tài ấy có lẽ là ông đấy. Lại có một người nữa ở Nam Dương, tên Hà Ngung, có dịp gặp Tào Tháo về nhà, tỏ ý nói: - Nhà Hán sắp mất, Tào Tháo sẽ là người an định thiên hạ vậy. Tào Tháo thấy có nhiều người nói đến mình, nhưng chưa vừa ý. Tháo lại nghe ở vùng miền Nam có Hứa Thiệu nổi danh là xem tướng biết người, liền tìm đến yết kiến và hỏi: - Ông thấy tôi là người như thế nào? Bốc Sư Hứa Thiều Hứa Thiệu nhìn Tháo một lúc rồi lặng thinh không đáp. Tào Tháo gặn hỏi đôi ba lần, Hứa Thiệu mới nói: - Ðời trị, ông là bầy tôi giỏi. Thời loạn, ông là kẻ gian hùng. Nghe nói thế, Tào Tháo mừng vô cùng. Năm hai mươi tuổi, Tào Tháo đã đỗ Hiếu Liêm, làm quan Lang rồi được thăng Ðô úy Lộc Dương. Lúc vừa Ðến nhậm chức, Tháo đã sai treo mười cây roi ngũ sắc ở bốn cửa thành. Ai phạm đến luật cấm tức thì sai quân nọc cổ ra đánh liền, bất kể kẻ có thế lực, hay quyền quí. Có một lần người chú ruột của quan Trung Thường Thị Kiển Thạc cầm dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt gặp, lập tức truyền lệnh bắt đem đến trước nha môn mà đánh, chẳng kiêng nể gì hết. Bởi vậy, trong ngoài đều sợ Tháo, không ai dám phạm luật nữa. Uy danh của Tháo nhờ đó lừng lẫy, nên được thăng làm Quan Lệnh ở Ðốn Khâu. Nay giặc Khăn Vàng nổi lên, Tháo lại được thăng chức Trị Ðô Úy, dẫn năm ngàn quân mã kéo đến Dĩnh Xuyên trợ chiến. Vừa đến nơi, gặp lúc Trương Lương, Trương Bảo bị trận hỏa công, thua chạy xiểng liểng, Tháo nhân cơ hội chặn đường giết giặc, chém hơn một vạớn đầu giặc, đoạt được người ngựa, khí giới vô số. Trương Lương và Trương Bảo gặp thế cùng, mở đường máu chạy thoát. Tháo liền kéo quân vào thành ra mắt Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn, rồi lại dẫn binh truy kích Trương Lương và Trương Bảo. Bấy giờ, Huyền Ðức cùng Quan, Trương cũng vừa tới Dĩnh Xuyên, nghe xa xa có tiếng hò reo đánh giặc, lại thấy lửa cháy rực trời vội dẫn binh tới thì giặc đã tan rồi. Huyền Ðức vào yết kiến Hoàng Phủ Tung, Châu Tuấn, và nói rõ ý kiến của Lư Thực. Hoàng Phủ Tung nói: - Hai thằng giặc Trương Lương, Trương Bảo bị một trận hỏa công, thế cùng lực tận, chắc là chúng chạy sang Quảng Tôn hợp lực với Trương Giác. Các ngươi hãy tức tốc trở về đó mà giúp Lư tướng quân dẹp giặc. Huyền Ðức lĩnh mệnh, lại dẫn quân trở về. Khi đến nửa đường, bỗng thấy một toán quân mã áp giải một chiếc tù xa, người ngồi bên trong lại là Lư Thực. Thất kinh, Huyền Ðức vội tụt khỏi yên ngựa, chạy đến hỏi duyên cớ. Lư Thực nói: - Tôi vây Trương Giác sắp phá được binh giặc, thì bỗng triều đình có sai một viên Huỳnh Môn quan là Tả Phong ra mặt trận thám thính tình hình. Tả Phong đòi ăn hối lộ, tôi nói với hắn: "Ðến như quân lương hiện còn chưa đủ, lấy đâu ra tiền dư mà đãi sứ nhà vua?". Tả Phong tức giận về triều vu tấu rằng tôi không chịu tiến quân, cứ đắp lũy đào hào cố thủ, khiến lòng quân trễ nãi. Triều đình nổi giận, sai quan Trung Lang Tướng Ðổng Trác đến thay tôi cầm quân, và bắt tôi giải về kinh trị tội. Trương Phi nghe dứt lời, máu giận sục sôi, toan rút gươm chém mấy tên quân hộ tống tù xa để cứu Lư Thực, nhưng Huyền Ðức đã kịp ngăn lại và nói: - Việc của Lư tướng quân ngay gian sẽ có công luận xét đoán, chúng ta không nên bạo sát người của triều đình mà mang tội. Trương Phi trợn mắt, nhìn chiếc tù xa cho đến khi mất hút. Vân Trường nói: - Lư Trung Lang bị bắt, người khác cầm quân, chúng ta trông cậy vào ai mà trở lại Quảng Tôn? Chi bằng trở về Trác Quận là hơn. Huyền Ðức nghe lời, cùng với hai em dẫn quân về phía Bắc. Ði chưa được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng quân reo tở mở, ba anh em Huyền Ðức liền trèo lên một đỉnh núi cao, xem thấy quân Hán bị thua cuốn cờ chạy trốn, còn đằng sau giặc Khăn Vàng đông đặc, đang đuổi theo rất hăng. Trên cây đại kỳ của giặc có đề bốn chữ: "Thiên Công Tướng Quân". Huyền Ðức đưa tay chỉ bọn giặc, nói với Quan, Trương: - Chính thằng này là Trương Giác, kẻ cầm đầu giặc Khăn Vàng gây rối. Chúng ta tham chiến ngay. Ba anh em Huyền Ðức đồng phi ngựa dẫn quân lướt tới. Bấy giờ Trương Giác đã đánh bại Ðổng Trác, nên kéo binh truy kích rất ngặt. Ðang lúc hăng thế, bỗng gặp toán quân của ba anh em Huyền Ðức chặn lại, chúng rối loạn người ngựa đạp nhào lên nhau, mất cả hàng ngũ, bị quân Huyền Ðức chém giết một trận, làm cho chúng quay đầu bỏ chạy hơn năm mươi dặm. Ba người cứu được Ðổng Trác về trại. Sau khi hỏi thăm, biết được ba anh em Huyền Ðức chưa có chức vụ gì, hiện còn là chân trắng, Ðổng Trác làm mặt khinh khỉnh, không thèm thi lễ và tiếp đãi. Trung Lang Tướng Đổng Trác Huyền Ðức bước ra ngoài, không nói gì, nhưng Trương Phi thì hầm hầm nét mặt, tỏ ý bất mãn: - Hừ! Chúng ta lăn mình vào địch quân để cứu hắn, mà hắn lại dám vô lễ như thế! Phải giết hắn đi mới đã giận. Mắng rồi, Trương Phi cầm xà mâu quay vào trướng định giết Ðổng Trác. Ðó chính là: Nhân tình thế thái đáng buồn than, Ai biết anh hùng lúc trắng chân! Nếu được muôn người như Dực Ðức, Trên đời đã hết giống vong ân Chú thích: (1) Thiên hạ tức là Ðế quốc Trung Hoa cổ gồm chín châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, và Ích. Dưới mỗi Châu có Quận và Huyện (2) Vua Hán Cao Tổ đóng đô ở Tràng An (phía Tây) cho nên gọi là nhà Tây Hán. Nhà Tây Hán truyền đến đời vua Bình Ðế thì bị Vương Mãng giết và cướp ngôi. Lưu Tú giết được Vương Mãng, khôi phục lại cơ đồ nhà Hán, nhưng lại dời đô về Lộc Dương (phía Ðông) cho nên từ vua Quang Vũ về sau gọi là nhà Ðông Hán. (3) Ðời vua Hán Vũ Ðế mỗi khi có cuộc tế Tông Miếu, các vị có tước Hầu trong họ Lưu đều phải vào dâng vàng làm lễ. Nếu vàng của ai có sắc xấu, không được sáng đẹp thì người đó bị mất tước Hầu
Hồi Thứ Hai - Tam Quốc Chí - La Quán Trung Nổi Giận Trương Phi Ðánh Khâm Sai Lập Mưu Hà Tiến Trừ Phản Loạn Ðổng Trác có hiệu là Trọng Dĩnh, người xứ Lũ Tây, vùng Lâm Thao, làm quan Thái Thú quận Hà Ðông, vốn là một kẻ có tính kiêu ngạo. Bởi thế, Trương Phi vừa thấy mặt đã ghét, muốn giết đi. Huyền Ðức và Vân Trường đồng can: -Dù sao hắn cũng là người của triều đình sai đến, chúng ta không nên giết. Trương Phi hầm hừ: -Nếu không giết thằng ấy mà ở lại đây chịu mệnh lệnh của nó thì em không thể chịu được. Hai anh ở lại, em đi nơi khác Huyền Ðức nói: -Anh em ta đã thề đồng sanh tử thì việc đi ở có nhau. Nếu em muốn đi thì chúng ta cùng đi vậy. Trương Phi mừng rỡ: -Nếu thế thì em mới nguôi giận. Ba anh em Huyền Ðức lại từ bỏ Trác Quận, ngày đêm kéo quân qua Dĩnh Xuyên theo Chu Tuấn. Chu Tuấn tiếp đãi anh em Huyền Ðức rất hậu, hợp binh làm một, tiến đánh Trương Bảo. Bấy giờ, Tào Tháo và Hoàng Phủ Tung cũng đang hợp quân đánh nhau với Trương Lương ở Khúc Dương, riêng Trương Bảo thì lại địch với Chu Tuấn. Trương Bảo đem tám, chín vạn quân đóng đồn sau chân núi khí thế rất vững. Chu Tuấn sai Huyền Ðức là tiên phong, kéo quân đến giao binh. Trương Bảo hay tin sai Phó Tướng Cao Thăng dẫn ba ngàn quân ra đối địch. Huyền Ðức khiến Trương Phi ra cự chiến. đánh chưa đầy ba hiệp, Trương Phi đã vung xà mâu đâm Cao Thăng đổ ruột nhào xuống ngựa chết ngay. Trương Bảo thấy thế tức giận, lướt tới vung gươm niệm chú, đầu bỏ tóc xõa làm phép thuật, tức thì sấm chớp nổi lên, trên không bao phủ một vùng hắc khí. Trong vùng hắc khí ấy lại có vô số binh mã lần lượt rơi xuống. Trông thấy pháp thuật, binh của Huyền Ðức rối loạn, nên Huyền Ðức vội vã thu quân. Về đến dinh, Huyền Ðức vào ra mắt Chu Tuấn và bàn: -Trương Bảo dùng tà thuật thắng chúng ta, ngày mai chúng ta phải dùng uế vật phá phép của nó mới được. Chu Tuấn khen phải, khiến quân sĩ sắm ống thụt cho nhiều, và truyền lệnh giết dê chó đẻ lấy máu. Kế đó, Huyền Ðức khiến Quan Công dẫn một ngàn quân mai phục nơi phía chân núi, đem theo ống thụt, máu dê, máu chó cho nhiều. Tất cả đều dự bị sẵn sàng. Trời mờ sáng, Huyền Ðức dẫn một đạo binh ra trước trới địch khiêu chiến. Trương Bảo cười lớn nói: -Hôm qua chúng đã bại binh, nay lại còn dám đến đây nạp mạng sao? Liền truyền lệnh ba quân nai nịt chỉnh tề rồi xách giáp ra trước trại. Trương Bảo vừa dẫn binh ra đã thấy Huyền Ðức múa kiếm mắng nhiếc. Trương Bảo nổi giận niệm chú, tức thì cát bay đá chạy âm khí mịt mù, trên không trung ngàn vạn binh mã ào ạt rơi xuống. Huyền Ðức quay ngựa bỏ chạy, Trương Bảo cười lớn giục ngựa đuổi theo. Vừa qua khỏi núi, hai đạo binh phục của Quan, Trương nổi lên một tiếng pháo hiệu, ba quân hăm hở xông ra một lượt, dùng ống thụt nhúng vào máu thụt lên không, tức thì binh tướng yêu ma của Trương Bảo biến mất hết. Trương Bảo thấy phép mình bị phá thất kinh, vừa muốn lui binh, thì hai đạo binh của Quan, Trương đã xông ra chận lại. Phía sau Huyền Ðức xua quân đuổi tới. Ba ngã đánh dồn lại làm cho đại binh của Trương Bảo tan vỡ, bị chết rất nhiều. Trương Bảo mở huyết lộ, quất ngựa chạy dài, Huyền Ðức đuổi theo được vài dặm, lẹ tay rút ra một mũi tên ngắm Trương Bảo bắn theo. Trương Bảo la lên một tiếng mũi tên cắm vào cánh tay phía tả, không còn cầm thương được nữa, phải ôm cổ ngựa chạy thẳng vào Dương Thành đóng của cố thủ. Chu Tuấn thừa thắng, một mặt đốc quân vây chặt bốn cửa thành, một mặt cho người đi dò la tin tức của Hoàng Phủ Tung. Nhắc lại từ khi Ðổng Trác thay thế Lư Thực để đấu chiến với Trương Giác, Ðổng Trác đã thua hơn bảy trận. Tin ấy đến tai triều đình. Vua liền triệu Ðổng Trác về trách mắng, và sai Hoàng phủ Tung ra thay thế. Hoàng Phủ Tung đến nơi thì Trương Giác đã chết vì bệnh. Trương Lương thống lĩnh binh mã thay thế. Trương Lương cự với Hoàng Phủ Tung. Nhưng chẳng bao lâu, lực lượng của Trương Lương mòn mỏi, bị Hoàng Phủ Tung lập kế chém chết Trương Lương tại Khúc Dương, rồi đào mả Trương Giác lên, chặt đầu đem về triều dâng nạp. Triều đình phong cho Hoàng Phủ Tung là Xa Kỵ Tướng quân, trấn nhậm tới Ký Châu. Hoàng Phủ Tung lại làm sớ dâng về triều xin cho Lư Thực khỏi tội, và phục hồi nguyên chức. Tào Tháo cũng có công dẹp giặc Trương Giác nên được phong làm Tể Tướng Nam. Chu Tuấn hay được tin ấy, lòng nao nao, vội thối thúc binh sĩ ngày đêm phá thành Trương Bảo rất gấp. Trong thành quân sĩ đều hết lương thực, thế giặc nguy cấp, nên tướng giặc là Nghiêm Chách đâm chết Trương Bảo, rồi chặt đầu đem ra ngoài thành dâng cho Chu Tuấn. Thế là Chu Tuấn đã dẹp yên được mấy Quận, vội viết thiệp gởi về dâng tấu. Bấy giờ còn dư đảng của giặc Khăn Vàng lẫn trốn trong núi non, rừng rậm, thỉnh thoảng kéo ra quấy nhiễu dân lành. Triều đình lại sai Chu Tuấn đem đoàn quân chiến thắng đi dẹp giặc các nơi hiểm yếu. Chu Tuấn tuân lệnh kéo quân ra đi. Nhưng đi được vài ngày thì bỗng thấy trước mặt có một đạo binh kéo tới. Ngỡ là quân giặc, Chu Tuấn toan cho lệnh đánh, nhưng xem lại tướng đi đầu không phải là giặc, mà là một trang thanh niên trán rộng, mắt sáng, lưng gấu, vai hùm, oai phong lẫm liệt. Người này họ Tôn tên Kiên, quê ở Ngô quận, đất Phú Xuân tự là Vân Ðài, dòng dõi Tôn Vũ Tử, một nhà quân sự lừng danh. Trường Sa Thái Thú Tôn Kiên Năm Tôn Kiên lên mười bảy tuổi, theo cha tới sông Tiền Ðường, thấy hơn mười tên hải tặc vừa cướp thuyền của một khách buôn, đang chia tiền nhau trên bờ. Tôn Kiên nói với cha: - Con xin phép bắt lũ giặc này. Rồi nhảy lên bờ múa đao hò hét, tay chỉ trỏ Ðông Tây nhưng gọi quân bốn mặt đến. Giặc tưởng là quan quân đi tuần, vội bỏ hết của cải chạy trốn. Tôn Kiên đuổi theo chém được một đứa. Do đó, các quận huyện đều biết danh, được tiến cử làm Hiệu Úy. Sau đó, lại có tên yêu tặc làm phản ở Cói Kê, xưng là Dương Minh Hoàng Ðế, tụ tập thảo khấu có hơn vài vạn. Tôn Kiên cùng quan quân Châu Quận phá được giặc chém đầu Hứa Xương, và đứa con của hắn là Hứa Thiều. Quan Thứ Sử Tang Mân thấy Tôn Kiên lập được công lớn, liền dâng biểu về triều bảo tấu. Triều đình phong cho Tôn Kiên làm quan Thừa ở Diêm Tộc, sau đổi sang Hu Di Thừa, rồi lại làm Hạ Bì Thừa. Nay thấy giặc Khăn Vàng nổi lên quấy nhiễu, Tôn Kiên lại một lần nữa tụ tập thiếu niên trong thôn ấp, và thu nạp một số võ sĩ ở miền sông Hoài, lập thành một đạo quân hơn một ngàn năm trăm người, kéo đi tiếp ứng cho quân triều. Chu Tuấn mừng rỡ liền thu dụng Tôn Kiên, cùng nhau hiệp binh để truy nã giặc cướp. Chẳng bao lâu, các nơi hẻo lánh đã dẹp xong, duy có ba tên giặc lớn, dư đảng của Truơng Giác, là Triệu Hoằng, Hàn Trung, Tôn Trọng, tụ tập hơn vài vạn quân, chiếm cứ nơi Uyển Thành, bên trong cướp của giết người, bên ngoài thinh thế là để trả thù cho ba anh em Trương Giác. Hoàng Cân Quân Triệu Hằng - Hàn Trung - Tôn Trọng Chu Tuấn liền léo quân đến nơi vây đánh, sai ba anh em Huyền Ðức ngày đêm công thành. Trong thành hết lương, Hàn Trung liệu thế không chống nổi, sai người ra xin hàng. Chu Tuấn không cho. Huyền Ðức nói: - Xưa, Hán Cao Tổ sở dĩ được thiên hạ nhờ ở chỗ chiêu dụ kẻ hàng, thu nạp kẻ thuận. Sao nay ông lại không cho Hàn Trung hàng? Chu Tuấn đáp: - Thời ấy khác, thời nay khác. Xưa nhà Tần bạo ngược, Hạng Vũ hung tàn, thiên hạ đại loạn, người dân không biết ai là thánh chúa, nên Hán Cao Tổ phải tỏ lượng khoan dung để thu phục thiên hạ. Nay bốn bể, dân gian ai cũng biết nhà Hán là chủ thiên hạ, chỉ có giặc Khăn Vàng làm phản. Nếu để chúng đắc thế thì làm loạn, yếu thế thì đầu hàng, là sao giữ được luật pháp? Tha cho chúng đầu hàng tức là khuyến khích sự phản nghịch đó. Huyền Ðức đáp: - Không cho giặc hàng cũng phải. Nhưng hiện nay ta vây kín bốn mặt thành, giặc bí thế tất phải liều tử chiến. Muôn người một lòng thì khó chống. Hơn nữa trong thành có hơn ba vạn sanh linh, chẳng lẽ vì chiến sự mà phải chết cả sao? Chi bằng chúng ta triệt quân ở hai mặt Ðông, Nam chỉ đánh hai mặt Tây, Bắc, để cho giặc bỏ thành chạy, rồi ta bắt sống là hơn. Chu Tuấn nghe lời, triệt hết quân hai mặt Ðông, Nam, dồn về đánh hai mặt Tây, Bắc. Quả nhiên, Hà Trung dẫn quân bỏ chạy. Chu Tuấn liền cùng với anh em Huyền Ðức thúc quân đuổi theo chém giết, và bắt Hàn Trung. Quân giặc sống sót chạy tán loạn. Ðang lúc quân Hàn truy kích, bỗng có Triệu Hoằng, Tôn Trọng dẫn quân đến vây đánh Chu Tuấn, Chu Tuấn thấy quân giặc đông nên phải tạm lui. Do đó, Triệu Hoằng thừa thế chiếm lại được Uyển Thành. Chu Tuấn lui mười dặm hạ trại, rồi ngày hôm sau lại đều binh khiển tướng vây thành. Chu Tuấn sai Tôn Kiên đánh phía Nam Uyển Thành, Huyền Ðức đánh cửa Bắc, Chu Tuấn đánh cửa Tây, chừa cửa Ðông nhử cho giặc chạy. Tôn Kiên tự mình nhảy lên mặt thành trước tiên, vung đao chém luôn một lúc hai mươi tên giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy xuống hết. Triệu Hoằng thấy thế liền cầm giáo dài phi ngựa tới đâm. Tôn Kiên từ mặt thành phi thân xuống, cướp luôn cây giáo của Triệu Hoằng, rồi xông vào giết giặc. Bị binh Tôn Kiên hãm thành quá mạnh, Tôn Trọng kéo tàn quân chạy vụt ra cửa Bắc, bỗng gặp Huyền Ðức kéo quân chận lại. Tôn Trọng không còn lòng dạ nào giao đấu nữa, vội lách mình qua đám loạn quân chạy trốn. Huyền Ðức giương cung bắn theo một phát trúng Tôn Trọng nhào xuống ngựa chết tức thì. Bấy giờ, đại quân của Chu Tuấn thừa thế đánh ập vào chiếm thành, chém hơn một vạn thủ cấp của giặc. Quân giặc lớp chết lớp đầu hàng. Thế là một giải Nam Dương hơn mười quận được bình định. Chu Tuấn truyền lệnh ban sư hồi trào, vào thẳng Ngân Loan Ðiện ra mắt. Hán Vương truyền dọn tiệc khao thưởng quân sĩ và phong cho Chu Tuấn làm chức Xa Kỵ Tướng Quân, kiêm lãnh Hà Nam. Chu Tuấn dâng biểu xin phong chức cho Tôn Kiên và ba anh em Huyền Ðức. Tôn Kiên vì có thân thế nên được phong chức Tư Mã, lãnh quân đi trấn nhậm liền. Còn ba anh em Huyền Ðức chờ đợi rất lâu, mà không thấy phong thưởng gì hết, lòng lấy làm hổ thẹn, chẳng biết vì sao triều đình lại có chuyện bất công như vậy. Một hôm, ba anh em Huyền Ðức ra đường dạo mát giải khuây, bỗng gặp xe của Quan Lang là Trương Quân đi ngang qua đó. Huyền Ðức tỏ hết tâm sự mình cho Trương Quân nghe. Trương Quân nghe nói cả kinh, lập tức vào triều tâu: - Xưa những cuộc nổi loạn gây nên thường bởi những kẻ nịnh thần. Sở dĩ giặc Khăn Vàng tạo phản là vì lũ Thập Thường Thị khi quân, mua quan bán tước, kẻ có công không được thưởng, kẻ có tội không bị trừng phạt xứng đáng, làm mất lẽ công bằng. Vậy nay bệ hạ phải chém đầu hết chúng nó và ban bố cho dân chúng biết, thì lòng dân mới yên ổn. Bọn Thập Thường Thị liền tâu với vua là Trương Quân khi chúa. Vua khiến kẻ tả hữu đuổi Trương Quân ra. Ðược vua tín dùng, bọn Thập Thường Thị lại càng đắc ý bàn với nhau: - Ðây chắc có kẻ nào có công dẹp giặc Khăn Vàng mà không được trọng thượng nên oán hận sanh ra chuyện ấy. Bây giờ chúng ta phải tìm chức nào nho nhỏ phong cho nó, để chúng nó an lòng, rồi sẽ tìm cách sa thải chúng cũng không muộn. Bởi lẽ đó nên Huyền Ðức được phong làm Huyện Úy tới huyện An Hỉ, thuộc phủ Trnng San, và phải phó nhiệm liền nội ngày hôm ấy. Huyền Ðức được lịnh cho tất cả các nghĩa binh của mình được trở về làng, chỉ còn để lại vài mươi người tâm phúc, rồi cùng Quan, Trương thẳng đến huyện An Hỉ nhận việc. Trấn nhậm được bốn tháng, nhân dân nơi đây rất mến phục ba anh em Huyền Ðức là người có nhiều lương tâm và đạo đức. Ngày kia, Huyền Ðức bắt được chiếu chỉ của Triều đình phán rằng: "Tất cả những kẻ có công dẹp giặc Khăn Vàng được phong làm chức Huyện Úy đều phải bị cách chức." Huyền Ðức đoán biết mình thế nào cũng bị sa thải, nên đêm ngày thường bàn bạc với hai em chưa biết vì duyên cớ gì. Bỗng có Ðốc Bưu di hành đến huyện. Huyền Ðức ra thành nghinh tiếp, vừa thấy Ðốc Bưu vào đến quán dịch, Ðốc Bưu gọi Huyền Ðức nói: - Huyện Úy làm người thế nào mà xuất thân đó? Huyền Ðức nói: - Tôi vốn là dòng dõi của Trung Sơn Tĩnh Vương vì lúc nọ nghe giặc Khăn Vàng tạo phản nên ra tụ tập nghĩa quân giúp nước. Từ ở Trác quận tôi đã dẹp lớn nhỏ hơn ba mươi trận, vì vậy mà được chút ít công lao nên được phong làm chức Huyện Úy nầy. Huyền Ðức nói chưa dứt lời thì Ðốc Bưu đã hét lớn: - Sao ngươi dám xưng là Hoàng Thân, lại còn hư báo công lao của ngươi nữa? Nay ta vâng lệnh triều đình đến đây để sa thải các tham quan, ô lại, ngươi có biết không? Huyền Ðức nghe Ðốc Bưu nói thế, vội vàng lui ra không dám cãi, trở về huyện bàn vớì các quan lại. Các quan lại bàn tính một hồi rồi mới nói với Huyền Ðức. - Ðốc Bưu là một đứa bất liêm. Nay nó làm oai như vậy là ý nó muốn nài hối lộ đó. Huyền Ðức lắc đầu, nghĩ ngợi giây lát rồi nói: - Ta lâu nay chẳng hề lấy của ai một đồng, một chữ nào, vậy tiền đâu mà đưa cho nó. Vả chăng, nếu có tiền ta cũng không thể làm được cái chuyện hèn hạ như vậy. Ðốc Bưu thấy Huyền Ðức tỏ vẻ không phục tùng ý muốn của mình, bèn bắt tất cả các quan lại buộc vu cho Huyện Úy là người hà lạm của dân. Các quan đều khóc lóc xin cho Huyền Ðức. Lúc ấy, Trương Phi cũng vừa đi đến, thấy có năm sáu ông già ngồi buồn trước quán dịnh khóc lóc. Phi liền kêu lại hỏi thăm duyên cớ, thì các ông già kia nói: - Ðốc Bưu bắt ép bọn tôi khai cho Lưu Công là kẻ hà lạm, chúng tôi vì cảm mến Lưu công nên đã xin ba bốn phen mà chưa được. Nhân lúc Trương Phi vừa uống xong mấy chén rượu để giải buồn, nghe nói như vậy, lòng nổi nóng, liền nhảy vội xuống ngựa xông vào quán dịch, chạy thẳng đến công đường, thấy Ðốc Bưu đang ngồi vểnh chân trên cao thét mắng các Huyện lại bị trói để nằm dưới đất. Trương Phi bước đến thét lớn: - Thằng khốn nạn kia! Ngươi biết ta là ai mà ngươi dám đến đây làm phách như vậy? Ðốc Bưu chưa kịp nói nửa lời thì liền bị Trương Phi nhảy tới đá một đá vào quai hàm. Ðốc Bưu đau quá, la lên một tiếng, nhào xuống đất. Chưa chịu thôi, Trương Phi nắm râu Ðốc Bưu kéo đi xềnh xệch, dẫn thẳng đến huyện nha, trói vào cột cờ, rồi bẻ roi đánh Ðốc Bưu một hồi nữa, đến gãy hết mấy chục cành roi liễu. Ðốc Bưu chẳng biết làm sao, đau quá buộc lòng phải năn nỉ, nhưng Trương Phi không tha. Lúc ấy Huyền Ðức đang ngồi một mình buồn bực, bỗng nghe có tiếng huyên náo liền hỏi kẻ tả hữu. Và bọn này thưa: - Trương tướng quân đang trói một người trước huyện nha mà đánh dữ lắm! Huyền Ðức vội vã bước ra xem thì thấy người bị đánh là Ðốc Bưu, ông ta thất kinh, chạy lại nắm tay Trương Phi kéo lại. Trương Phi nói với Huyền Ðức: - Anh đừng cản ngăn. Thằng này là một đứa ăn cướp, không đánh cho chết để làm gì? Thấy Huyền Ðức tới, Ðốc Bưu năn nỉ: - Lưu công ơi! Xin cứu dùm tánh mớng tôi với. Huyền Ðức vốn lòng nhân từ thấy vậy không cho Trương Phi đánh nữa. Quan Công đang đứng một bên, bước đến nói: - Ðại ca đã lập được công lao rất lớn. Với công án ấy lẽ ra đại ca phải được trọng thưởng, thế mà đại ca chỉ được chức Huyện Úy nhỏ mọn nầy. đã vậy, Ðốc Bưu lại còn đến đây đòi của hối lộ, làm nhục chúng ta nữa. Em nghĩ, không phải là chỗ để cho chim phụng hoàng nghỉ cánh, chỉ bằng giết quách Ðốc Bưu cho đã giận rồi trả ấn, trở về làng tìm cơ lập nghiệp là hơn. Huyền Ðức liền lấy ấn treo nơi cổ Ðốc Bưu, và nói: - Cứ như cái tội nhũng lạm của dân cũng đủ cho chúng ta giết ngươi cho an lòng dân chúng, nhưng vì từ tâm, ta dung thứ cho ngươi đó. Ngươi hãy đem ấn này về giao nạp cho triều đình, và ăn năn hối cãi để khỏi ân hận sau nầy. Chúng ta đi đây. Khi Ðốc Bưu được thả thì ba anh em Huyền Ðức đi hết. Ðốc Bưu quá tức giận, lén đi cáo với quan Thái Thú quận Dĩnh Châu, vu cáo cho anh em Huyền Ðức mưu phản. Quan Thái thú Dĩnh Châu ra lệnh khắp các huyện tầm nã ba anh em Huyền Ðức. Bấy giờ, ba anh em Huyền Ðức dắt nhau qua Ðới Châu ở với Lưu Khôi. Lưu Khôi thấy Huyền Ðức là dòng dõi nhà Hán nên có cảm tình giấu nuôi trong nhà. Tới triều, bọn Thập Thường Thị lúc nầy lại lộng quuyền thái quá. Chúng dùng đủ cách tham ô. Những người nào phục tùng theo chúng thì được chức quyền, bằng trái lại thì đều bị chúng làm hại. Chúng lại sai người đi khắp quận huyện bắt những người nào có công dẹp giặc Khăn Vàng, được phong chức tước đều phải nạp lễ vật cho chúng, nếu không chúng tâu với vua sa thải ngay. Bởi lẽ đó, nên nhiều người liêm chính đã bỏ chức về làng làm dân, không chịu mang tiếng nhục. Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn là người có công lớn trong việc dẹp giặc Khăn Vàng, cũng bị bọn Thập Thường thị tâu với vua bãi chức. Vua lại phong cho nhóm nịnh thần như Triệu Trung làm chức Xa Kỵ Tướng quân, và hết thảy mười ba người trong bọn Trương Nhượng đều lãnh chức Liệt Hầu. Từ đó, việc triều chính càng ngày càng hư nát, triều thần lộn xộn, dân tình ly tán. Tới quận Trường Xa có tên Khu Tỉnh nổi loạn. - Ngư Dương có bè lũ Trương Cử, Trương Thuần làm phản. Trương Cử xưng Thiên tử, Trương Thuần xưng Ðại Tướng Quân. Biểu văn hàng ngày cấp báo về triều như cánh bướm, nhưng bọn Thập Thường Thị nhẹm hết, không cho vua hay. Một hôm vua ngự ở hậu viên, đang yến ẩm với bọn Thập Thường Thị bỗng có quan Giám Nghị Ðại Phu Lưu Ðào đi thẳng vào, quỳ trước mặt vua mà khóc. Vua hỏi duyên cớ, Lưu Ðào tâu: - Vận mạng thiên hạ có thể nguy biến trong một sớm một chiều, thế mà bệ hạ cứ ngồi yến ẩm với bọn yểm hoạn này ư? Vua nói: - Nước nhà đang lúc thái bình thanh trị, sao khanh lại nói là nguy biến? Lưu ựào tâu: - Bốn phương giặc giã nổi lên như ong, hiện đang xâm chiếm từ Châu nọ đến Quận kia! Cái tai vạ này cũng chỉ vì mười tên Thường Thị buôn quan bán chức, hại dân mà ra! Chúng dối vua loạn phép, cho nên những người ngay thẳng đều xa lánh triều đình. Cái nguy biến trước mắt, mong bệ hạ suy xét. Mười tên Thường Thị nghe vậy liền quỳ xuống trước mặt vua, trật mũ ra, tâu: - Quan đại thần đã không dung thì lũ hạ thần này phải chết. Xin bệ hạ mở lòng hiếu sinh cho chúng tôi được trở về làng cày ruộng, làm vườn, nguyện đem hết tài trí giúp nước nhà nuôi quân phá giặc. Tâu xong, tât cả mười tên Thường thị đều khóc rống lên rất thảm thiết, như sắp bị đem đi hành hình vậy. Vua giận mắng Lưu Ðào: - Nhà ngươi cũng có đầy tớ, sao lại không dung kẻ hầu, người hạ của trẫm. Nói xong vua lại truyền võ sĩ bắt Lưu Ðào đem chém. Lưu Ðào kêu lớn: - Ðầu thần rơi không đáng tiết, chỉ tiếc cho cơ nghiệp nhà Hán gây dựng trên bốn trăm năm, nay phút chốc phải tan tành. Võ sĩ trói Lưu Ðào đem ra ngoài, sắp sửa hành hình, thì bỗng có một vị đại thần chạy đến quát lớn: - Không được hạ thủ. để ta vào can vua đã! Võ sĩ thấy đó là quan Tư Ðồ Trần Ðam, nên chưa dám khai đao, còn chờ lệnh. Trần Ðam đi thẳng vào hỏi vua: - Lưu Giám nghị có tội gì mà bệ hạ truyền đem chém? Vua Linh Ðế nói: - Tội sàm báng cận thần và khi quân. Trần Ðam nói: - Hầu hết dân chúng trong thiên hạ ai cũng muốn ăn sống mười đứa Thường Thị, sao bệ hạ lại kính nể chúng như cha mẹ? Không một tấc công lao mà sao đứa nào cũng được phong tước Hầu. Ðã vậy, bọn Phong Tư là kẻ tư thông với giặc Khăn Vàng, toan làm nội phản, thế mà nay bệ hạ còn chưa tỉnh ngộ, mến chuộng bọn hoạn quan như thế sao? Linh Ðế nói: - Phong Tư làm phản, việc ấy còn mù mờ chưa rõ hư thật. Còn như trong mười người Thường Thị há lại không có kẻ nào là trung thần sao? Trần Ðam dập đầu dưới đất, nhất định can vua cho kỳ được. Vua nổi giận truyền võ sĩ trói lại đem ra hạ ngục cùng với Lưu Ðào, chờ xét xử sau. Ngay đêm đó, bọn Thường Thị kéo nhau vào ngục giết chết hai vị trung thần này, rồi chúng lại giả chiếu vua phong Tôn Kiên làm Thái Thú Trường Sa, sai đi đánh Khu Tỉnh, bình định phiến loạn. Chưa đầy ba mươi ngày, Tôn Kiên đã dẹp yên, viết thiệp về triều cáo báo. Thế là vùng Giang Hạ được yên, Tôn Kiên được phong làm Ý Trình Hầu, Lưu Ngu thì được phong làm U Châu Mục, lãnh quân đến Ngư Dương đánh Trương Thuần, Trương Cử. Bấy giờ Lưu Khôi ở Ðới Châu viết thơ tiến cử và bảo ba anh em Huyền Ðức đến ra mắt Lưu Ngu. Lưu Ngu rất mừng, cử anh em Huyền Ðức làm Ðô Úy, dẫn binh vào thẳng sào huyệt của giặc đánh phá kịch liệt hai ba ngày liền. Trương Thuần vốn là kẻ hung bạo hay chém giết, nên lòng quân sinh biến. Một tên đầu mục núp trong trướng lừa giết chết Trương Thuần rồi đem đầu ra ngoài nạp cho Huyền Ðức. Trương Cử thấy tình thế nguy nan, nên tự tử chết luôn. Quân sĩ kéo ra đầu hàng hết. Ngư Dương bình đinh, Lưu Ngu dâng biểu tâu rõ công lớn của Lưu Bị. Triều đình xá cho Huyền Ðức cái tội đánh Ðốc Bưu và phong chức Hạ Mật Thừa, rồi thăng Cao Ðường Úy. Sau đó, Công Tôn Toản lại dâng biểu trần thuật công lao của Huyền Ðức khi dẹp giặc Khăn Vàng trước kia mà tiến cử làm Liệt Bộ Tư Mã, lãnh chức Bình Nguyên Huyện Lệnh. Triều đình y tấu, Huyền Ðức tới chấn nhậm Bình Nguyên, có đủ lương tiền, quân mã, ba anh em mới được thanh nhàn. Còn Lưu Ngu có công dẹp giặc được phong làm Thái Úy. Năm Trung Bình thứ sáu, mùa hạ, tháng tư, vua Linh Ðế đau nặng, bèn triều Ðại Tướng Hà Tiến vào cung để thương nghị. Hà Tiến vốn con nhà hàng heo, nhân cơ hội em gái vào cung làm quý nhân, nhờ sanh được hoàng tử Biện, nên mới được phong làm Hoàng Hậu. Hà Tiến cũng nhờ đó mà nhậm được trọng chức. Vua lại lấy Vương Mỹ Nhân sanh đặng Hoàng tử Hiệp, vì thế Hà thái hậu ghen ghét dùng thuốc độc giết Vương Mỹ Nhân đi. Ðổng Thái Hậu liền đem Hoàng tử Hiệp về cung riêng của mình để nuôi dưỡng. Ðổng Thái Hậu là mẹ của vua Linh Ðế, thường ngày khuyên vua lập Hoàng tử Hiệp làm thái tử. Vua cũng bằng lòng, ngặt vì đau nặng nên chưa tính đến việc ấy được. Trung Thường Nghị là Kiển Thạc biết việc ấy bèn vào tâu với vua: - Nếu bệ hạ muốn lập Hoàng tử Hiệp lên ngôi thì bệ hạ phải giết Hà Tiến thì sau này mới khỏi sanh hậu hoạn. Vua suy nghĩ rồi cho đòi Hà Tiến vào cung. Khi Hà Tiến vừa vào tới cửa cung thì gặp quan Tư Mã là Phan Ân đón lại nói: - Ông chớ vào cung, Kiển Thạc âm mưu muốn giết ông đấy. Hà Tiến nghe nói thất kinh vội vã bước ra về thẳng tư dinh, lập tức mời các quan đại thần đến bàn bạc công việc. Ông nói: - Nay bọn hoạn quan ỷ thế, làm nhiều đều sàm nịnh, nếu chúng ta không tìm cách trừ hết bọn nó, thì chúng ta ắt không khỏi mang hậu họa. Hà Tiến vừa nói dứt lời, thì bỗng có một người bước đến, thưa: - Quyền thế của hoạn quan rất mạnh, khởi từ lúc vua còn nhỏ, chi nhánh trong triều rất nhiều, giết làm sao hết được, phỏng như chúng ta không làm nổi để lộ cơ mưu ắt không khỏi bị diệt tộc. Hà Tiến quay mặt sang nhìn, thì thấy người ấy là Tào Tháo, ông nổi giận nạt lớn: - Ngươi là người tiểu bối, biết gì mà dám bàn đến. Trong lúc mọi người còn đang bàn bạc thì Phan An chạy đến nói: - Vua đã băng hà rồi, nhưng Kiển Thạc lại thương nghị với bọn Thập Thường Thị không cho phát lộ ra ngoài. Chúng nó muốn triệu Hà Quốc Cựu vào cung để diệt trừ hậu họa, hầu lập Hoàng tử Hiệp lên làm vua. Phan An nói vừa dứt lời thì quả có chiếu triệu đòi Hà Tiến vào cung. Tào Tháo thấy vậy bước ra nói: - Hôm nay hãy lo tôn tân quân trước đã, rồi sẽ tính kế trừ lũ nịnh thần sau. Hà Tiến nói: - Như vậy ai vì ta, vì xã tắc mà lo việc chánh quân và việc trừ lũ nịnh hay không? Bỗng có người từ góc trái bước ra, thưa: - Xin cho tôi lãnh năm ngàn quân đến tới cung phá cửa lập tân quân và bắt tất cả bọn Thập Thường Thị mà giết cho rồi. Hà Tiến xem lại người nói đó là Tư Ðồ Viên Thiệu, tự là Bôn Sồ, hiện đang giữ chức Tư Ðồ Huyện Úy. Tư Đồ Hiệu Úy - Tả Tướng Quân Viên Thiệu Hà Tiến mừng rỡ, vội vã điểm năm ngàn quân giao cho Viên Thiệu. Viên Thiệu nai nịt hẳn hòi dẫn năm ngàn quân Ngự Lâm kéo thẳng vào cung. Còn Hà Tiến thì cùng với các quan đại thần như: Hà Ngung, Tuân Nhu, Trịnh Thái v.v.. cộng cả thảy hơn ba mươi người, đồng kéo thẳng vào trào, lập Thái tử Biện lên ngôi Hoàng đế. Viên Thiệu dẫn quân đi thẳng vào cung tìm bắt Kiển Thạc, và nã tróc bọn Thập Thường Thị. Kiển Thạc hay tin khiếp vía, vội vã nhảy ra ngự huê viên mà trốn, nhưng bất thời lại gặp Trung Thường Thị là Quách Thắng thấy được đâm một kiếm chết tốt. Bọn Trương Nhượng biết nguy đã đến nơi liền chạy vào cung van cầu Hà Thái Hậu: - Kẻ lập mưu hãm lại tướng công là Kiển Thạc, nay Kiển Thạc đã chết rồi, còn chúng tôi là kẻ vô can, mong Thái hậu mở lòng nhân che chở cho. Hà Thái hậu nói: - Các người đừng sợ nữa, để ta bảo hộ cho. Dứt lời, Hà Thái hậu liền triều Hà Tiến đến nói: - Anh em ta lúc trước hàn vi, nếu không nhờ bọn Trương Nhượng giúp đỡ một tay thì đâu có quyền cao lộc cả như ngày hôm nay. Vậy anh nên nghĩ lại vị tình mà dung tha bọn Trương Nhượng là phải hơn. Hà Tiến ngẫm nghĩ giây lâu rồi trở ra nói với các quan: - Kiển Thạc là một tên bạo phản, nay hắn đã đền tội rồi, còn các người khác ta có thể dung tha được, chớ nên sát hại chúng làm chi. Viên Thiệu nói: - Ðốn cây mà không nhổ tận rễ thì làm sao khỏi bị nứt chồi. Hà Tiên nói: - Ý ta đã cương quyết như vậy, ngươi chớ có nhiều lời vô ích. Các quan nghe Hà Tiến nói thế, ai nấy đều hậm hực lui về dinh. Sáng hôm sau Hà Thái hậu giáng chỉ phong Hà Tiến làm Tham Lục Thượng Thơ, còn các quần thần cứ đẳng gia phong một trật. Công việc làm của Hà Tiến khiến cho Ðổng Thái Hậu căm tức, bèn kêu bọn Trương Nhượng vào cung nói: - Em gái hắn trước kia chính nhờ ta tiến cử nó mới được vua yêu dùng đến ngày hôm nay. Hôm nay con trai của nó được nối ngôi Hoàng đế, thế lực trong ngoài của nó quá mạnh, như vậy bọn chúng ta có ngày e phải lâm hại. Trương Nhượng nghe Ðổng Thái Hậu than thở, liền bày mưu: - Bây giờ Nương Nương làm sao chưởng chấp uy quyền, Cựu Ðổng Trọng và phong thêm chức cho chúng tôi thì một ngày kia chúng tôi có cơ hội cứu nguy tình thế. Ðổng Thái Hậu rất mừng khen Trương Nhượng có mưu cao. Ngày thứ Ðổng Thái Hậu thiết trào rồi giáng chỉ phong cho Hoàng tử Hiệp làm Trần Lưu vương, Ðổng Trọng làm Biên Kỵ tướng quân, bọn Trương Nhượng đều được gia thêm chức và cùng dự việc trào chính. Hà Thái Hậu thấy Ðổng Thái Hậu lộng quyền trong lòng sanh nghi, bèn thiết yến diện trong cung rồi thỉnh Ðổng Thái Hậu phó yến. Khi dự tiệc nửa chừng, Hà Thái Hậu đứng dậy tay bưng chén rượu nói với Ðổng Thái Hậu: - Chúng ta là phận đàn bà mà dự đến việc trào chính chẳng khác nào chúng ta đã đi ngoài phận sự. Những gương xưa còn rành, Lữ Hậu cũng vì nắm trọn quyền mà cả dòng họ bị tru lục, và còn biết bao nhiêu việc tai hại khác. Chúng ta hãy noi gương đó mà tránh đi những cái dữ để khỏi ân hận ngày sau Ðổng Thái Hậu giận dữ mắng lớn: - Mi ỷ thế lực của con mi làm vua mi dám loạn ngôn như vậy. Tội ngươi tra thuốc giết Vương mỹ nhân là một cựu thù ta chưa nói đến đó thôi. Hà Thái Hậu thấy Ðổng Thái Hậu nói quá lời, lòng nổi giận cũng mắng lại: - Ta lấy lời hơn lẽ thiệt để bàn bạc, sao mi lại dám xúc phạm đến danh dự của ta? Hai bên không ai chịu nhịn ai, cứ mắng đùa với nhau không kể gì đến danh dự. Bọn Trương Nhượng hay tin, vội chạy đến can ngăn hết lời Ðổng Thái Hậu mới chịu về cung. Hà Thái Hậu đêm ấy không ngủ được, bèn gọi Hà Tiến đến tỏ bày việc ấy. Rớng sáng Hà Tiến một mặt nhóm họp đình thần buộc Ðổng Thái Hậu phải rời khỏi cung ra ở phủ Hà Giang, mặt khác vây nhà Biên Kỵ tướng quân Ðổng Trọng. Ðổng Trọng liệu thế khó thoát được liền cầm đao tự vận nơi hậu dinh. Bọn Trương Nhượng thất vía không biết chổ nào nương tựa vì thế lực của Ðổng Thái Hậu đã tiêu tan trong phút chốc, bèn đem tiền bạc vàng lụa đến lo lót cho người em Hà Tiến là Hà Miêu nói với Hà Thái Hậu để được toàn mạng. Nhờ đó mà bọn Thập Thường Thị lại vẫn được dung dưỡng và giữ chức quyền như cũ. Việc triều chính đã tạm yên, Hà Tiến còn sợ những hậu họa nên sai người đến Hà Giang tìm cách đánh thuốc độc Ðổng Thái Hậu. Cách mấy ngày sau có tin Ðổng Thái Hậu bị ngộ độc mà chết, Hà Tiến bèn dạy đem xác Ðổng Thái Hậu về chôn nơi Vương Lăng. Công việc ấy thấu tai đến lũ nịnh thần nên nhiều tiếng đồn làm cho Viên Thiệu hay được. Viên Thiệu liền vào nói lại với Hà Tiến: - Tôi có nghe tiếng đồn do bọn Thập Thường Thị rao ra rằng tướng công đã giết Ðổng Thái Hậu. Nếu để chúng gièm pha như vậy e không lợi, chi bằng nhân cơ hội nầy mà giết chết bọn chúng đi thì mới khởi sợ sanh ra hậu hoạn. Hà Tiến nghe được việc ấy, ngày đêm còn đang suy đi tính lại để tìm cách diệt trừ bọn Thập Thường Thị, thì việc này bọn Trương Nhượng hay được. Nhưng thế yếu không biết làm sao, bọn Trương Nhượng lại đem vàng bạc thiệt nhiều đến lo lót cho Hà Miêu một lần nữa để vào nói Hà Thái Hậu. Hà Miêu vào cung tâu với Hà Thái Hậu: - Bọn Thập Thường Thị lâu nay rất có công với triều chính, nay vì vô cớ tướng công Hà Tiến muốn diệt trừ họ e sanh ra rối loạn triều thần. Hà Thái Hậu nghe nói khiến quân triệu Hà Tiến vào cung bảo: - Tiên Ðế mới băng hà; việc triều chính còn nhiều rối lắm, không nên có ý làm hới các cựu thần mà sanh ra rối loạn. Hà Tiến là kẻ không cương quyết nên nghe Hà Thái Hậu nói như vậy cũng phải vâng lệnh lui ra thuật lại ý kiến của Hà Thái Hậu cho Viên Thiệu nghe. Viên Thiệu nói: -Lực lượng chúng ta bây giờ đâu có sợ bọn chúng. Nếu tướng công có nghi ngờ triệu tập các anh hùng hào kiệt trấn giữ khắp châu, quận rồi trở về cung mà giết sạch bọn chúng nó đi thì có lo gì bọn chúng phản ứng. Hà Tiến nói: - Kế ấy rất hay. Rồi, ông tính phát các hịch văn triệu hồi các trấn về hợp sức. Xảy có người bước tới cản ngăn: - Theo ý ngu hạ thì việc ấy tướng công không nên làm, và người xưa có câu: "Che mắt mà bắt chim én". Việc nhỏ mọn như thế mà còn phải dùng đến mưu chước huống chi việc quốc gia đại sự. Nay Tướng công chấp chưởng binh quyền, muốn làm gì chẳng được mà Tướng Công phải tính như vậy. Hơn nữa anh hùng khắp nơi, mỗi người có đều có chí hướng riêng, phỏng như Tướng Công triệu họ về mà có một số người không tuân lệnh có phải Tướng Công cầm giáo mà lại trở cán cho thiên hạ không? Hà Tiến nghe nói cười lớn và nói: - Ngươi là kẻ hủ nho, kiến thức bao nhiêu mà dám cùng bàn đến đại sự. Hà Tiến nói vừa dứt lời lại có một kẻ vỗ tay cười to, nói: - Việc nhỏ như vậy mà cần chi phải bàn đi bàn lại cho thêm mệt. Mọi người nghe nói quay lại thì thấy người ấy là Tào Tháo.
Hồi Thứ Ba - Tam Quốc Chí La Quán Trung Bàn phế lập, Ðổng Trác mắng Ðinh Nguyên Tặng Xích thố, Lý Túc dụ Lữ Bố Nhắc lới Tào Tháo thấy Hà Tiến muốn gọi binh mã các nơi về triều, thì nói rằng: - Xưa nay những bọn gian nịnh thì đời vua nào chẳng có, ấy là việc thường sự trong đời. Nhưng vì Vua gần đây quá sủng ái, cho chúng nó giữ quyền bính mà không nỡ tước bỏ, nên mới đến nỗi này. Còn muốn trừ chúng nó thì chỉ cần trị tội đứa cầm đầu là đủ, và chỉ cần một tên quản ngục bắt giam cũng xong. Việc gì phải triệu quân ngoài ùn ùn kéo về? Nếu cố giết hết bọn chúng, việc ắt tiết lộ. Tôi e rằng thất bại đấy. Hà Tiến bực tức gắt: - Mạnh Ðức cũng có một ý khác trong bụng nữa sao? Tào Tháo bỏ ra ngoài, nói một mình: - Kẻ làm cho thiên hạ loạn, chính là thằng Tiến. Hà Tiến bèn ngầm sai sứ đem mật chiếu, ngày đêm đi tới các Trấn... Ðây nhắc lới Tiền Tướng Quân Ngao Lương Hầu, Tây Lương Thứ Sử là Ðổng Trác vì trước kia đánh giặc Khăn Vàng không có công lao gì, bị thua luôn Trương Giác mấy trận nên triều đình triệu về buộc tội. Nhưng Trác đã đem của đút lót cho bọn Thập Thường Thị nên khỏi tội. Sau lại khéo luồn cúi bọn quyền quý trong triều nên Trác lới được thăng quan vùn vụt: từ Trung Lang Tướng, nhảy lên Tiền Tướng Quân, Ngao Hương Hầu, Tây Lương Thứ Sử! Tiền Tướng Quân, Ngao Hương Hầu, Tây Lương Thứ Sử Từ lúc trấn thủ ở ngoài, trong tay thống lãnh hơn hai mươi vạn quân tới Tây Lương, Ðổng Trác đã có lòng phản nghịch, nhưng chưa dám. Lúc ấy, lại được chiếu triệu về, thật là dịp may hiếm có, Ðổng Trác mừng như cọp gặp mồi, liền điểm binh mã, lục tục kéo về triều. Trác cử con rể là Ngưu Phụ làm Trung Lang Tướng ở lại trấn đóng Thiểm Tây, còn mình tự dẫn Lý Thôi, Quách Dĩ, Phàn Trù, Trương Tế đều nhắm Lộc Dương tấn phát. Tây Lương Tứ Tướng Lý Thôi - Quách Dĩ - Phàn Trù - Trương Tế Mưu sĩ Lý Nhu, cũng là con rể của Ðổng Trác, bàn rằng: Lý Nho - Nay mặc dầu tuy có chiếu triệu , song việc nầy xem ra có hơi ám muội, nếu muốn nên việc lớn thì phải sai người dâng biểu làm cho danh chánh ngôn thuận thì mới xong. Ðổng Trác nghe Lý Nhu nói thế, cười vang: - Mưu sĩ thật đáng là kẻ tài ba xuất chúng. Nói rồi, Ðổng Trác lập tức làm sớ như sau: "Nay trộm nghe triều đình lộn xộn, dân chúng oán than bởi lũ Thập Thường Thị ỷ quyền thế, hiếp chế vua nên mới sanh ra như vậy. Giết rắn không nên chừa độc, đốn cây phải bại cho tận gốc. Mổ nhọt tuy đau nhưng một lần lành bệnh còn hơn nuôi dưỡng bệnh hoạn trong mình. Nay Hạ thần xin khua chiêng gióng trống, đem binh về Lộc Dương quyết diệt trừ bọn Trương Nhượng để cứu nguy cho xã tắc, cho thiên hạ được an, ấy là vạn hạnh." Hà Tiến tiếp được biểu ấy, vội vã triệu tập các quan văn võ đến thương nghị. Quan Thị Ngự Sử là Trịnh Thái can rằng: - Ðổng Trác là giống sài lang, nếu để hắn về triều, ắt nó sẽ ăn thịt người. Hà Tiến nhìn Trịnh Thái cười: - Ngươi lấy chi làm bằng cớ. Công việc lớn mà đa nghi như thế thì bao giờ mới thành sự được. Lư Thực thấy vậy, bước ra can: - Tôi vốn biết Ðổng Trác là hạng mặt người mà lòng thú dữ, một khi vào cấm đình sẽ gây họa hoạn. Phải mau mau chận hắn lại, đừng cho vào, thì mới được yên. Các quan văn võ đều cố can ngăn Hà Tiến, nhưng Tiến vẫn khăng khăng một mực không nghe. Trịnh Thái, Lư Thực đều bỏ quan mà về. Các quan đại thần thấy vậy, cũng lần lượt bỏ đi quá nửa. Hà Tiến lại cho người đi đón Ðổng Trác tới Dẵn Trì. Trác đóng quân lại, không tiến nữa. Bọn Trương Nhượng hay được việc ấy, liền bàn với nhau: - Ấy là mưu của Hà Tiến. Chúng ta hiện bây giờ như cá nằm trong chậu, nếu chẳng lo ra tay trước, đợi nước đến trôn mới nhảy thì sẽ bị chết ba họ. Liền cho năm mươi tên đao phủ mai phục ở cung Trường Lộc, phía trong điện Gia Ðức, rồi kéo cả bọn vào quỳ trước mặt Hà Thái Hậu, khóc lóc thưa: - Nay Ðại Tướng quân phát chiếu triệu quân ngoài về kinh để giết lũ thần. Vậy mong Thái Hậu mở lòng từ bi, cứu mạng cho. Hà Thái Hậu nói: - Việc ấy bọn ngươi hãy đến phủ Ðại Tướng quân mà tạ tội để cho người cứu vớt cho. Bọn Trương Nhượng vừa khóc vừa nói: - Nếu lũ Hạ thần đem thân tới Tướng phủ, ắt sẽ nát thịt tan xương ngay. Xin Thái Hậu thương chúng tôi mà tuyên triệu Ðại Tướng quân vào cung mà phủ dụ. Nếu bấy giờ, Ðại Tướng quân không nghe nữa, thì lũ thần xin chịu chết trước mặt Thái hậu. Thái hậu liền giáng chiếu đòi Hà Tiến vào. Tiến được chiếu, vừa muốn ra đi thì Trần Lâm can: - Chiếu của Thái hậu đây ắt là mưu của lũ Thập Thường Thị, thiết nghĩ không nên vào. Vào ắt mang họa. Tiến nói: - Rõ ràng là chiếu của Thái hậu đây, sợ tai vạ gì nữa? Viên Thiệu cũng xen vào: - Nay cơ mưu đã bại lộ, Ðại Tướng quân còn vào cung làm gì? Tào Tháo nói: - Hãy đòi hết lũ Thập Thường Thị ra đây rồi Ðại Tướng quân sẽ vào thì chẳng can chi. Nhưng Hà Tiến gạt đi: - Ðó là ý kiến trẻ con. Ta nắm việc thiên hạ trong tay, lũ Thập Thường Thị dám động đến mình ta sao? Các người đừng nghi ngờ như thế! Viên Thiệu nói: - Nếu Ðại Tướng Quân muốn vào thì chúng tôi xin dẫn giáp sĩ theo hộ tống, để phòng bất trắc. Nói rồi, Viên Thiệu, Tào Tháo mỗi người nai nịt hẳn hòi, đem binh khí theo mình, lới tuyển năm trăm tinh binh, giao cho em Thiệu là Viên Thuật chỉ huy. Viên Thuật nai nịt gọn ghẽ, đem binh mai phục nơi Thanh Tỏa. Còn Tháo và Thiệu cầm gươm hộ tống Tiến vào trước cung Trường Lộc. Vừa đến cửa cung thì có Hoàng Môn Quan truyền chỉ rằng: - Thái Hậu chỉ vời một mình Ðại Tướng quân. Ngoài ra, không ai được vào. Thế là Thiệu và Tháo bị cản lới ngoài cửa. Còn Hà Tiến cứ ngang nhiên vào không có chút e ngại... Khi đến trước điện Gia Ðức thì bỗng bọn Trương Nhượng, Ðoàn Khuê xong ra đón chặn, miệng hô tả hữu vây chặt. Trương Nhượng lớn tiếng mắng: - Bớ Hà Tiến! Ðổng Thái Hậu có tội gì mà mày nỡ phục độc giết hại? Ngày lễ táng vị Quốc Mẫu, sao mày giả đau không thèm ra dự? Mày chỉ là đồ con nhà hàng thịt hèn hạ, nhờ có bọn tao tiến cử lên Thiên Tử, mày mới được tôn quý đến mực này chứ! Thế mà mày đã không nghĩ đến báo đáp thì thôi, sao lới còn mưu hại bọn ta? Mày chửi bọn ta là đồ ô trọc, vậy thì ai là mặt thanh cao? Bây giờ Hà Tiến mới biết nguy, vội tìm lối thoát nhưng các cửa cung đều đóng chặt. Hà Tiến chưa biết xử trí cách nào, đã bị phục quân đổ ra chém Tiến một đao đứt làm hai đoạn. Người sau có thơ rằng: Vận Hán lâm nguy, khiến giữa trào, Ngu như Hà Tiến nắm quyền cao. Khù khờ chẳng chịu nghe can gián, Mắc nạn trong đền, chết dưới đao. Bên ngoài Viên Thiệu, Tào Tháo đứng đợi mãi không thấy Hà Tiến trở ra, trong lòng sanh nghi. Viên Thiệu bèn hô lớn: - Mời Ðại Tướng quân lên xe trở về! Bỗng bọn Trương Nhượng xách thủ cấp của Hà Tiến ném qua mặt tường ra ngoài, rồi lên tiếng tuyên dụ: - Ðứa ngịch thần Hà Tiến mưu phản, đã bị giết rồi, còn tất cả bọn a tòng đều được tha thứ. Nghe nói, Viên Thiệu đùng đùng nổi giận, thét lớn: - Bọn yêm hoạn dám mưu sát đại thần! Ai muốn tru diệt ác đảng, lao động đường phố xã tắc, hãy tới đây trợ chiến. Bộ tướng của Tiến là Ngô Khuông liền nổi lửa đốt cửa Thanh Tỏa. Viên Thuật liền dẫn binh sấn vào trong cung, hễ gặp tên yêm hoạn nào là giết liền, chẳng kể lớn nhỏ già trẻ. Viên Thiệu, Tào Tháo cũng vung gươm, chém khóa phá cửa, xông vào trong cung, lại gặp bọn Triệu Trung, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng toan chạy, liền đuổi đến Thúy Hoa Lâu, rồi bằm thây bọn nầy nát như tương. Lúc ấy, trong cung đình lửa cháy ngất trời. Bọn Trương Nhượng, Ðoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm bốn tên lập tức băng mình theo khói lửa, ép Thái hậu, Thiếu Ðế, và Trần Lưu Vương ra phía nội tỉnh, theo lối sau, chạy về Bắc Cung. Nói về Lư Thực tuy đã bỏ quan tước, nhưng cũng còn ở tại triều, lúc bấy giờ nghe trong cung có biến, liền mặc giáp cầm thương, chạy tới chờ ở dưới lầu. Vừa gặp Ðoàn Khuê đem Hà Thái Hậu chạy tới, Lư Thực thét lớn: - Nghịch tặc! Mày bức bách Thái Hậu đi đâu? Khuê quay đầu chạy trốn. Hà Thái Hậu liều nhào qua cửa sổ nhảy ra, được Lư Thực cứu thoát. Ngô Khuông chém giết tới nội đình thì gặp Hà Miêu cầm gươm chạy ra. Khuông hô lớn: - Thằng Miêu đồng mưu hại anh, hãy giết nó đi! Quân sĩ đồng thanh hô theo: - Mau chém thằng giặc phản anh! Miêu toan chạy, nhưng bốn mặt quân vây kín, băm xác ra như bùn. Viên Thiệu lới sai quân sĩ chia nhau lùng bắt các gia thuộc của mười tên Thường Thị, bất luận lớn nhỏ đều giết hết. Lúc ấy, tất cả những người không có râu, đều bị nghi là gia quyến của Thập Thường Thị, nên bị giết lầm vô số. Còn, Tào Tháo thì lo chữa lửa trong cung, cho mời Thái Hậu về triều để nhiếp chánh việc nước. Mặt khác, Tháo sai quân đuổi theo bọn Trương Nhượng để tìm vua Thiếu Ðế. Nói về Trương Nhượng, Ðoàn Khuê cướp Vua và Trần Lưu Vương, băng qua khói lửa, suốt đêm chạy không nghỉ ra núi Bắc Mang. Vào khoảng canh ba, bỗng nghe mặt sau có tiếng quân reo ó vang trời, một đoàn binh mã đuổi tới. Thì ra là quan Trung Bộ Duyện Lại ở Hà Nam là Mẫn Cống. Cống phóng ngựa lên chẹn đường, thét lớn: - Phản thần chớ chạy ! Có ta đến để bắt chúng bây đây ! Trương Nhượng hoảng vía, biết đã đến nước cuối cùng không thể nào trốn thoát được nữa, liền liều mạng nhảy xuống sông tự tử. Còn Vua và Trần Lưu Vương bơ vơ một mình, chẳng biết việc hung kiết thế nào, nên không dám lên tiếng. Cả hai dắt nhau nép mình nơi bờ sông, trong đám cỏ gai gần đấy. Mẫn Cống không thấy Vua đâu, bèn phân quân đi tứ tán kiếm tìm, nhưng rốt cuộc không thấy, đành phải kéo nhau trở về. Còn Vua và Trần Lưu Vương núp đó chờ cho đến đầu canh tư, thấy bốn bề vắng vẻ mới dám bò ra. Ðêm ấy, sương xuống như mưa, hai người lạnh lẽo đói khát, buồn khổ ôm nhau mà khóc. Nhưng lại sợ có người hay được nên không dám khóc to. Trần Lưu Vương nói vại Vua: - Chốn nầy không thể ở lâu được, phải đi nơi khác gấp, mới sống được. Thế là Vua và Trần Lưu Vương lấy chéo áo buộc lới vại nhau cho khỏi lạc, rồi mò mẫm lên mặt đê, gai góc đây đất, cố mà len chân, nhưng bóng tối dầy đặc không nhìn thấy đường lối gì cả. Trong lúc đang lo sợ, bỗng có hàng ngàn đom đóm tụ tập lới, chiếu tỏa sáng như sao sa trước mặt Vua. Thấy vậy, Trần Lưu Vương nói: - Hoàng huynh ơi, đây là trời giúp anh em ta! Liền theo ánh sáng đom đóm mà đi, dần dần tìm thấy con đường. Tới canh năm thì chân đau quá, không thể đi được nữa, thấy bên chân núi có một gò cỏ cao, Thiếu Ðế và Trần Lưu Vương đành tạm ẩn vào trong gò ấy. Gò này nằm ngay phía sau một trang viện. Trang chủ đêm ấy nằm mộng thấy có hai bóng mặt trời sa xuống đồng cỏ sau nhà, liền giật mình thức giấc, vội mặc áo ra ngoài, nhìn ngó bốn phía, thấy trên gò phía sau trang có hồng quan rực trời. Trang chủ lòng hoang mang kinh lạ, vội tới xem thì thấy có hai thiếu niên nằm trong đám cỏ, bèn hỏi: - Hai cậu là con nhà ai? Thiếu Ðế lo sợ, không dám nói gì. Trần Lưu Vương trỏ vào anh mà đáp: - Ðây chính là đương kim Hoàng đế, vì bị bọn Thập Thường Thị làm loạn nên phải lánh mình nơi đây. Còn ta là Hoàng đệ Trần Lưu Vương. Trang chủ nghe nói thất kinh, vội sụp xuống đất lạy hai lạy, rồi thưa: - Hạ thần tên là Thôi Nghị, em của quan Tư Ðồ Thôi Liệt, nhân vì bọn Thập Thường Thị buôn quan bán tước, ghét người hiền, nên Hạ thần mới buồn lòng về ẩn dật nơi đây. Nói xong lao động đường phố Vua về nhà dâng rượu thịt cho vua dùng đỡ đói. Nói về Mẫn Cống đuổi theo Ðoàn Khuê, khi trời hừng sáng thì bắt được được Ðoàn Khuê, liền cật vấn: - Thiên tử ở đâu? Khuê khai rằng khi chạy tới nửa đường thì lạc mất, không biết Vua đi về phía nào nữa. Mẫn Cống liền giết Ðoàn Khuê, cắt lấy đầu, treo dưới cổ ngựa, rồi chia quân đi bốn mặt tìm kiếm. Còn Mẫn Cống thì một mình một ngựa, lần đi hỏi dò. Bỗng Cống đi tới nhà Thôi Nghị. Nghị ra đón, thấy một chiếc thủ cấp treo lủng lẳng trên cổ ngựa, liền hỏi duyên cớ. Cống thuật lại rõ ràng. Thôi Nghị mới dẫn Cống vào ra mắt Vua. Chúa tôi cùng khóc. Mẫn Cống tâu: - Một ngày không thể thiếu Vua. Xin Bệ Hạ hãy hồi triều. Bấy giờ nhà Thôi Nghị chỉ có một con ngựa gầy, để riêng Vua ngự. Trần Lưu Vương phải cưỡi chung ngựa với Mẫn Cống. Ði được vài dặm gặp được Tư Ðồ Vương Doãn, Thái Úy Dương Bưu, Tả Quân Hiệu Úy Thuần Vu Quỳnh, Hữu Quân Hiệu Úy Triệu Manh, Hậu Quân Hiệu Úy Bảo Tín, Trung Quân Hiệu Úy Viên Thiệu cùng một đoàn khoảng trăm người ngựa đến nghinh tiếp thánh giá. Mừng mừng tủi tủi, Vua tôi đều khóc. Trước hết, các quan sai đem thủ cấp Ðoàn Khuê về bêu ngoài cửa thành làm lệnh. Rồi chọn ngựa tốt để Thiếu Ðế và Trần Lưu Vương ngự, cùng rước về kinh. Trước đó ít lâu, trẻ con ở Lộc dương thường hát mấy câu đồng dao rằng: Ðế không ra đế, Vương chẳng phải Vương. Ngàn xe vạn ngựa, Chạy đến Bắc mang. Tức là điềm sau này đế bị truất làm Vương, Vương được lên ngôi đế. đến bấy giờ biết ứng nghiệm vào việc đó. Xa giá đi chưa được vài dặm, bỗng đàng xa có tiếng trống vang lừng, tinh kỳ rợp đất, bụi bay mù trời, rồi một đoàn binh mã ào ào kéo đến. Bá quan đều thất sắc. Vua cũng sợ hãi. Viên Thiệu vội thúc ngựa ra trước thét hỏi: - Binh mã của ai đấy? Từ dưới bóng ngọn cờ thêu rực rỡ, một tướng bên kia thúc ngựa ra, lớn tiếng hỏi lại: - Thiên tử đâu? Vua càng sợ, không dám lên tiếng. Trần Lưu Vương quất ngựa sấn ra, nớt rằng: - Nhà ngươi là ai? Tướng ấy đáp: - Thứ Sử Tây Lương là Ðổng Trác đây. Trần Lưu Vương gằn giọng hỏi: - Ngươi đến đây bảo giá hay cướp giá? Thấy vẻ mặt oai nghiêm của Trần Lưu Vương, Ðổng Trác khiếp sợ, thưa: - Hạ thần đến đây để bảo giá. Trần Lưu Vương hạch rằng: - Ðã tới hộ giá, vậy Thiên Tử ngồi kia, sao ngươi không xuống ngựa mà thi lễ? Ðổng Trác sợ hãi, lật đật xuống ngựa, khấu đầu bên đường, miệng tung hô "vạn tuế". Trần Lưu Vương lại lấy lời ngọt ngào mà phủ úy Ðổng Trác. Từ đầu chí cuối, lời lẽ đường hoàng, không ngập ngừng lầm lỡ một tiếng nào. Ðổng Trác thầm lấy làm lạ, sinh lòng khâm phục vô cùng. Và từ đó, Trác đã có ý định phế Thiếu Ðế mà lập Trần Lưu Vương lên làm vua. Hôm ấy, các quan lao động đường phố Thiếu Ðế về cung ra mắt Hà Thái Hậu. Mẹ con khóc lóc với nhau, mọi người đều ứa lệ. Khi kiểm điểm lới trong cung, không thấy cái ấn ngọc "truyền quốc" ở đâu nữa! Bấy giờ Ðổng Trác đem binh đóng ngoài thành. Ngày ngày dẫn giáp sĩ cưỡi ngựa vào thành, hoành hành khắp phố xá, chợ búa. Nhân dân trăm họ lo sợ, hoang mang. Trác lại ra vào tự do nơi chốn cung đình, không kiêng kỵ gì hết. Quan Hậu Quân Hiệu Úy là Bảo Tín tới bảo Viên Thiệu: Hậu Tướng Quân Hiệu Úy Bảo Tín - Ðổng Trác ắt manh tâm làm loạn, nên kíp trừ đi. Viên Thiệu nói: - Triều đình đã bị hoang mang, nay vừa mới được yên, chớ nên khinh động. Bảo Tín lới tới gặp Vương Doãn để bàn về việc ấy. Doãn cũng nói: - Hãy thong thả, để tính kỹ xem đã. Bảo Tín thấy tình thế như vậy, liền bỏ triều đình, kéo hết quân bản bộ vào núi Thái Sơn. Nói về Ðổng Trác lại đi chiêu dụ bọn bộ Hạ anh em Hà Tiến. Bao nhiêu binh mã của họ Hà đều về tay Trác hết. Ngày kia, Ðổng Trác bàn riêng vội hỏi Lý Nhu: - Ta muốn phế bỏ Vua xuống mà lập Trần Lưu Vương lên ngôi có được chăng? Lý Nhu nói: - Nay đang lúc triều đình vô chủ, nên thừa thời cơ mà làm gấp đi, nếu để chậm e sinh biến. Ngày mai hãy triệu tập bá quan tới điện Ôn Minh trong vườn, nói rõ việc phế lập. Kẻ nào không nghe theo, cứ chém đầu. Lấy quyền uy mà làm, kế sách hiện tới phải thế mới xong. Ðổng Trác nghe nói, lòng mừng khấp khởi. Qua hôm sau, khiến quân bày yến tiệc nơi vườn Ôn Minh và mời tất cả các quan đại thần đến đó để phó hội. Các quan lúc nầy đều sợ Ðổng Trác, nên không có ai dám từ chối. Trác để cho các quan tới đông đủ rồi mới cỡi ngựa thẳng đến trước cửa viên mới chịu xuống ngựa, lại mang gươm vào tiệc. Uống vừa đặng vài tuần rượu, Trác ra lệnh ngừng rót, im tiếng nhạc, rồi lớn tiếng nói: - Hôm nay ta mời các quan đến đây với mục đích là bày tỏ một ý kiến. Bá quan ai nấy cũng đều lắng tai nghe, Trác nói tiếp: - Thiên tử là chúa tể muôn dân, nếu không có uy nghi xứng đáng, không thể phụng sự tông miếu, xã tắc được. Nay đức Kim Thượng là kẻ nhu nhược không đáng mặt cầm quyền chấp chánh. Còn Trần Lưu Vương vốn là bậc thông minh, hiếu học, có đủ tài đức để trị dân, đáng mặt kế vị ngôi cả. Vậy ý ta muốn phế Vua, mà lập Trần Lưu Vương lên ngôi báu, chẳng hay ý các quan đới thần nghĩ như thế nào? Các quan đại thần nghe nói đều im lặng, chưa ai dám nói gì, bỗng có một người đứng dậy, xô ghế bước ra nói lớn: - Không được! Không được! Ngươi là hạng người gì mà dám làm đại ngôn như thế? Vả chăng đức Kim Thượng là con trưởng của Tiên Ðế, sửa trị ngôi trời là lẽ phải, vả lại Người cũng chưa có việc gì lỗi lầm thì sao ngươi dám nghĩ đến chuyện phế lập? Ngươi muốn mưu đồ soán nghịch chăng? Các quan chăm chú nhìn ra người ấy là quan Thứ Sử Kinh Châu Ðinh Nguyên, Trác nổi giận nạt lớn: - Nơi đây nếu có kẻ nào nghịch ý ta thì chắc không còn tánh mạng. Cả tiệc rượu ai nấy nhao nhao, còn Ðổng Trác cầm gươm toan bước tới chém Ðinh Nguyên. Lúc ấy, Lý Nhu đứng thấy sau lưng Ðinh Nguyên có một người khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt, tay cầm một cây "Phương thiên họa kích", trừng trừng con mắt mà nhìn Ðổng Trác. Nho biết việc chẳng xong, liền bước đến giả vờ can Ðổng Trác: - Hôm nay trong yến ẩm không nên đem việc nước ra bàn, vậy xin để ngày mai cũng chẳng muộn. Các quan cùng khuyên giải Ðinh Nguyên, nên Ðinh Nguyên xô ghế bỏ ra về. Ðổng Trác tay vẫn cầm kiếm, quay lại hỏi các quan: - Lời ta nói có hợp công đạo hay không? Lư Thực bước ra, nghiêm nghị nói: - Ông nói sai rồi. Việc phế lập vua phải có duyên cớ. Xưa vua Thái Giáp vì bất minh nên ông Y Doãn mới đuổi ra Ðồng cung. Xương Ấp Vương lên ngôi mới có hai mươi bảy ngày mà làm hơn ba mươi điều ác, nên ông Hoắt Quang mới phải tế cáo nhà Thái Miếu mà phế đi. Nay Thánh Thượng tuy còn thơ ấu nhưng thông minh nhân trí, chưa lầm lỗi mảy may. Ông chỉ là một vị quan ở ngoài, chưa từng tham dự triều chính, lới không có tài như Y Doãn, Hoắt Quang, mà dám bàn đến chuyện phế lập sao được? Thánh nhân có dạy rằng: "Có chí như Y Doãn thì được. Không có chí như Y Doãn mà bắt chước làm Y Doãn, ấy là kẻ soán nghịch." Ðổng Trác nổi giận rút gươm toan chém Lư Thực, thì quan Nghị lang là Bành Bá vội can: - Lư Thượng thư là bậc có danh vọng, hải nội chư nhân đều mong mỏi. Nếu giết đi, e làm náo động thiên hạ. Bấy giờ Trác mới ngừng tay. Quan Tư Ðồ Vương Doãn nói: - Việc phế lập rất quan trọng, không nên đem bàn lúc trà dư tửu hậu. Ðể một ngày khác. Khi tiệc tan, bá quan ra về, Trác mặt còn hầm hầm, tay cầm gươm đứng ở viên môn. Bỗng Trác thấy có một người lực lưỡng, cầm kích rong ngựa đi đi lới lới phía ngoài, bèn hỏi Lý Nhu: - Người nào đấy? Lý Nhu đáp: - Ðó là con nuôi của Ðinh Nguyên, họ Lữ tên Bố, tự là Phụng Tiên, người ấy là một anh hùng trên đời có một không hai. Tướng quân nên tránh nó kẻo mang họa. Anh hùng Lữ Phụng Tiên Ðổng Trác nghe nói liền lánh mặt vào trong vườn. Rạng ngày có quân vào báo vại Ðổng Trác: - Quân của Ðinh Nguyên đến bên thành khiêu chiến đòi Tướng Quân phải ra binh. Ðổng Trác tức giận, hiệp với Lý Nhu dẫn quân ra thành nghênh chiến. Hai bên giàn trận, rồi thấy Lữ Bố hiện ra, đầu búi tóc, đội kim quan, mình mặc bào gấm trăm hoa lồng giáp đường nghê, lưng thắt bảo đới Ti loan, tay cầm tay cầm Phương Thiên Họa Kích, giục ngựa lao động đường phố Ðinh Nguyên ra trước trận. Ðinh Nguyên chỉ vào mặt Ðổng Trác mắng: - Quốc gia gặp lúc không may, lũ yêm hoạn lộng quyền đến nỗi muôn dân đồ thán, mi không hề có thước tấc công lao nào, sao dám nói càn chuyện phế lập, làm loạn triều đình? Ðổng Trác chưa kịp trả lời thì sau lưng Ðinh Nguyên, Lữ Bố đã phi ngựa vung kích đánh tràn sang. Binh tướng của Ðổng Trác không một người nào dám ra nghinh địch. Cây kích của Lữ Bố đến đâu là quân Trác chết đến đó, làm cho quân của Ðổng Trác cả loạn. Trác hoảng sợ quay đầu chạy. Ðinh Nguyên thúc quân đánh giết. Quân Trác đại bại một trận, phải lui hơn ba mươi dặm mới dám hạ trại, kiểm điểm binh mã thấy hao hơn phân nửa. Trác họp các tướng, bàn rằng: - Ta thấy Lữ Bố quả là tay phi thường. Nếu được người ấy, ta còn lo gì việc thiên hạ? Trong lúc ấy có một người bước đến thưa: - Chúa công đừng lo. Tôi với Lữ Bố vốn cùng quê quán, biết rõ hắn tuy có tài xuất chúng, song là kẻ hữu dũng vô mưu, thấy lợi mà quên nghĩa. Vậy tôi xin đem ba tất lưỡi đi thuyết, khiến hắn phải chắp tay về hàng Chúa công. Trác nghe nói mừng rỡ, xem lới thì thấy người ấy là Hổ Bôn Trung Lang Tướng Lý Túc. Trác hỏi: - Cần đem theo vật gì để dụ hắn? Túc nói: - Tôi nghe Chúa công có con ngựa Xích Thố, ngày đi ngàn dặm. Nếu được ngựa ấy với ít vàng ngọc để lấy lòng hắn, rồi tôi lựa lời thuyết dụ, ắt Lữ Bố phản Ðinh Nguyên, hàng Chúa công. Hổ Bôn Trung Lang Tướng Lý Túc Trác hỏi Lý Nhu: - Ý ấy thế nào? Nhu đáp: - Chúa công muốn gồm thâu thiên hạ lại tiếc chi một con ngựa. Trác nghe nói, truyền quân dắt con ngựa Xích Thố đến, lới cho lấy ra một ngàn lạng vàng, mươi hạt minh châu, và một cái đai ngọc giao cho Túc. Túc tức thì mang tất cả lễ vật thẳng đến trới Lữ Bố. Dọc đường bị quân phục bao vây, Túc nói: - Các ngươi kíp vào báo với Lữ Tướng quân rằng: "Có cố nhân muốn đến thăm." Quân vào báo, Bố ra lệnh cho Túc vào. Chào hỏi xong, Túc nói: - Bấy lâu nay xa cách hiền đệ, tôi rất thương nhớ, khi biết được hiền đệ ở đây nên tôi đến thăm viếng. Nay thấy hiền đệ vẫn khang kiện, tôi rất mừng. Lữ Bố nắm tay Lý Túc thân mật nói: - Ðã hằng lâu xa cách nhau, nay hiền huynh ở nơi nào? Lý Túc đáp: - Hiện nay tiện huynh đang làm chức Hổ Bôn Trung Lang Tướng, nghe hiền đệ có lòng khuôn lao động đường phố xã tắc nên tiện huynh vui mừng khôn xiết. Nay có một con ngựa quý, ngày đi ngàn dặm có dư, lới có tài vượt nước trèo non như đi trên đất bằng, tên là Xích Thố, nên đem tới biếu cho hiền đệ, để thêm oai cho hùm đây. Lữ Bố bèn khiến quân dắt ngựa đến, quả nhiên con ngựa ấy cả mình đều đỏ như lửa, không bợn một sợi lông tạp màu. Từ đầu tới đuôi dài một trượng, từ móng lên đầu cao tám thước. Rồi bỗng nó gầm hí vang rền, giậm vó rung mặt đất, như sắp bay bổng lên không, băng mình qua bể vậỵ Người sau có thơ vịnh ngựa Xích thố rằng: Ngàn dặm phi đằng, cát bụi tung, Băng sông vượt núi, xé sương hồng. Khác chi rồng lửa trên trời xuống, Muốn rứt cương tơ, vỡ nhạc đồng. Lữ Bố thấy ngựa tốt, lòng mừng khấp khởi, bèn tạ ơn Lý Túc: - Hiền huynh có lòng tốt, cho con ngựa quý này, tôi chẳng biết lấy gì báo đáp? Lý Túc nói: - Tôi vì nghĩa khí mà đến đây há cần đâu ân huệ? Bố sai dọn rượu thết đãi. Rượu ngà ngà, Túc nói: - Tuy ít gặp hiền đệ, nhưng lệnh tôn thì Túc được gặp luôn. Bố đáp: - Hiền huynh say rồi! Cha tôi đã mất từ lâu, còn gặp làm sao được? Túc cười lớn: - Không phải thế. Tôi nói "lệnh tôn" tức là Ðinh Thứ Sử đấy chứ. Bố buồn bã nói: - Tôi theo Ðinh Kiến Dương cũng là bất đắc dĩ, bỏ đi chưa nỡ đấy thôi! Túc nói: - Hiền đệ là người tài ba lỗi lạc, sức mạnh hơn người, anh hùng xuất chúng, bốn bể biết tên. Lẽ ra phải được hưởng chức trọng quyền cao, có lý đâu lới phải cam chịu ở dưới trướng người ta vậy? Lữ Bố nói: - Tôi cũng muốn thế, ngặt vì chưa gặp được một đấng minh quân. Lý Túc cười bảo: - Chim khôn lựa cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nếu không sớm tìm thời cơ, e khi hối ra thì đã muộn đấy. Bố hỏi: - Hiền huynh đã ở trong triều, vậy có thấy ai xứng đáng là anh hùng đời nay? Túc đáp: - Hiện tới triều đình, các đới thần ai nấy tranh giành ngôi thứ, Vua thì còn nhỏ bị kẻ sàm nịnh chiếm đoạt quyền hành. Tôi thấy khắp mặt bá quan, không ai bằng Ðổng công. Ðổng công là người biết kính hiền ái sĩ, thưởng phạt công minh, lới có lòng diệt nịnh lao động đường phố Vua. Thế nào về sau cũng nên nghiệp lớn, vậy hiền đệ còn đợi gì mà không theo lao động đường phố để lập thân. Lữ Bố nói: - Tôi cũng muốn theo về Ðổng công ngặt vì không ai tiến cử. Bấy giờ, Túc biết công việc đã có kết quả, lập tức đem cái đai ngọc và vàng bạc bày ra trước mặt Lữ Bố. Bố giật mình hỏi: - Hiền huynh đem những thứ này tới làm gì? Túc bảo cho tả hữu lui hết ra ngoài, rồi mới nói: - Ðây là của Ðổng công. Ðổng công mộ tiếng lớn của hiền đệ từ lâu. Nay sai Túc này đem lễ vật tới kính biếu. Con Xích Thố kia cũng là của Ðổng công sai đem tặng hiền đệ vậy. Bố nói: - Ðổng công có lòng yêu thế này, tôi biết lấy gì đền đáp? Túc nói: - Tài thường sức mọn như Túc này, mà còn được phong chức Hổ Bôn Trung Lang Tướng, thì tài như hiền đệ, nếu theo về, ắt được quyền cao chức trọng, phú quý chưa biết đến bậc nào? Bố ngần ngừ nói: - Tôi chưa có chút công trạng nào mà làm lễ ra mắt Ðổng công. Khó nghĩ quá. Túc lửng lơ nói: - Công trạng ấy đối với người khác thì khó thật, chứ như đối với hiền đệ thì dễ như trở bàn tay, có gì mà phải lo. Chỉ sợ hiền đệ không chịu làm đấy thôi. Bố trầm ngâm một lúc rồi nói: - Tôi muốn giết Ðinh Nguyên rồi dẫn quân ra hàng Ðổng công, chẳng biết có nên không? Hiền huynh xét thử? Túc vội xuýt xoa nói: - Hiền đệ làm được việc ấy thì còn công nào lớn bằng. Nhưng việc đó cốt phải khẩn mật mới được. Bố hẹn với Túc nội trong đêm ấy thế nào cũng xong việc. Túc rất hoan hỉ, từ giã ra về. Ðêm ấy, vào lúc canh hai, Lữ Bố cầm gươm bước vào trong trướng Ðinh Nguyên. Lúc ấy, Nguyên đang thức chong đèn xem sách, thấy Bố vào, bèn hỏi: - Ðêm khuya, con vào đây có việc gì? Bố trở mặt mắng rằng: - Ta đường đường một kẻ trượng phu, há lại đi làm con của ngươi sao? Nguyên kinh ngớc, trố mắt nhìn Bố hỏi: - Phụng Tiên, cớ sao con lại đổi lòng như vậy? Bố chẳng đáp chẳng rằng, bước tới vung gươm chém Ðinh Nguyên một nhát, đầu rơi xuống đất. Sát Phụ Tử Lữ Bố Người sau có thơ than Ðinh Nguyên rằng: Thuơng thay! Hán mạt có Ðinh công, Nuôi được con tài, tưởng cậy trông... Ai biết nòi nào ra giống ấy, Nuôi hùm, hùm cắn, xót xa lòng. Lại có thơ than Lữ Bố rằng: Tiếc thay! Mặt đẹp, lực vô song, Cử đỉnh bớt sơn nức tiếng hùng. Quen thói bạo tàn, không chút nghĩa, Trách gì thiên hạ chẳng ai dung. Chém xong, Lữ Bố xách đầu Ðinh Nguyên ra ngoài, hô lớn: - Ðinh Nguyên là kẻ bất nhân vô đạo, ta đã giết chết rồi. Vậy thì ai muốn theo ta thì theo, ai không theo thì cứ tự tìm chỗ khác mà đi. Quân sĩ thấy vậy bỏ đi hơn phân nửa. Hôm sau, Lữ Bố xách đầu Ðinh Nguyên đến gặp Lý Túc. Túc vội dẫn Bố vào dinh ra mắt Ðổng Trác. Ðổng Trác lòng mừng khôn xiết, hối quân bày rượu thịt thết đãi Lữ Bố, và bước đến trước mặt Bố, cúi đầu nói: - Trác này được Tướng quân hôm nay chẳng khác đại hạn gặp mưa rào vậy. Lữ Bố vội vàng đứng dậy thi lễ, mời Trác ngồi lên, rồi sụp lạy mà tạ rằng: - Minh công đãi Bố này rất hậu, ơn ấy không biết lấy gì đền đáp. Nếu Minh công cho phép, Bố này xin bái Minh công làm nghĩa phụ. Trác mừng lắm, sai lấy giáp vàng, bào gấm ban thưởng cho Bố, rồi cùng Bố yến ẩm say sưa tối ngày. Từ đó, Ðổng Trác oai quyền lừng lẫy, không biết nể nang ai nữa. Trác tự lĩnh công việc của Tiền Tướng Quân, phong cho em ruột là Ðổng Mân làm Tả Tướng Quân tước Hổ Hầu, phong cho Lữ Bố làm Kỵ Ðô Úy Trung Lang Tướng tước Ðô Ðình Hầu. Lý Nhu khuyên Trác sớm định ngay mưu kế phế lập. Trác liền lập tiệc tới đình trung, rồi viết thiệp mời các quan đến phó yến. Lại sai Lữ Bố dẫn hơn ngàn quân giáp sĩ, nai nịt đầy đủ, mai phục xung quanh. Hôm ấy, quan Thái Phó Viên Ngỗi cùng bá quan đều đến. Rượu được vài tuần, Ðổng Trác đứng dậy chống gươm nói: - Nay Vua nhu nhược, hôn ám, không thể phụng sự tôn miếu được. Ta noi gương Y Doãn, Hoắt Quang, phế Vua xuống làm Hoằng Nông Vương, lập Trần Lưu Vương lên làm Hoàng đế. Ai không thuận, ta chém đầu? Quần thần sợ hãi ngồi lặng thinh. Trung Quân Hiệu Úy Viên Thiệu đứng dậy, bước ra khỏi ghế nói: - Ðức Kim Thượng tức vị chưa bao lâu, chưa làm gì lỗi đạo, ngài muốn bỏ trưởng lập thứ, chính là muốn tạo phản rồi. Trác nổi giận mắng lớn: - Việc nước hiện ở trong tay ta. Ta muốn làm gì thì làm, ai dám không thuận? Ngươi tưởng lưỡi gươm của ta không bén chăng? Thiệu cũng rút gươm ra khỏi vỏ, nói lớn: - Gươm ngươi bén thật, nhưng gươm của ta đây cũng không phải là loại sắt cùn. Hai người toan đối địch trước tiệc. Ðó chính là: Ðinh Nguyên trượng nghĩa, thân vừa thác, Viên Thiệu tranh phong, thế cũng nguy.
Hồi Thứ Tư - Tam Quốc Chí - La Quán Trung Phế Hán Ðế, Trần Lưu lên ngôi Lừa Ðổng tặc, Mạnh Ðức dâng kiếm. Ðổng Trác muốn giết Viên Thiệu, Lý Nho can rằng: - Việc chưa định xong không nên giết càn. Viên Thiệu tay cầm thanh bảo kiếm, cáo từ các quan trở ra, treo trả cờ tiết ở cửa đông rồi bỏ về Ký Châu. Trác bảo với quan thái phó Viên Ngỗi rằng: - Cháu ngươi vô lễ, ta tha cho hắn cũng là nể ngươi. Việc phế vua lập Trần Lưu, ngươi nghĩ thế nào? Ngỗi thưa rằng: - Thái úy nghĩ thế phải đấy! Trác lới nói: - Ai dám ngăn trở việc lớn này, thì ta sẽ lấy phép quân trị tội. Các quan sợ hãi, đều nói: - Ngày dạy thế xin vâng! Cuộc yến tan, Trác hỏi quan Thị Trung là Chu Bật và quan Hiệu Úy là Ngũ Quỳnh rằng: - Viên Thiệu phen này đi, rồi sẽ ra sao? Chu Bật đáp: - Viên Thiệu câm giận mà đi, hễ truy nã riết quá tất sinh biến. Vả lại họ Viên, đã bốn đời làm quan đến bậc tam công, thiên hạ được nhờ nhiều lắm; học trò, đầy tớ đâu đâu củng có. Nếu hắn thu dùng hào kiệt, tập họp đồ đảng, rồi những anh hùng trong thiên hạ nhân đó khởi lên, đất Sơn Ðông sẽ không ở trong tay ông nữa. Không bằng ông tha tội hắn, cho hắn một chức quận thú gì đấy, thì hắn mừng được khỏi tội, sẽ không gây ra hậu hoạn nữa. Ngũ Quỳnh nói: - Viên Thiệu là người thích mưu kế, nhưng không quyết đoán, không đánh lo cho lắm. Bất nhược cứ cho hắn một chức quận thú để thu phục lòng dân! Trác nghe lấy làm phải, ngay hôm ấy sai người đến phong cho Thiệu làm thái thú quận Bột Hải. Ðến mồng một tháng chín, Trác rước vua ra ngự đền Ôn Ðức, họp hết cả văn võ lại. Trác tay cầm kiếm nói rằng: - Thiên tử ngu yếu, không trị vì được, nay có một bài sách văn đọc cho các quan nghe. Rồi sai Lý Nho tuyên đọc: "Vua Hiếu Linh mất sớm, vua sau nối ngôi, bốn bề ai ai cũng trông mong. Nay xét ra vua ta, thiên tử mỏng mảnh, kém vẻ uy nghi nghiêm chỉnh, cư tang biếng nhác, đức xấu đã rõ, không xứng ngôi lớn. Hoàng thái hậu không có uy nghi của người mẹ, nhiếp chính rối tung. Việc bà Vĩnh Lạc thái hậu mất, dân chúng có nhiều dị nghị. Ðối với đạo tam cương và đường Trời đất, phải chăng có thiếu sót nhiều? Trần Lưu Vương tên Hiệp, đức hạnh nghiêm trang, khuôn phép kính cẩn, cư tang thương xót, nói năng chính đính, lời hay tiếng tốt, thiên hạ ai ai cũng biết. Nên nối ngôi vua, làm phép cho vạn thế! Nay phế vua ra làm Hoằng Nông Vương, thái hậu thì phải trả quyền chính. Xin tôn Trần Lương Vương lên làm hoàng đế, Ứng thiên, thuận nhân, để yên bụng thiên hạ!" LÝ Nho đọc xong bài chiếu, Trác thét tả hữu vực vua xuống điện, lột tỉ thụ, bắt quỳ, ngoảnh mặt về phương Bắc, xưng thần nghe chiếu, lại bắt Hà thái hậu, cởi đồ phẩm phục ra mà đợi chiếu. Vua và Thái hậu kêu khóc, quần thần trông thấy ai cũng xót xa bi thảm. Lúc ấy ở dưới thềm có một viên quan to, tức tối thét to lên rằng: - Thằng giặc Ðổng Trác kia, ngươi dám lập mưu lừu trời dối đất, ta lấy máu cổ họng bôi vào mặt ngươi bây giờ! Nói rồi cầm cái hốt ngà xông thẳng vào đánh Ðổng Trác. Trác giận lắm, sai võ sĩ bắt lại xem ai, thì là quan thượng thư Ðinh Quản. Trác sai đem ra chém. Quản cứ luôn mồm chửi mắng Ðổng Trác cho đến lúc chết; chết rồi, thần sắc vẫn như lúc sống. Người sau có thơ than rằng: Giặc Ðổng lòng mang dạ khuyển lang Cơ đồ nhà Hán đổ tan hoang, Trong triều văn võ mồm câm cả Chỉ có Ðinh công thực giỏi giang! Trác mời Trần Lưu Vương lên điện, Quần thần làm lễ mừng xong rồi. Trác sai bắt Hà thái hậu, vua và vợ vua là Ðường thị giam ở cung Vĩnh An, khóa cửa cung, cấm quần thần, không ai được vào thăm. Thương thay! Thiếu đế mới lên ngôi tháng tư, đến tháng chín đã phải phế. Trầu Lưu Vương, nhờ Trác được lên ngôi trời, vốn tên là Hiệp, tên chữ là Bá Hòa, là con thứ vua Linh đế, tức là Hiến đế về sau. Lúc lập lên, Hiến đế mới lên chín tuổi, đổi niên hiệu năm đầu là Sơ Bình. Hán Hiến Đế Lưu Hiệp Ðổng Trác làm tướng quốc, lạy vua không phải xưng tên, vào chầu không phải bước rảo, lên điện được đeo kiếm, tác uy tác phúc, không ai bì được. Lý Nho khuyên Trác nên dùng những người có danh vọng để thu phục lòng người; nhân thể Lý Nho tiến cử tài năng Sái Ung. Trác cho mời Sái Ung, Ung không chịu đến. Trác giận sai người bảo Ung hễ không đến thì giết cả họ. Ung sợ, phải đến. Trác thấy Ung đến, mừng lắm, một tháng thăng chức ba lần, làm đến chức Thị Trung. Trác rất hậu đãi Ung. Thiếu đế, Hà thái hậu và Ðường phi bị giam ở cung Vĩnh An, đồ ăn, thức mặc, mỗi ngày một kém. Thiếu đế không lúc nào ráo nước mắt. Một hôm Thiếu đế trông thấy hai con chim én bay ở trong sân, ngâm một bài thơ rằng: Xanh xanh khóm cỏ dày Cặp én phất phơ bay. Trong veo dòng lạc thủy, Người đồng nội khen hay. Xa trông mây thăm thẳm, Cung điện cũ ta đây. Biết ai kẻ trung nghĩa, Gỡ cho oán hận này! Ðổng Trác thường sai người đến dò ý tứ; hôm ấy có kẻ bắt được bài thơ đem trình Ðổng Trác, Trác nói rằng: - Làm bài thơ oán vọng này, đem giết đi là có cớ rồi! Bèn sai Lý Nho và mười võ sĩ vào cung giết vua! Vua, thái hậu và Ðường phi đương ở trên lầu, thấy người cung nữ báo rằng có Lý Nho đến, vua sợ giật mình. Hán Thiếu Đế Lưu Biện Nho đem rượu thuốc độc dâng vua. Vua hỏi việc gì. Nho thưa: - Ngày xuân mát mẻ, Ðổng tướng quốc sai tôi đem dâng chén rượu thọ. Thái hậu bảo Lý Nho: - Có phải rượu thọ thì ngươi thử uống trước đi! Nho giận lắm, hỏi vua: - Ngươi không uống phải không? Rồi gọi tả hữu cầm con dao với tấm lụa trắng, để trước mặt vua, mà nói rằng: - Rượu thọ chẳng uống, thì phải chọn hai thứ này. Ðường phi quỳ xuống nói rằng: - Thiếp xin thay vua uống chén rượu này, xin ngài để toàn mệnh cho hai mẹ con vua. Lý Nho quát mắng: - Ngươi là đứa nào, mà dám đòi chết cho vua? Nho cầm chén rượu đưa cho Hà thái hậu và bảo rằng: - Bà phải uống trước đi! Hà thái hậu nhiếc mắng Hà Tiến là đồ vô mưu, đem giặc vào kinh đô, để có cái vạ ngày nay. Nho bức vua phải uống rượu. Vua nói: - Hãy khoan! Ðể ta cùng thái hậu từ biệt đã. Vua đau xót lắm, làm bài ca như sau: Trời đất chao, trăng sao cũng đổ Bỏ ngôi cao, ra chỗ phiên phong Bởi ai nên sự lạ lùng? Việc đời ngán ngẩm, ròngròng châu tuôn. Ðường phi cũng làm bài ca rằng: Trời nghiêng đất lại lở tan, Phận mình thê thiếp, trái oan lạ thường! Tử sinh nay đã khác đường, Một người một bóng xót thương tấm lòng! Vua và Ðường phi ca rồi, ôm nhau mà khóc. Lý Nho lại quát mắng: - Tướng quốc đứng chờ tin! Các người dùng dằng để mong ai cứu đấy? Thái hậu thét mắng: - Thằng giặc Ðổng kia! Ngươi hại mẹ con ta, rồi trời lại hại ngươi! Chúng bay tùng đảng với nhau làm điều ác, rồi chúng bay sẽ bị giết cả họ cho mà xem! Nho tức lắm, hai tay ôm lấy thái hậu ném xuống dưới lầu, giết chết; lại sai võ sĩ thắt cổ Ðường phi, rót rượu độc bắt Thiếu đế uống chết, rồi về báo Ðổng Trác. Trác sai đem táng ba mẹ con ở ngoài thành. Tự bấy giờ, Trác đêm nào cũng vào cung thông dâm với các cung nữ, rồi thì lên ngủ trên sập rồng. Thường thường Trác hay đem quân ra ngoài thành. Một bữa Trác đến Dương Thành. Bấy giờ đang tháng hai, dân mở hội hát, con trai con gái tụ họp nhau xem hội rất đông. Trác sai quân vây cả lại, rồi giết sạch, cướp đàn bà con gái và của cải chất đầy xe, treo hơn một ngàn đầu lâu ở dưới xe, nối đuôi nhau kéo về kinh đô, nói phao lên rằng đi đánh giặc thắng trận. Trác lại sai đốt đầu lâu người ở dưới cửa thành, còn đàn bà con gái và của cải thì đem chia cho quân sĩ. Quan việt kỵ hiệu úy tên là Ngũ Phu, tên chữ là Ðức Du, thấy Ðổng Trác tàn bạo quá, tức lắm, thường mặc áo giáp nhỏ vào trong áo đại trào, giắt một con dao ngắn, rình tiện dịp để giết Trác. Một hôm Trác vào chầu, Phu ra đón. Lúc Trác đến dưới gác. Phu rút dao ra đâm, không ngờ sức Trác khỏe hơn, hai tay ôm chặt được Phu, Lữ Bố trông thấy, chạy lại ôm Phu ra vật ngã xuống. Trác hỏi Phu rằng: - Ai xui ngươi làm phản? Phu trợn mắt thét mắng rằng: - Ngươi không phải là vua ta, ta không phải là tôi ngươi, sao lại gọi là phản được? Tội ngươi đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết ngươi? Ta tiếc rằng không xé nhỏ được xác ngươi ra để tạ thiên hạ! Trác tức lắm, sai Phu đem ra mổ. Phu cứ mắng chửi Ðổng Trác không buông miệng cho đến lúc chết. Ðời sau có thơ khen Ngũ Phu rằng: Ngũ Phu này cũng bậc anh hùng, Tiết liệt xem ai được thế không? Ðánh giặc, hãy còn danh tiếng để, Ngàn thu vằng vặc mảnh gương chung! Ðổng Trác từ khi ấy ra vào trường có quân sĩ mặc áo giáp đi theo hộ vệ. Viên Thiệu bấy giờ ở Bột Hải, nghe thấy Trác lộng quyền, sai người đưa mật thư cho tư đồ Vương Doãn, thư rằng: Giặc Trác dối trời bỏ chúa. Người ta đau xót đến nỗi không nỡ nói, thế mà ông cứ mặc kệ, để nó lăng ngược như con cá nhảy vượt qua đăng, làm thin như không nghe không thấy, sao gọi là người trung thần ái quốc! Thiệu nay chiêu tập binh mã cũng muốn vì nhà vua, quét sạch quân giặc, nhưng chưa dám khinh động. Ông nếu cùng lòng với tôi, xin tìm cơ hội lo tính ngay đi. Có việc gì sai khiến, tôi xin vâng mệnh. Vương Doãn được thư, nghĩ mãi không tìm được kế gì. Một hôm đang lúc chầu ở nội các, Doãn thấy ở đó có đủ mặt các cựu thần, bèn nói với các quan rằng: Hán Tư Đồ Vương Doãn - Hôm nay là sinh nhật lão phu. đến chiều xin mời các quan quá bước đến nhà lão phu xơi rượu. Các quan đều nhận lời, hẹn đến chiều sẽ đến chúc thọ. Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Rượu được vài tuần, tự nhiên Doãn che mặt hu hu khóc. Các quan giật mình hỏi rằng: - Hôm nay là sinh nhật của quan tư đồ, sao ngài lại khóc như vậy? Doãn thưa rằng: - Hôm nay có phải là sinh nhật của tôi đâu! Tôi vì có một việc muốn nói với các vị, nhưng sợ Ðổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ nói thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Ðức Cao Hoàng ngày xưa đánh nhà Tần, diệt nước Sở, bao nhiêu công phu mới nên được cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Ðổng Trác. Tôi khóc là vì thế! Các quan nghe nói cũng đều khóc cả. Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng: - Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, xem khóc có chết được thằng Ðổng Trác không? Doãn ngoảnh lại xem ai, thì là kiêu kỵ hiệu úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng: - Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, sao nhà ngươi không biết nghĩ cách báo quốc, lại còn cười à? Tháo nói: - Tôi cười, có phải cười gì đâu! Cười là cười các quan không biết nghĩ kế gì trừ được thằng Ðổng Trác. Tháo nay tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt được đầu thằng Ðổng Trác, treo ở cửa phủ để tạ thiên hạ. Doãn liền đứng dậy hỏi rằng: - Mạnh Ðức có kế gì tài thế? Tháo nói: - Tôi lâu nay sở dĩ nép mình thờ Ðổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó rất tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan tư đồ có con dao thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen nầy vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Ðổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì. Vương Doãn mừng lắm nói rằng: - Nếu Mạnh Ðức có bụng như thế, thực là may cho thiên hạ lắm! Doãn thân hành rót chén rượu mời Tào Tháo. Tháo đổ rượu , cất lời thề. Doãn bèn đem dao thất bảo đưa cho. Tháo uống rượu xong, giắt dao đứng dậy đi ra. Các quan ngồi một lát rồi cũng về cả. Hôm sau Tháo giắt dao đến tướng phủ, hỏi: - Thừa tướng ở đâu? Ðầy tớ nói: - - trong gác. Tháo vào, thấy Trác ngồi trên giường; Lữ Bố đứng hầu bên cạnh. Trác thấy Tào Tháo vào, hỏi rằng: - Sao hôm nay Mạnh Ðức đến chậm thế? Tháo nói: - Thưa, ngựa tôi gầy hóa đi chậm. Trác ngoảnh lại bảo Lữ Bố rằng: - Ta có ngựa tốt ở Tây Lương mới tiến. Phụng Tiên đi chọn một con đem lại đây cho Mạnh Ðức. Bố vâng lời đi lấy ngựa. Tháo thấy còn một mình Trác, bụng đã bảo dạ rằng: - Thằng này số nó đến lúc chết đây! Lập tức muốn rút dao đâm ngay, nhưng lại sợ Trác khoẻ chưa dám đâm vội. Trác mình mẩy to béo, xưa nay không ngồi được lâu, bèn ngả mình nằm xuống; ngoảnh mặt vào trong. Tháo lại nghĩ rằng: - Thằng nầy thực số chết! Liền rút dao ra, chực đâm. Không ngờ Trác trông vào trong cái gương, thấy bóng Tào Tháo rút dao ra ở sau lưng, vội vàng quay đầu lại hỏi: - Mạnh Ðức làm gì thế? Bấy giờ Lữ Bố vừa giắt ngựa đến ngoài gác. Tháo tay đương cầm con dao, vội quỳ xuống thưa: - Tháo tôi có con dao quý xin dâng thừa tướng. Trác cầm lấy dao xem, thấy dao dài hơn một thước, cán bằng ngọc thất bảo, lưỡi thực sắc, quả là dao quý, bèn đưa cho Lữ Bố cất đi. Tháo còn đeo vỏ dao ở lưng, liền cởi ra, đưa nốt cho Lữ Bố. Trác đem Tháo ra xem ngựa. Tháo tạ rồi xin phép đem ngựa ra cưỡi thử. Trác sai đem yên cương đóng ngựa cho Tháo. Tháo dắt ngựa ra ngoài cửa tướng phủ, lên yên, rồi ra roi đi nước đại thẳng hướng đông nam mà chạy. Tào Tháo đi khỏi. Lữ Bố nói với Trác rằng: - Vừa rồi tôi trông Tào Tháo hình như có ý muốn đâm trộm thái sư! Vì thái sư trông thấy, hắn mới nói lảng ra là đến dâng dao. Trác nói: - Ta cũng hơi nghi. Ðang nói chuyện thì Lý Nho ở đâu đến. Trác hỏi Lý Nho. Nho nói: - Tháo không có vợ con gì ở kinh, chỉ trọi một mình ở quán trọ, nay nên sai người đến gọi. Hắn đến ngay thì quả là hắn dâng dao thật, nếu thoái thác không đến, thì đích là thích khách. Lúc bấy giờ ta sẽ bắt mà hỏi. Trác liền sai bốn người coi ngục đi gọi Tào Tháo. Lính đi một hồi lầu rồi trở về trình rằng: - Tháo không về nhà trọ. Có người gặp hắn cưỡi ngựa ra cửa đông. Lính canh hỏi đi đâu thì hắn nói rằng thừa tướng sai đi có việc kíp, rồi tế ngựa đi thẳng. Nho nói: - Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa, hắn chột dạ chạy trốn, tất là có bụng hành thích. Trác nói: - Ta tin dùng hắn thế, sao hắn lại muốn hại ta? Nho thưa: - Tất nhiên có người đồng mưu. Bắt được Tào Tháo thì ra cả. Trác liền tư đi các nơi, chỗ nào cũng vẽ hình ảnh Tào Tháo ai bắt được sẽ thưởng ngàn vàng, lại phong cho làm vạn hộ hầu; ai chứa chấp sẽ bị trị tội. Trong khi ấy, Tháo cắm đầu cắm cổ chạy. Chạy đến Tiêu Quận, đi qua huyện Trung Mâu, bị quân canh cửa thành bắt được, đem nộp quan huyện. Tháo khai là khách buôn, họ tên là Hoàng Phủ. Quan huyện nhìn kỹ Tháo, nghĩ ngợi một lúc rồi nói: - Trước ta cầu quản ở Lạc Dương đã được gặp ngươi, chính ngươi là Tào Tháo, ngươi nói dối sao được? Lính đâu, hãy đem giam nó xuống trại, đến mai ta sẽ giải về kinh lãnh thưởng. Quan huyện nói thế rồi cho quân canh cửa thành cơm no rượu say rồi về. Ðến nửa đêm, quan huyện sai người thân tín xuống gọi Tào Tháo lên, bảo dẫn vào nhà sau để hỏi. Tháo vào, quan huyện hỏi rằng: - Ta nghe thừa tướng hậu đãi ngươi, sao ngươi lại tự chuốc lấy vạ vào thân? Tháo nói: - Ngươi như chim sẻ biết đâu được chí chim hồng! ựã bắt được ta thì cứ đem nộp mà lấy công, hà tất phải hỏi nhiều! Quan huyện bèn đuổi cả tả hữu đi rồi bảo Tháo rằng: - Anh đừng coi thường tôi. Tôi đây không phải là bọn tục lại đâu... Cũng vì chưa gặp được chủ đấy thôi! Tháo nói: - Ông cha ta, đời đời ăn lộc nhà Hán. Nếu ta không biết nghĩ cách báo quốc, có khác gì giống muông thú! Ta phải hạ mình thờ thằng Ðổng Trác là muốn tìm cơ hội thuận tiện giết nó. Nay việc không xong, cũng là lòng trời! Quan huyện nói: - Mạnh Ðức bây giờ định đi đâu? Tháo nói: - Ta muốn về làng, phát lời kêu gọi, vời cả chư hầu trong thiên hạ khởi binh giết Ðổng Trác. Ðó là sở nguyện của ta! Quan huyện nghe nói, bèn cởi trói cho Tháo, mời ngồi lên trên rồi thụp xuống lạy hai lạy mà nói rằng: - Ông thực là người trung nghĩa ở đời này! Tháo cũng lạy đáp lại, rồi hỏi tên họ, quan huyện nói: - Tôi họ Trần, tên Cung, tên chữ là Công Ðài; tôi có mẹ già và vợ con ở Ðông Quận. Nay cảm bụng trung nghĩa của ông, xin bỏ chức quan này, theo ông đi trốn. Tháo mừng lắm. Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người thay quần áo, mỗi người đeo một thanh kiếm; cưỡi một con ngựa, đi về quê Tào Tháo. Ði được ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một đám cây cối um tùm bảo Cung rằng: - - trong này có Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào hỏi thăm tin nhà, rồi ngủ đấy một đêm; nên không? Cung nói: - Thế thì hay lắm! Hai người, đến cửa trại xuống ngựa vào chào Lã Bá Sa, Sa hỏi Tháo rằng: - Ta nghe triều đình tầm nã anh gấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần Lưu rồi. Sao anh đến được đây? Tháo bèn đem chuyện đầu đuôi kể với Lã Bá Sa, rồi lại trỏ vào Trần Cung nói: - Nếu không gặp được quan huyện đây, thì bây giờ đã thịt nát xương tan rồi. Lã Bá Sa vái Trần Cung rồi nói: - Cháu nó không gặp được ngài, thì họ Tào còn gì! đêm nay xin ngài hãy thong thả nghỉ lới đây. Nói xong, đứng dậy vào trong nhà, một chốc trở ra, bảo Trần Cung: - Nhà tôi không có rượu ngon. để tôi sang xóm tây, mua một bình rượu ngon về uống. Nói rồi lật đật cưỡi lừa ra đi. Tháo với Cung ngồi ở nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao. Tháo bảo Trần Cung rằng: - Lã Bá Sa đối với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện nầy đáng nghi đấy! Hai người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói: - Trói lại mà giết! Tháo bảo Trần Cung: - Ðúng rồi! Nếu ta không hạ thủ trước, thì sẽ bị bắt mất! Tháo và Cung hai người cùng rút kiếm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy; giết một lúc tám người. Khi vào đến bếp, chỉ thấy một con lợn trói bốn vó, sắp đem chọc tiết. Cung giật mình nói: - Mạnh Ðức ơi! Ta đa nghi quá, giết nhầm phải người tử tế rồi. Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. đi được độ hai mươi dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về, trước yên treo hai bình rượu, tay xách một nắm rau quả. Lã Bá Sa hỏi hai người rằng: - Hiền đệ với sứ quân sao lại đi? Tháo nói: - Tôi là người có tội, không dám ở lâu. Lã Bá Sa nói: - Ta đã dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ quân với hiền đệ ngại gì một đêm, xin quay ngựa lại cho! Tháo cứ tế ngựa đi. đi được vài bước, rút kiếm ra, quay ngựa trở lại, gọi Lã Bá Sa hỏi: - Ai đi đằng sau ông đấy? Sa quay đầu lại xem. Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết. Cung cả sợ hỏi Tháo: - Lúc nãy lầm đã đành, bây giờ sao lại còn đang tay như thế? Tháo nói: - Bá Sa về nhà, thấy nhiều người chết, tất nhiên không để im, nếu đem người đi đuổi thì ta bị vạ ngay. Cung nói: - Biết rằng mình lầm rồi, lại còn cố Ý giết người nữa thực là đại bất nghĩa! Tháo nói: - Thà ta phụ người, không để người phụ ta! Cung im lặng, không nói gì nữa. Ðêm trăng sáng ròi rọi, hai người cứ phóng ngựa đi. đi được vài dặm, hai người vào nhà hàng ngủ. Sau khi cho ngựa ăn no, Tháo đi ngủ trước. Cung suy nghĩ: - Ta những tưởng Tào Tháo là người tốt, cho nên bỏ quan đi theo hắn. Ai ngờ hắn là hạng người tàn nhẫn. Nếu để hắn sống ở đời, tất có ngày hắn gây ra vạ lớn. Nghĩ vậy bèn rút kiếm toan giết Tào Tháo... Ấy thực rõ là: Mang tâm hiểm độc người đâu thế, Trác, Tháo hai tên cũng một phường! Chưa biết Tào Tháo sống chết thế nào, xem đến hồi sau sẽ tỏ
Hồi Thứ Năm - Tam Quốc Chí - La Quán Trung Tiếp Hịch Văn, Các Trấn Ứng Tào Công Phá Quan Ải, Tam Anh Chiến Lữ Bố Hồi 5 này ko đầu đủ, sẽ bổ sung sau Nhắc lại Trần Cung rút gươm, đang sắp hạ thủ Tào Tháo, bỗng lại nghĩ: - Mình vì việc nước theo hắn đến đây, nếu mình lại giết hắn thì mình cũng bất nghĩa chẳng khác gì hắn. Thôi thì bỏ quách hắn mà đi nơi khác cho xong. Nghĩ như thế, Trần Cung tra kiếm vào vỏ, lên ngựa đi thẳng về hướng Ðông quận. Tào Tháo ngủ cho đến lúc mờ sáng mới thức giấc, không thấy Trần Cung đâu, Tháo nhủ thầm: - Hừ! Trần Cung có lẽ đã nghi ta là đứa bất nghĩa nên bỏ đi rồi. Thế thì ta cũng phải đi gấp, không nên trì hoãn nơi đây nữa. Nội ngày hôm ấy, Tháo bôn ba thẳng đến Trần lưu tìm gia quyến. Khi gặp được thân phụ, Tháo liền đem tất cả mọi việc đã xảy ra tại triều kể lại cho Tào Tung nghe, và tỏ ý muốn đem hết gia sản dùng vào việc chiêu mộ nghĩa binh để mưu đồ đại sự. Tào Tung nói: - Của nhà không được bao nhiêu, sợ không đủ dùng vào việc lớn. Gần nhà ta có người họ Vệ tên Hoằng, thi đỗ Hiếu liêm, gia cư thuộc vào hàng cự phú, tánh tình lại trọng nghĩa khinh tài. Nếu được người ấy giúp cho thì mới mong được việc. Tào Tháo mừng rỡ bày tiệc sai người mời Vệ Hoằng đến nhà yến ẩm và nói: - Nay nhà Hán suy vi, Ðổng Trác chuyên quyền làm bậy, dối vua hại dân, trăm họ đều thán oán. Tôi muốn nhân cơ hội này ra sức khuông lao động đường phố xã tắc, khôi phục lại nhà Hán, nếu được ngài giúp cho một tay thì may mắn lắm. Vệ Hoằng khẳng khái nói: - Lòng tôi lâu nay đã ước vọng như thế, song chưa gặp được kẻ anh hùng. Nay Mạnh Ðức đã có chí lớn thì tôi còn tiếc gì mà không đem hết tài sản ra cống hiến. Tào Tháo mừng rỡ, liền thảo tờ hịch vặn phát khắp các đạo chiêu tập nghĩa binh, kéo cờ trắng đề hai chữ "Trung Nghĩa" rất lớn. Chưa được mấy ngày, các dũng sĩ khắp nơi đến ứng mộ đông như kiến. Trong số này đáng kể là một người ở đất Bình Dương nước Vệ, họ Nhạc tên Tiến, tự là Văn Khiêm, một người học Lý tên Ðiển, tự là Man Thành ở vùng Sơn dương, huyện Cư lộc. Tào Tháo lưu dùng làm thủ túc dưới trướng. Kế đó, có một người ở nước Bái, thuộc Tiêu quận, họ Hạ Hầu tên Ðôn, vốn là dòng dõi Hạ Hầu Anh thời xưa. Từ nhỏ, Hạ Hầu Ðôn đã tập cưỡi ngựa bắn cung, múa thương rất tài. Năm mười bốn tuổi, theo thầy học võ, gặp kẻ chửi mắng thầy, Ðôn nổi giận giết kẻ ấy, rồi trốn ra xứ ngoài. Nay nghe Tào Tháo khởi binh, Ðôn cùng người em họ là Hạ Hầu Uyên mỗi người dẫn một ngàn tráng sĩ đến giúp Tháo. Hai người này vốn là anh em họ của Tháo, vì cha Tháo là Tung vốn họ Hạ Hầu, sau làm con nuôi họ Tào, mới đổi ra họ này. Ít ngày sau lại có hai anh em Tào Nhân, Tào Hồng mỗi người dẫn hơn một ngàn quân đến giúp Tháo. Tào Nhân tự là Tử Hiếu, Tào Hồng tự là Tử Liêm, cả hai đều giỏi về nghề bắn cung cởi ngựa. Thu dụng được một số hào kiệt, Tào Tháo rất mừng, ngày ngày điều luyện quân mã ở trong thôn. Vệ Hoằng thì bỏ của cải ra sắm áo giáp, khí giới cho quân sĩ, may cờ quạt, tàng lọng. Thiên hạ nghe tin tải lương thực đến giúp vô số. Bấy giờ Viên Thiệu đang ở Bột Hải, cũng chiêu binh mãi mã, luyện tập suốt ngày. Khi nghe tin Tào Tháo cử sự, liền dẫn ba vạn quân rời Bột Hải kéo đến hội thề với quân Tào. Thấy đã đến lúc khởi sự, Tào Tháo bèn thảo một tờ hịch văn gởi đến các trấn chư hầu. Hịch rằng: Tôi Hiệu Úy tên là Tào Tháo, Tánh thẳng ngay bố cáo viên quan. Kể từ khi Ðổng Trác lăng loàn, Việc nhà nước chứa chan nhiều nỗi. Vua Thiếu đế vốn không lầm lỗi, Bỏ giết đều quyền nội trong tay. Ngoài nhân dân ngặm đắng nuốt cay, Trong triều sĩ đêm ngày ta thán. Ngũ Phu, Ðinh Nguyên, Ðinh Quảng, Ba gã đều bị nạn vong thân. Chốn cung đình uế trược phân vân, Trác tàn bạo xa gần thiết xĩ. Vâng ngày nọ thiên nhan mật chỉ, Ta hội binh nghĩa vị cần vương. Quận Trần lưu tề tận diện thương, Quét trừ đứa nhiễu nhương quân trắc. Ðồng hiệp sức ra tài phụ bọc, Như thuốc hay gặp tật mới lành. Tờ hịch văn đưa đến trấn thành, Xin liệt vị phụng hành cấp tốc Phát hiệu triệu, các trấn hưởng ứng Tào Công; Phá cửa quan, ba anh hùng đánh Lã Bố Trần Cung muốn giết Tào Tháo, nhưng lại nghĩ rằng: “Mình theo hắn cũng là vì nước, bây giờ giết hắn e mang tiếng bất nghĩa. Chi bằng bỏ hắn đi nơi khác là hơn”. Nghĩ rồi lại cài gươm, lên ngựa, không đợi trời sáng, đi thẳng về Đông Quận. Tháo dậy, không thấy Trần Cung, nghĩ bụng: - Người này thấy ta nói mấy câu, tưởng ta là đứa bất nhân, nên bỏ ta mà đi. Ta nên đi ngay, không thể ở đây lâu. Suốt đêm hôm ấy Tháo đi đến Trần Lưu, tìm thấy bố, thuật lại sự tình với bố, muốn đem gia tài bán đi để mộ nghĩa binh. Tào Tung nói: - Gia tư nhà ta không có mấy tí, cha e không đủ để kham nổi việc lớn. Ở đây có ông Vệ Hoằng, đỗ khoa hiếu liêm, là người khinh tài trọng nghĩa, nhà giàu, nếu được ông ấy giúp, thì việc lớn có thể mưu đồ được. Tháo bèn đặt một tiệc rượu, mời Vệ Hoằng đến nhà nói với Hoằng rằng: - Nay nhà Hán vô chủ, Đổng Trác lộng quyền, dối vua hại dân, thiên hạ ai ai cũng nghiến răng tức giận. Tôi muốn hết lòng giúp nước, hiềm vì sức không đủ. Ngài là người trung nghĩa, rất mong ngài giúp đỡ cho. Vệ Hoằng nói: - Tôi có lòng ấy đã lâu, giận rằng chưa gặp ai là người anh hùng. Nay Mạnh Đức đã có chí lớn, tôi xin đem hết của cải ra giúp. Tào Tháo mừng lắm, làm ngay tờ kêu gọi phát đi các đạo, rồi dựng một lá cờ trắng, đề hai chữ: “Trung nghĩa” để chiêu tập binh mã. Không được mấy ngày, thiên hạ kéo đến ứng mộ đông như nước chảy. Một bữa có người ở Dương Bình, nước Vệ, tên là Nhạc Tiến, tự là Văn Khiêm; lại có người ở Cư Lộc huyện Sơn Dương, là Lý Điển, tự là Man Thành, cùng đến xin theo. Tháo đều cho làm chân tay dưới trướng. Lại có người nữa, người ở đất Thuỳ nước Bái, tên là Hạ Hầu Đôn tự là Nguyên Nhượng, nguyên là dòng dõi Hạ Hầu Anh ngày xưa; từ khi còn nhỏ đã tập đánh gậy; đến năm mười bốn tuổi đã theo thầy học võ. Có người chửi thầy. Đôn giết người ấy rồi trốn sang nơi khác ở. Bây giờ nghe thấy Tào Tháo khởi binh, Đôn cùng với một người em họ, tên là Hạ Hầu Uyên, đem một nghìn tráng sĩ lại họp với quân Tháo. Hai người ấy vốn là anh em cùng họ với Tào Tháo, vì Tháo nguyên cũng là họ Hạ Hầu, tại bố Tháo là Tào Tung vào làm con nuôi họ Tào, nên mới đổi ra là họ Tào. Được vài ngày nữa, lại có hai người họ Tào, Tào Nhân, Tào Hồng cũng đem hơn một nghìn quân lại giúp. Tào Nhân, tự là Tử Hiếu; Tào Hồng tự là Tử Liêm, hai người cung mã đều thạo, võ nghệ tinh thông. Tháo mừng lắm, ngày ngày ở trong thôn, luyện tập quân mã. Vệ Hoằng đem hết cả gia tài, sắm sửa cờ quạt và may áo giáp. Bốn phương lại đưa lương thực đến, không biết ngần nào mà kể. Bấy giờ Viên Thiệu bắt được tờ kêu gọi của Tào Tháo, bèn tụ hội văn võ, đem ba vạn quân ở Bột Hải sang hội với quân Tào Tháo. Tháo bèn làm một bài hịch gửi đi các quận. Hịch rằng: “Anh em Tào Tháo chúng tôi kính đem nghĩa lớn, bá cáo cả nước: Tặc thần Đổng Trác, lừa đất dối trời, giết vua phá nước ô uế chốn cung cấm, tàn hại kẻ dân lành. Bạo ngược bất nhân, tội ác chồng chất! Nay vâng tờ mật chiếu của thiên tử, họp quân nghĩa binh thề quét sạch cả Hoa Hạ, tiễu trừ mọi quân hung bạo; rất mong các nơi đều dấy nghĩa binh, cùng hả lòng công phẫn để giúp vua cứu chúng. Hịch này đến nơi, lập tức thi hành!” Tờ hịch của Tào đã phát đi, chư hầu các trấn đều khởi binh hưởng ứng: 1. Viên Thuật, hậu tướng quân, thái thú Nam Dương. 2. Hàn Phức, thứ sử Ký Châu. 3. Dự Châu Thứ Sử Khổng Du 4. Duyệt Châu Thứ Sử Lưu Đại. 5. Vương Khuông, thái thú quận Hà Nội. 6. Trương Mặc, thái thú Trần Lưu. 7. Đông Quận Thái Thú Kiều Mạo, . 8. Viên Di, thái thú Sơn Dương. 9. Tế Bắc Tướng Pháo Tín (Bão Tín). 10. Bắc Hải Thái Thú Khổng Dung 11. Trương Siêu, thái thú Quảng Lăng. 12. Đào Khiêm, thứ sử Từ Châu. 13. Tây Lương Thái Thú Mã Đằng 14. Bắc Bình Thái Thú Công Tôn Toản, . 15. Trương Dương, thái thú Thượng Đảng. 16. Tôn Kiên, Ô Trình hầu, thái thú Trường Sa. 17. Viên Thiệu, Kỳ Hương hầu, thái thú Bột Hải. Quân mã các trấn, nơi nhiều nơi ít, trấn thì ba vạn, trấn thì một hai vạn, đều đem các văn quan võ tướng, kéo đến Lạc Dương. Đây nói chuyện thái thú Bắc Bình là Công Tôn Toản đem một vạn rưỡi quân, khi đi qua huyện Bình Nguyên, ở Châu Đức, trông thấy ở đằng xa, trong đám cây dâu, có một lá cờ vàng, với vài người kỵ mã đến đón. Toản trông xem ai hoá ra Lưu Bị. Toản hỏi: - Hiền đệ sao lại ở đây? Lưu Bị thưa: - Ngày trước em nhờ anh được cử làm huyện lệnh Bình Nguyên, nay nghe thấy đại quân qua đây, nên em lại hầu. Xin mời anh hãy vào thành nghỉ. Toản thấy có mấy người đi theo Lưu Bị, trỏ hỏi mấy người ấy là ai. Lưu Bị nói: - Đây là Quan Vũ, Trương Phi, hai người anh em kết nghĩa với tôi đó. Toản hỏi có phải hai người ấy là hai người cùng phá giặc Khăn Vàng hay không, Huyền Đức nói: - Phá giặc Khăn Vàng chính là công hai người này cả! Toản hỏi hiện bây giờ hai người làm chức gì? Huyền Đức thưa: - Quan Vũ làm tay mã cung; Trương Phi làm tay bộ cung. Toản than rằng: - Như thế quả là mai một anh hùng! Nay Đổng Trác làm loạn, chư hầu cùng dấy binh đến đánh. Hiền đệ bỏ quách một chức quan quèn này, cùng với tôi đi đánh giặc giúp nhà Hán, nên không? Lưu Bị vâng xin đi ngay. Trương Phi nghe thấy tên Đổng Trác, nói rằng: - Khi trước giá để tôi giết ngay thằng giặc ấy đi thì không phải rắc rối như ngày nay. Quan Vũ nói: - Bây giờ việc đã như thế, ta nên thu xếp đi ngay thôi. Lưu Bị cùng Quan, Trương liền đem vài ba người lính kỵ, theo Công Tôn Toản đi. Tào Tháo ra tiếp. Các chư hầu cũng lục tục kéo đến cả, mỗi người đóng trại một chỗ, liên tiếp nhau hơn hai trăm dặm đất. Tào Tháo giết trâu mổ ngựa, hội cả mười tám chư hầu bàn việc tiến binh. Thái thú Vương Khuông nói: - Nay làm việc đại nghĩa, nên lập minh chủ, để mọi người vâng theo hiệu lệnh, rồi sẽ tiến binh. Tháo nói: - Viên Bản Sơ nhà bốn đời làm tam công, lại có nhiều thủ hạ cũ; nguyên là con cháu danh tướng nhà Hán, nên tôn làm minh chủ. Thiệu hai ba lần từ chối, nhưng mọi người đều nói: - Phi Bản Sơ không xong! Thiệu mới vâng lời. Hôm sau lập một cái đàn ba tầng, chung quanh cắm cờ ngũ phương, tầng trên dựng một lá cờ tuyết mao trắng, một cây hoàng việt; binh phù tướng ấn đủ cả; chư hầu mời Thiệu lên đàn. Thiệu mặc áo chỉnh tề, đeo gươm đầu hàng, đốt hương lễ hai lễ, rồi đọc lời thề: “Nhà Hán chẳng may; phép vua lơi lỏng. Tặc thần Đổng Trác, thừa kế làm ác, vạ đến ngôi vua, hại ra trăm họ. Anh em chúng tôi là Thiệu… Sợ rằng xã tắc đắm mất nên phải tụ họp nghĩa binh, cùng nhau cứu nạn nước. Phàm đã là người đồng minh, ai cũng phải dốc lòng hết sức để giữ lấy đạo làm tôi không được hai lòng. Ai trái lời thề này, sẽ chết mất mạng, tiệt tự cháu con. Xin trời đất tổ tôn chứng giám cho!” Thiệu đọc xong, các tướng đều uống máu ăn thề. Mọi người nghe thấy lời nói khảng khái, ai cũng nước mắt chứa chan. Thề xong xuống đàn, Thiệu lên trướng ngồi, chư hầu hai bên theo chức tước và tuổi chia định ngôi thứ. Tháo đứng dậy mời rượu. Rượu uống được vài tuần, Tháo nói: - Nay đã lập minh chủ rồi, chúng ta đều phải vâng nghe điều khiển, cùng giúp việc nước. Không ai được cậy khoẻ cậy tài, ganh tỵ nhau. Viên Thiệu nói: - Thiệu tuy bất tài, nhưng đã được các quan cắt làm minh chủ, xin hết sức công minh; ai có công phải thưởng; ai có tội phải phạt. Nước có hình luật quân có phép tắc, nên cùng giữ gìn, đừng ai vi phạm. Các tướng đều nói: - Chúng tôi xin tuân lệnh. Thiệu lại nói: - Em ta là Viên Thuật, coi việc lương thảo, ứng cấp các trại không được thiếu thốn. Sau nữa xin chọn lấy một người làm tiên phong, đi thẳng ngay vào cửa Dĩ Thuỷ khiêu chiến; còn các tướng khác phải chia nhau giữ các chốn hiểm yếu, để làm tiếp ứng. Thái thú Trường Sa là Tôn Kiên, bước lên, xin đi tiên phong. Thiệu nói: - Phải đấy! Văn Đài hùng mạnh, có thể đảm đang chức ấy. Kiên liền dẫn quân bản bộ của mình, kéo đến cửa Dĩ Thuỷ. Quân canh cửa vội vàng phi ngựa về Lạc Dương vào phủ thừa tướng cáo cấp. Đổng Trác từ khi chuyên quyền, ngày nào cũng yến tiệc vui say. Lý Nho tiếp được tờ cáo cấp, vào bẩm với Trác. Trác thất kinh vội vàng họp các tướng sĩ bàn bạc. Lã Bố thưa rằng: - Phụ thân đừng lo, các chư hầu đóng ngoài cửa ải, con coi như cỏ rác. Con xin đem quân hổ lang, chém hết đầu chúng treo dưới cửa phủ! Trác mừng mà nói rằng: - Ta được Phụng Tiên thì cứ gối cao đầu mà ngủ không lo gì nữa. Trác nói chưa dứt lời thì sau lưng Lã Bố có một người bước ra nói to lên rằng: - Cắt tiết gà, lọ là phải dùng đến dao mổ trâu! Không phải phiền đến Lã Ôn hầu, tôi xin ra chém hết đầu chúng nó, dễ như lấy đồ ở trong túi. Trác nhìn xem: Người ấy thân cao chín thước, mình hổ lưng lang, đầu báo tay vượn, là người Quan Tây, họ Hoa, tên Hùng. Trác nghe nói thế, thích chí lắm, cho ngay làm kiêu kỵ hiệu uý đem năm vạn quân mã hộ cùng với Lý Túc, Hồ Chẩn, Triệu Xầm đi suốt ngày đêm ra cửa quan nghênh địch. Trong bọn chư hầu, có Pháo Tín là tướng ở Tế Bắc, thấy Tôn Kiên được đi làm tiên phong, sợ Kiên cướp mất công đầu, bèn mật sai em là Pháo Trung, đem năm nghìn quân mã bộ đi đường tắt, ra thẳng trước cửa quan khiêu chiến. Hoa Hùng đem năm trăm quân thiết kỵ ra ngoài cửa quan, thét lớn: “Tướng giặc chớ chạy!” Pháo Trung vội lui, bị Hoa Hùng chém chết, tướng tá bị bắt sống rất nhiều. Hoa Hùng sai người đem đầu Pháo Trung về báo tiệp[1]. Trác giao ngay cho Hùng làm đô đốc. Đây nói chuyện Tôn Kiên dẫn bốn tướng đến trước cửa Dĩ Thuỷ. Bốn tướng ấy là: 1. Trình Phổ, tên chữ Đức Mưu, người Thổ Ngân, ở Hữu Bắc Bình; Phổ cầm một ngọn xà mâu sắt. 2. Hoàng Cái, tên chữ Công Phúc, người ở Linh Lăng; Cái cầm một ngọn roi sắt. 3. Hàn Đương, tên chữ là Công Nghĩa, người Linh Chi, tỉnh Liêu Tây; Đương cầm một con dao lớn. 4. Tổ Mậu, tên chữ là Đại Vinh, người ở Phú Xuân, quận Ngô; Mậu hai tay cầm hai dao. Tôn Kiên mình mặc áo giáp bạc, đầu đội mũ chóp đỏ, cắp dao Cổ Dĩnh, cưỡi ngựa Hoa Tôn, trỏ tay lên trên cửa quan mà mắng rằng: - Thằng tiểu nhân đi lao động đường phố giặc kia! Sao không mau mau xuống hàng? Phó tướng của Hoa Hùng là Hồ Chẩn, dẫn năm nghìn quân xuống dưới cửa quan nghênh địch. Tướng Kiên là Trình Phổ vác ngọn mâu, phi ngựa ra thẳng đánh Hồ Chẩn. Đánh nhau được vài hiệp Phổ đâm trúng cổ họng Chẩn, chết ngã từ trên ngựa xuống đất. Kiên bèn thúc quân xông đến trước cửa quan. Trên cửa bắn tên, ném đá xuống như mưa. Kiên phải lui binh về đóng ở Lương Đông, sai người đến chỗ Viên Thiệu báo tiệp và đến chỗ Viên Thuật thúc giục lương thảo. Bấy giờ có người xui Thuật rằng: - Tôn Kiên là một con hổ dữ ở đất Giang Đông, nếu ta để cho nó phá được Lạc Dương, giết được Đổng Trác, thì khác gì trừ được lang mà lại gặp hổ. Nay đừng phát lương, quân hắn sẽ tan vỡ. Thuật nghe, bèn không cấp lương cho Tôn Kiên. Kiên cạn lương, trong quân rối loạn. Quân do thám biết, về cửa quan báo tin. Lý Túc bàn với Hoa Hùng rằng: - Đêm hôm nay ta đem một toán quân, đi lần con đường nhỏ xuống đánh đằng sau trại Tôn Kiên, tướng quân đánh đằng trước, chắc bắt được nó. Hùng nghe kế ấy, truyền lệnh cho quân sĩ ăn no, để đêm xuống cửa quan đánh giặc. Đêm hôm ấy, gió mát trăng trong. Quân Hùng đến trại Kiên bấy giờ độ nửa đêm, đánh trống hò reo kéo vào. Kiên vội vàng mặc áo cưỡi ngựa đi ra, vừa gặp Hoa Hùng đến. Hai bên đánh nhau được vài hiệp, mặt sau Lý Túc kéo vào sai quân sĩ phóng hoả. Quân Tôn Kiên rối loạn. Các tướng đánh lộn nhau, duy có Tổ Mậu theo Kiên phá vây chạy. Hoa Hùng từ mặt sau đuổi dồn lên. Kiên cầm cung bắn hai phát tên, Hùng đều tránh được cả, lại giương cung bắn một phát nữa, kéo quá sức gãy mất cung thước hoa phải vứt bỏ cung tế ngựa chạy. Tổ Mâu bảo Kiên rằng: - Cái mũ chóp đỏ trên đầu của chúa công, bị giặc nó nhận được. Xin cởi mũ đưa cho tôi đội. Kiên liền cởi mũ đánh đổi cho Mậu, rồi hai người chia đường chạy ra hai ngã. Quân Hoa Hùng cứ đuổi theo người đội mũ chóp đỏ. Kiên chạy sang con đường nhỏ được thoát. Tổ Mậu bị Hoa Hùng đuổi kíp lắm, bèn bỏ mũ ra, treo vào một cái cột nhà cháy dở, rồi trốn vào rừng rậm, núp một chỗ. Quân Hùng, thấp thoáng dưới bóng trăng, trông thấy cái chóp mũ đỏ ở chỗ nhà cháy cứ vây bọc bốn mặt lại, không dám đến gần, rồi sau lấy tên bắn mãi mới biết bị lừa. Tổ Mậu ở trong rừng lúc bấy giờ xông ra, hai tay múa đôi dao, chực chém Hoa Hùng, Hùng thét to một tiếng, đưa một nhát dao, Mậu chết lăn xuống dưới ngựa. Đánh nhau vừa đến tận sáng, Hùng mới kéo quân về. Trình Phổ, Hàn Đương, Hoàng Cái tìm thấy Tôn Kiên, thu nhập quân mã lại rồi đóng trại ở. Tôn Kiên thấy mất Tổ Mậu, thương xót lắm, bèn cấp tốc cho người đi báo Viên Thiệu. Thiệu thất kinh nói: - Không ngờ Tôn Văn Đài mà thua Hoa Hùng! Thiệu họp chư hầu để bàn bạc. Chư hầu đến cả, chỉ có Công Tôn Toản đến sau. Thiệu mời các tướng vào ngồi sắp hàng trong trướng rồi nói rằng: - Em Pháo Tín không theo mệnh lệnh, tự tiện tiến binh, mình bị giết, quân sĩ chết nhiều. Đến nay Tôn Văn Đài cũng bị thua, mất hết nhuệ khí, các tướng định thế nào? Chư hầu không ai nói gì cả. Thiệu ngẩng mặt lên nhìn chỉ thấy sau lưng Công Tôn Toản có ba người dị thường, đứng cười mát. Thiệu hỏi ai. Toản gọi Lưu Bị ra và nói rằng: - Người này là anh em bạn học với tôi thuở nhỏ, hiện đang làm quan lệnh Bình Nguyên. Tên là Lưu Bị. Tháo hỏi: - Có phải là Lưu Huyền Đức đánh tan giặc Khăn Vàng khi xưa không? Toản nói phải, rồi bảo Lưu Bị ra chào các quan, nhân thể đem công lao và hoàn cảnh xuất thân của Bị ra, nói chuyện để các tướng nghe. Thiệu thấy nói Lưu Bị là tôn phái nhà Hán bèn sai lấy ghế mời ngồi. Lưu Bị khiêm tốn không dám ngồi. Thiệu nói: - Ta kính không phải là kính danh tước nhà ngươi mà là kính người tôn thất nhà vua đấy thôi! Lưu Bị mới ngồi xuống ghế ở hàng cuối cùng. Quan Vũ, Trương Phi chắp tay đứng hầu đằng sau. Đương khi ấy, có quân do thám lại báo: - Hoa Hùng dẫn quân thiết kỵ xuống cửa quan, nó lấy sào cắm cái chóp mũ của Tôn thái thú, đến trước cửa trại, hò hét thách đánh. Thiệu hỏi: - Ai dám ra trận? Sau lưng Viên Thuật, có một tướng lực lưỡng, tên là Du Thiệp bước ra thưa rằng: - Tiểu tướng xin ra. Thiệu mừng sai Thiệp ra. Vừa được một lát, có người về báo: - Thiệp đánh nhau với Hoa Hùng được ba hiệp, bị Hùng chém chết rồi! Các tướng cả sợ. Thái thú Hàn Phức nói: - Tôi có thượng tướng Phan Phụng có thể chém được Hoa Hùng. Thiệu bèn sai Phan Phụng ra đánh. Phụng tay cầm một cái búa to, lên ngựa, ra được một lát, lại bị Hoa Hùng chém chết. Các tướng không người nào còn máu mặt. Thiệu nói rằng: - Tiếc thay! Danh tướng của ta là Nhan Lương, Văn Sú chưa đến. Giá thử được một trong hai người ấy ở đây thì có sợ gì Hoa Hùng. Nói chưa dứt lời một người ở dưới thềm, chạy ra, nói to lên rằng: - Tiểu tướng xin ra chém đầu Hoa Hùng, đem dâng dưới trướng. Mọi người nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mắt phượng mày tằm, mặt đỏ như gấc, tiếng giống chuông kêu. Thiệu hỏi là người nào. Toản thưa: - Em Huyền Đức tên là Quan Vũ đấy! Thiệu lại hỏi hiện làm chức gì? Toản thưa: - Vũ theo Huyền Đức làm tay bắn cung. Viên Thuật ở trong trướng thét lên: - Thằng này là thằng nào! Mày dám khinh chư hầu chúng tao không có đại tướng hay sao? Thứ mày là một thằng cung thủ, mà dám nói khoác à? Chúng đâu, đuổi cổ nó ra ngoài kia! Tào Tháo vội ngăn rằng: - Công Lộ hãy nguôi cơn giận. Người ấy đã nói mạnh thế, chắc là có dũng lực. Xin hãy thử cho ra, hễ không đánh được, ta sẽ trị tội. Viên Thiệu nói: - Sai một tay bắn cung ra đánh, giặc nó có cười cho không? Tào Tháo nói: - Người ấy diện mạo oai vệ thế kia. Hoa Hùng biết đâu là tay bắn cung. Quan Công nói: - Nếu tôi không đánh được, xin chặt đầu tôi đi! Tháo sai người rót chén rượu, đưa Quan Công uống trước khi đi. Quan Công nói: - Xin hãy để chén rượu đấy, tôi đi rồi về ngay! Nói rồi đi ra, vác long đao nhảy lên lưng ngựa. Được một lát chư hầu nghe thấy ngoài cửa quan tiếng trống đánh, tiếng người reo ầm ầm, tựa hồ như trời long đất lở, núi đổ non nghiêng, ai nấy đều thất kinh đang định sai người ra xem, thì đã thấy tiếng nhạc nhong nhong trở về, ngựa đã vào tới trung quân. Quan Công cầm đầu Hoa Hùng ném xuống đất, chén rượu của Tào Tháo đưa hãy còn nóng. Đời sau có thơ khen rằng: Uy vũ lừng danh đệ nhất công Nha môn trống trận nổi thùng thùng Chén rượu rót ra còn nóng hổi Vân Trường đã chém chết Hoa Hùng. Tào Tháo mừng lắm. Lúc ấy, Trương Phi ở sau lưng Lưu Bị mới chạy ra nói to lên rằng: - Đại ca đã chém chết được Hoa Hùng, sao không nhân thể đánh thốc vào cửa quan, bắt sống lấy Đổng Trác, còn đợi đến bao giờ? Viên Thuật giận quát mắng rằng: - Thằng láo! Đại thần của chúng tao đây còn phải khiêm tốn, thứ mày là tiểu tốt của một quan huyện, sao dám hỗn xược ở đây? Đuổi cả chúng nó ra ngoài kia. Tào Tháo nói: - Ai có công thì thưởng, cứ gì quý với tiện! Viên Thuật nói: - Có phải các ông chỉ trọng một người huyện lệnh thì tôi xin cáo thoái. Tháo nói: - Sao lại vì một lời nói, mà bỏ việc lớn? Nói thế rồi Tháo bảo Công Tôn Toản hãy mời các ông ấy về trại. Chư hầu tan, người nào về trại người ấy. Tháo mật sai người đem trâu và rượu đưa sang mừng và uý lạo ba anh em Lưu, Quan, Trương. Quân Hoa Hùng thua, chạy về cửa quan báo Lý Túc. Túc vội vàng viết giấy báo Đổng Trác, Trác họp các quan lại bàn, Lý Nho nói: - Nay ta mất thượng tướng Hoa Hùng, thế giặc to lắm. Viên Thiệu là minh chủ, có chú là Viên Ngỗi hiện đang làm thái phó, nếu chúng trong ngoài tiếp ứng cho nhau thì nguy lắm, ta nên trừ trước đi. Xin thừa tướng thân cầm đại quân, chia đường ra đánh thì mới được. Trác nghe lời Nho, gọi Lý Thôi, Quách Dĩ, lĩnh năm trăm quân đến vây nhà thái phó Viên Ngỗi, già trẻ đều giết sạch, rồi đem đầu Ngỗi ra bêu trước cửa quan. Trác khởi hai mươi vạn quân chia làm hai đường, một đường sai Lý Thôi, Quách Dĩ, đem năm vạn quân ra giữ cửa Dĩ Thuỷ, không đánh nhau vội; một đường thì Trác đem mười lăm vạn quân cùng với Lý Nho, Lã Bố, Phàn Trù, Trương Tế giữ cửa quan Hổ Lao, Trác sai Lã Bố lĩnh ba mươi vạn quân ra trước quan, đóng một trại lớn; Trác thì đóng đồn trên cửa quan. Quân lưu tinh dò được tình hình, kíp vào trại Viên Thiệu báo. Thiệu họp các tướng lại bàn. Tháo nói: - Đổng Trác đóng quân ở Hổ Lao, là cốt chẹn đường chư hầu. Nay nên chia quân ra, một nửa ra đó nghênh địch. Thiệu bèn cắt Vương Khuông, Kiều Mạo, Pháo Tín, Viên Dị, Khổng Dung, Trương Dương, Đào Khiêm, Công Tôn Toản cả thảy tám vị chư hầu đến cửa Hổ Lao đón địch. Tào Tháo thì dẫn quân đi lại tiếp ứng. Chư hầu đều khởi binh đến, thái thú Vương Khuông đi trước. Lã Bố đem năm nghìn quân thiết kỵ lại. Vương Khuông đem quân mã, bày thành thế trận, cưỡi ngựa đứng dưới cửa cờ, trông thấy Lã Bố ra trận mình mặc áo gấm đỏ trăm hoa, ngoài khoác áo giáo thú diện liên hoàn; dưới thắt dây lưng sư man, lưng đeo một bộ cung tên; tay cầm một ngọn hoạ kích, cưỡi ngựa xích thố. Khuông ngoảnh lại hỏi ai dám ra đánh? Đằng sau có một tướng vác ngọn giáo, tế ngựa chạy ra; đó là một danh tướng ở Hà Nội, tên là Phương Duyệt. Hai ngựa giao nhau, chưa được năm hiệp, Duyệt bị Lã Bố đánh một ngọn kích ngã xuống ngựa. Bố xông thẳng vào. Quân Vương Khuông thua to, chạy tán loạn ra bốn mặt. Bố xông xáo vào đám quân Khuông, như chạy vào nơi không người. May sao Kiều Mạo, Viên Di đem hai cánh quân vừa đến, cứu được Vương Khuông, quân Bố mới lui. Chư hầu ba xứ mỗi xứ mất ít nhiều người ngựa, lui ba mươi dặm, đóng trại. Quân năm xứ đi sau cũng dần dần kéo cả đến, họp lại bàn nhau, đều cho Lã Bố là anh hùng, không ai địch nổi. Khi đang lo nghĩ thì có quân vào báo rằng Lã Bố đến khiêu chiến. Chư hầu tám xứ đều lên ngựa kéo ra cả, chia quân ra làm tám đội ở trên gò cao; trông ở đằng xa thấy một toán quân mã, cờ bay phấp phới; Lã Bố xông đến. Bộ tướng của Trương Dương, thái thú Thượng Đẳng tên là Mục Thuận vác ngọn giáo tế ngựa ra đánh, bị Bố đâm một ngọn kích chết lăn từ trên ngựa xuống đất. Thấy thế, một bộ tướng của Khổng Dung, tên là Vũ An Quốc, vác một cái dùi sắt, tế ngựa chạy ra, Lã Bố đến, đánh nhau được mười hiệp, Bố đưa một ngọn kích đánh gãy cánh tay An Quốc. An Quốc vứt dùi sắt chạy. Chư hầu tám xứ cùng đổ ra mới cứu được An Quốc. Lã Bố lui quân trở về, các chư hầu lại về trại bàn với nhau. Tào Tháo nói: - Lã Bố anh hùng, không địch được. Nay nên họp cả mười tám nước chư hầu để bàn nhau tìm kế gì đánh được nó. Hễ bắt sống được Lã Bố, thì giết Đổng Trác chẳng khó gì nữa! Trong khi đang bàn bạc, Lã Bố lại kéo quân đến thách đánh. Công Tôn Toản vác ngọn giáo nhảy ra đánh Lã Bố, mới được vài hiệp, Toản thua chạy. Lã Bố thúc ngựa xích thố sấn lại đuổi, ngựa này chạy nhanh như bay. Bố gần đuổi kịp Toản thì ở bên rìa đường, bỗng có một tướng, mắt tròn trợn ngược, râu hùm vểnh lên vác một ngọn bát xà mâu, tế ngựa đến thét lên rằng: - Thằng ở ba họ kia đừng chạy nữa! Có Trương Phi người đất Yên đây! Lã Bố thấy thế bỏ Toản, đánh nhau với Trương Phi. Trương Phi hăng hái cố đánh Lã Bố. Hai người đánh nhau được hơn năm mươi hiệp chưa rõ bên nào thua bên nào được. Quan Công đứng ngoài thấy thế cũng múa thanh long đao nặng tám mươi hai cân đến cùng đánh. Ba con ngựa đứng dàn kiểu chữ đinh, đánh nhau được ba mươi hiệp nữa hai người cũng vẫn không hạ được Lã Bố. Lưu Bị bấy giờ cũng cầm đôi gươm tế ngựa chạy vào đánh giúp. Ba người vây tròn lấy Lã Bố đánh chẳng khác gì quân đèn cù. Binh mã tám xứ ngây mặt ra trông. Lã Bố cố sức chống đỡ không nổi, bèn nhắm giữa mặt Lưu Bị phóng vờ một ngọn kích. Lưu Bị tránh được. Lã Bố mở góc của trận, cắp đao ngược kích, phi ngựa chạy về. Ba người thúc ngựa sấn vào; quân mã tám xứ đều reo ầm lên, xô cả ra đánh. Quan Lã Bố chạy về trên cửa Hổ Lao. Ba người theo sau đuổi mãi. Cổ nhân, có người làm bài ca kể chuyện Lưu Bị, Quan, Trương đánh Lã Bố rằng: Vận Hán đến Hoàn Linh suy thế, Vầng thái dương đã xế về đoài. Gian thần Đổng Trác ra oai, Phế vua; Lưu Hiệp rụng rời thất kinh. Hịch Tào Tháo truyền nhanh các trấn, Chư hầu cùng nổi giận dấy binh. Bản Sơ thủ lãnh đồng minh, Thề nhau giúp Hán yên bình non sông. Kia Lã Bố anh hùng ai sánh, Khắp mọi người dũng mãnh nào bằng? Áo ngoài giáp bạc sáng choang, Đầu trên nhấp nhoáng mũ vàng ngù bông. Mặt thú dữ trập trùng bảo đái, Cánh phượng bay phấp phới cấm bào. Vó câu gió chạy ào ào, Kích hoa sáng quắc soi vào nước trong. Ra cửa ải tranh hùng ai dám? Các chư hầu thất đảm kinh hồn. Trương Phi nhảy vọt ra liền, Xà mâu một ngọn trận tiền gương uy; Vểnh râu hổ gầm ghì thét mắng, Xoe mắt tròn lóng lánh lân la. Đánh nhau mê mải chưa tha, Vân Trường nóng tiết nhảy ra xông vào. Nhoáng màu tuyết, ngọn đao sắc nước, Áo chiến bào quắc thước màu hoa. Quỷ thần thét, tiếng ngựa ra, Căm căm khí tức, mắt hoa đỏ ngầu. Huyền Đức cũng giục mau ngựa nhảy. Múa đôi gươm vùng vẫy ra oai. Ba người vây bọc vòng ngoài; Kẻ đâm người đỡ liền tay không rời. Tiếng quát háo lay trời động đất, Sát khí bay cao ngất mây xanh, Ôn hầu thế núng nhìn quanh, Quay đầu ngựa chạy về nhau núi nhà, Cán hoạ kích đảo đà tếch trước, Cờ ngũ hành xơ xác bướm bay. Giật cương chạy rẽ đường mây, Hổ Lao trại ấy tọt ngay vào thành. Ba người đuổi Lã Bố đến dưới cửa quan, trông thấy trên cửa quan có tàn lọng che, gió bay phấp phới, Trương Phi kêu to rằng: - Hẳn Đổng Trác ở đây rồi! Đuổi Lã Bố làm gì nữa, không bằng bắt thằng Đổng Trác mới thực là đào cây nhổ đến tận rễ. Vừa nói vừa tế ngựa lên cửa quan để bắt Đổng Trác. Thế mới thực là: Bắt giặc nên tìm tên đầu sỏ Kỳ công lại phải đợi người tài. Chưa biết rồi chuyện ra làm sao, xem đến hồi sau mới rõ.
Các bản TQC trên mạng đều rút gọn và đầy thiếu sót! Hy vọng anh em thay nhau mỗi người gõ trọn vẹn 1 hồi, MOD sẽ edit bài viết và chèn thêm bản đồ hình ảnh event! Mong mọi người tranh thủ đóng góp, xem như ghi nhận dấu ấn với diễn đàn. Mong nhận hồi âm của các anh em. Ai bắt đấu bằng hồi tiếp theo nào!
Tại hạ bắt đầu bằng cái link này: http://vi.wikisource.org/wiki/Tam_quốc_diễn_nghĩa Có đủ cả bộ Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, người dịch: Phan Kế Bính, dù tại hạ chưa kiểm chứng nhiều.
Ý tưởng này rất hay, đọc truyện mà có hình minh họa thì hấp dẫn hơn hẳn, lại dễ nhớ nhân vật hơn nữa, chơi game chắc chắn cũng sẽ hứng thú hơn. Em xin góp sức cùng chủ topic, hy vọng mỗi ngày làm được 2-3 chương . Hôm nay làm 1 chương đã rồi đi ngủ, bản đồ thì chắc phải hoàn thành hết rồi mới thêm sau vì không có nguồn sẵn, phải print screen trong game vậy. Edit: Góp ý chủ topic chút là em thấy hình minh họa và chú thích nên để trong tag
@ Nhà Điên: tìm cái nguồn nào mà lời văn đầy đủ và trau chuốt để post nhé. Đã mất công làm thì làm tốt luôn. Thanks!
Tam Quốc diễn nghĩa - La Quán Trung Hồi 7 Viên Thiệu qua cầu đuổi Công Tôn Toản Tôn Kiên vượt nước đánh Lưu Cảnh Thăng [SPOIL] Nhắc lại Tôn Kiên bị Lưu Biểu vây lại, đã tưởng chết, may đâu lại có Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương, ba tướng cố sức cứu được thoát nạn, nhưng quân sĩ mất già nửa. Tôn Kiên kéo quân về Giang Đông, từ đấy Tôn Kiên và Lưu Biểu kết thù nhau. Đây lại nói chuyện Viên Thiệu kéo quân về đóng ở Hà Nội, lương thảo túng thiếu. Quan mục Ký Châu là Thứ sử Hàn Phức thấy vậy sai người đưa lương đến giúp để nuôi quân. Mưu sĩ của Viên Thiệu tên là Phùng Kỷ bảo với Thiệu rằng: - Đại trượng phu tung hoành thiên hạ, cần gì phải đợi người khác giúp lương. Ký Châu là đất rộng, lương giàu. Tướng quân sao không mưu lấy quách đi có được không? Viên Thiệu nói: - Ta cũng muốn đoạt lắm, nhưng chưa nghĩ được kế gì!. Phùng Kỷ nói: - Nay tướng quân lên mặt bắc sai người đưa thư cho Công Tôn Toản, bảo y tiến binh lấy Ký Châu, tướng quân hẹn với Toản rằng hai bên cùng đánh. Công Tôn Toản tất thể nào cũng tiến binh. Hàn Phức là đứa vô mưu, tất sẽ mời tướng quân đến coi giúp việc châu. Tướng quân thừa dịp ấy mà lấy Ký Châu thì việc dễ như trở bàn tay. Viên Thiệu mừng lắm, viết ngay thư cho Công Tôn Toản. Công Tôn Toản xem thấy thư Viên Thiệu bàn cùng đánh lấy Ký Châu rồi chia đôi đất, lòng mừng lắm. Ngay hôm ấy liền khởi binh. Viên Thiệu lại sai người mật báo cho Hàn Phức biết. Hàn Phức bèn gọi hai mưu sĩ tên là Tuân Thầm và Tân Bình để bàn. Tuân Thầm nói: - Công Tôn Toản gồm quân nước Yên, nước Đại đông lắm, thế mình không đương nổi. Vả Toản có Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi giúp đỡ, ta địch sao được? Nay Viên Thiệu trí dũng hơn người, thủ hạ nhiều, danh tướng lắm, tướng quân nên mời Viên Thiệu lại để cùng coi việc châu. Tôi chắc Viên Thiệu sẽ hậu đãi, tướng quân còn sợ gì Công Tôn Toản nữa. Hàn Phức liền sai biệt giá Quan Thuần sang mời Viên Thiệu. Quan Trưởng sử là Cảnh Vũ can rằng: - Viên Thiệu bây giờ đương thân cô, thế cùng, chỉ trông nhờ vào ta, ví như đứa trẻ con ở trên bàn tay không cho bú mớm thì chết ngay, nay lại đem châu quận của mình mà trao cho nó, thì có khác gì đưa con cọp vào giữa đàn dê! Hàn Phức nói: - Ta cũng là đầy tớ cũ họ Viên, tài ta lại kém Thiệu. Người ngày xưa từng chọn người hiền để nhường ngôi, sao các ngươi bây giờ hay ghen ghét thế? Cảnh Vũ than rằng: - Ký Châu hỏng mất! Vì việc đó có hơn ba mươi người bỏ chức mà đi. Cảnh Vũ với Quan Thuần, hai người rủ nhau ra phục ở ngoài cửa thành để đợi Viên Thiệu đến. Sau vài hôm, Viên Thiệu kéo quân lại. Cảnh Vũ, Quan Thuần rút dao, nhảy ra chực đâm Viên Thiệu. Tướng Thiệu là Nhan Lương chém chết Cảnh Vũ; Văn Sú chém chết Quan Thuần. Viên Thiệu vào Ký Châu, phong cho Hàn Phức làm Phấn Uy Tướng quân, rồi cho Điền Phong, Thư Thụ, Hứa Du và Phùng Kỷ chia tay nhau ra giữ việc trong châu, đoạt hết cả quyền hành của Hàn Phức. Hàn Phức bấy giờ hối cũng không kịp nữa, bực mình bỏ cả nhà cửa vợ con, sang ở với Thái thú Trần Lưu là Trương Mạc. Công Tôn Toản thấy Thiệu được Ký Châu, liền sai em là Công Tôn Việt đến thăm và giục Viên Thiệu chia đất theo như lời đã ước với nhau. Viên Thiệu bảo Công Tôn Việt: - Về mời anh ngươi lại đây, ta sẽ nói chuyện. Công Tôn Việt cáo từ ra về, đi chưa được năm mươi dặm, bỗng gặp một cánh quân mã ở cạnh đường xông ra, nói rằng: - Chúng ta là gia tướng của Đổng thừa tướng đây! Rồi tên bắn ra tua tủa. Công Tôn Việt bị trúng thương chết. Thủ hạ trốn được về báo với Công Tôn Toản. Toản tức lắm, nói rằng: - Viên Thiệu nhủ ta đem binh đến đánh Hàn Phức, chẳng qua là dụng mưu lừa dối ta. Nay lại giả trá là quân Đổng Trác để giết em ta, thù này thế nào ta cũng phải báo! Nói rồi đem hết cả quân bản bộ kéo sang đánh Ký Châu. Viên Thiệu thấy Công Tôn Toản kéo quân đến cũng dẫn quân ra. Hai bên gặp nhau ở trên sông Bản Hà. Viên Thiệu dàn quân bên đông cầu, Toản dàn quân bên phía tây cầu. Công Tôn Toản cưỡi ngựa đứng trên cầu, mắng to lên rằng: - Thằng bội nghĩa kia! Sao mày dám lừa tao? Viên Thiệu cũng thúc ngựa đến cạnh cầu, trỏ tay vào Toản nói rằng: - Hàn Phức hèn hạ, tự xin nhường Ký Châu cho tao, có việc gì đến mày? Công Tôn Toản lại nói: - Ngày trước tao tưởng mày là đứa có nhân nghĩa, bầu mày làm minh chủ. Bây giờ, xem những điều mày làm có khác gì chó má. Mày còn mặt mũi nào đứng trên cõi đời nữa? Viên Thiệu giận lắm, thét rằng: - Ai vào lôi cổ nó ra đây cho ta? Viên Thiệu nói chưa dứt lời thì Văn Sú vác giáo, thúc ngựa xông thẳng lên cầu. Công Tôn Toản đánh nhau với Văn Sú chưa được mười hiệp, đuối sức thua chạy. Văn Sú giục ngựa đuổi theo. Công Tôn Toản chạy vào trong trận. Văn Sú cũng phi ngựa xông vào giữa đám quân. Thủ hạ Công Tôn Toản có bốn tướng giỏi, kéo ùa cả ra đánh với Văn Sú, Văn Sú đâm trúng một người ngã ngựa, còn ba người kia đều bỏ chạy. Văn Sú đuổi Toản chạy ra đằng sau trận, Toản nhìn vào một cái hang núi toan chạy trốn vào đó. Sú thúc ngựa quát lên rằng: - Mau xuống ngựa hàng đi! Công Tôn Toản cung tên rơi mất cả, mũ lăn xuống đất, đầu tóc tả tơi, phi ngựa chạy quanh rặng núi. Chẳng may ngựa vấp quỵ hai chân trước. Toản cũng ngã quay xuống dưới bờ núi. Văn Sú cầm ngọn giáo, xô lại để đâm. Bỗng đâu bên cạnh bờ có một tướng trẻ cầm ngọn giáo phi ngựa vọt ra đâm Văn Sú. Công Tôn Toản lẻn trèo lên sườn núi, trông thấy tướng ấy mình cao tám thước, mày rậm, mắt to, mặt rộng, má bầu, uy phong lẫm liệt. Hai người đánh nhau năm sáu mươi hiệp, chưa rõ bên nào thua bên nào được. Quân cứu của Toản kéo đến. Văn Sú quay ngựa lui về, tướng trẻ tuổi ấy cũng không đuổi theo. Công Tôn Toản vội vàng xuống ngựa hỏi tên họ, tướng ấy vái một vái thưa rằng: - Tôi là người ở Chân Định, xứ Thường Sơn, họ Triệu tên Vân, tên chữ là Tử Long. Nguyên tôi là người ở địa hạt Viên Thiệu, nhân thấy Thiệu không có bụng trung vua cứu dân, nên tôi bỏ xứ ấy đến đây theo ngài. Không ngờ lại gặp ngài ở chỗ này! Công Tôn Toản mừng lắm mời Triệu Vân về trại, sửa sang lại áo giáp và đồ khí giới. Hôm sau, Công Tôn Toản chia quân mã ra làm hai cánh, ngựa có hơn năm nghìn con, quá nửa toàn ngựa trắng. Vì khi xưa Công Tôn Toản đánh nhau với người rợ Khương, chọn tuyển ngựa trắng làm tiên phong, gọi là Bạch Mã tướng quân. Người rợ Khương trông thấy bóng ngựa trắng là chạy. Từ đó trong quân của Cong Tôn Toản có rất nhiều ngựa trắng. Viên Thiệu sai Nhan Lương, Văn Sú làm tiên phong, mỗi người đem một nghìn quân cung nỏ cũng chia làm hai cánh tả hữu: Truyền lệnh cho cánh quân tả bắn hữu quân của Toản, cánh quân hữu bắn tả quân của Toản. Lại sai Cúc Nghĩa đem tám trăm tay cung, một vạn rưỡi quân bộ dàn ở giữa trận. Viên Thiệu đem quân mã, bộ vài vạn, đi sau để tiếp ứng. Công Tôn Toản mới được Triệu Tử Long, chưa biết bụng dạ thế nào, sai lĩnh riêng một toán quân đi mặt sau, chức tiên phong giao cho đại tướng Nghiêm Cương. Công Tôn Toản tự lĩnh cánh trung quân, cưỡi ngựa đứng trên cầu, bên mình dựng một lá cờ đỏ thêu một chữ Suý bằng kim tuyến. Từ giờ thìn, đánh trống đến mãi giờ tỵ không thấy Viên Thiệu tiến binh. Cúc Nghĩa sai những tay cung phục cả ở dưới mộc, hẹn đến lúc nào thấy có một tiếng súng lệnh mới được bắn tên ra. Nghiêm Cương đánh trống, reo hò tiến lên, xông thẳng vào đánh Cúc Nghĩa. Quân Cúc Nghĩa thấy Nghiêm Cương dẫn quân xông vào cũng mặc, cứ để cho vào. Khi Nghiêm Cương đến gần, sát quân ủa Cúc Nghĩa, mới có một tiếng pháo vang lên, tám trăm cung nỏ cùng bắn ra một lúc. Nghiêm Cương hoảng sợ định chạy trở về, Cúc Nghĩa đã tế ngựa đến chém Nghiêm Cương chết lăn quay xuống chân ngựa. Quân Toản thua. Hai bên tả hữu đổ ra để cứu, lại bị Nhan Lương, Văn Sú dẫn quân cung nỏ bắn sang, nên không thể nào cứu lại được nữa. Quân Thiệu bấy giờ mới tiến lên, đến mãi cạnh cầu. Khúc Nghĩa phi ngựa lên trước, chém ngay tướng cầm cờ của Toản, chặt ngọn cờ gãy đôi rơi xuống đất. Toản thấy cờ đổ, vội vàng quay ngựa xuống cầu chạy. Khúc Nghĩa đem binh xông vào đến tận hậu binh của Toản; gặp Triệu Tử Long. Tử Long cầm ngọn giáo xông vào đánh Khúc Nghĩa, đánh có vài ba hiệp, đâm Khúc Nghĩa chết ngay. Tử Long cưỡi một con ngựa, phi vào đám quân Viên Thiệu, xông xáo như đi vào chỗ không người. Toản kéo quân đánh lại. Quân Thiệu lại thua. Giữa lúc Khúc Nghĩa chém được tướng cầm cờ của Toản, Viên Thiệu sai quân thám mã ra xem, quân thám về báo rằng Nghĩa chém được tướng, chặt được cờ, đương đuổi Toản. Vì thế Thiệu không chuẩn bị gì cả, cùng với Điền Phong dẫn vài trăm quân vác kích, vài mươi tay cung, cưỡi ngựa ra xem, cười ha hả, cho Toản là hạng hèn hạ chẳng làm trò gì được. Trong khi Thiệu đang cười, nói nói, bỗng thấy Triệu Tử Long xông đến tận trước mặt. Những tay cung vội vàng bắn, Triệu Tử Long đâm luôn mấy đứa, chúng khiếp sợ bỏ chạy cả. Đằng sau thì quân Toản cuồn cuộn tiến lên vây Thiệu lại. Điền Phong vội vàng bảo Thiệu rằng: - Chúa công nên lánh vào trong bức tường kia. Thiệu liền cầm mũ đầu mâu quăng xuống đất quát to lên rằng: - Đại trượng phu muốn chết ở chiến trường, chứ lại núp vào tường cầu sống làm gì! Quân Viên Thiệu liền cố sức liều chết mà chống cự, Triệu Vân không thể xông vào được nữa. Lúc ấy đại quân của Thiệu vừa kéo đến kịp; Triệu Vân bảo vệ Công Tôn Toản, đánh ra được khỏi vòng vây. Lúc về, đến đầu cầu bên này, quân Thiệu lại tiến lên, sang qua cầu. Quân Toản sa xuống sông chết rất nhiều. Viên Thiệu xông thẳng lên trước, chưa được năm dặm, đã nghe thấy mé sau núi có tiếng hò reo, một toán quân mã kéo ra. Ba tướng đi trước là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi. Ba anh em đang ở Bình Nguyên nghe thấy Toản đánh nhau với Thiệu, đem quân đánh giúp. Ba người vừa đến nơi gặp Thiệu đương đuổi Toản liền tế ngựa chạy lại cứu. Thiệu trông thấy ba người hồn vía lên mây cả, con dao quý đang cầm trong tay rơi ngay xuống đất, chỉ vừa kịp thúc ngựa quay đầu chạy. Nhờ quân mã cố sức cứu, Thiệu mới về được khỏi cầu. Công Tôn Toản cũng thu quân về trại, Lưu, Quan, Trương vào chào, cùng nhau hỏi han trò chuyện. Toản nói: - Giá Huyền Đức không đến cứu ta, ta còn bị khốn đốn nhiều. Rồi Toản bảo ba người vào gặp Triệu Tử Long. Lưu Bị mới thấy Triệu Vân, đã có bụng yêu mến ngay, không muốn rời xa nữa. Viên Thiệu thua một trận, bèn giữ trại, không ra đánh. Hai bên cầm cự nhau hơn một tháng. Có người về Trường An bảo với Đổng Trác. Lý Nho nói với Trác rằng: - Viên Thiệu với Công Tôn Toản đều là hào kiệt bây giờ; nay hiện đương đánh nhau ở trên sông Bàn Hà. Thái sư nên giả chiếu của vua sai người ra giải hoà. Hai người ấy hoà thuận với nhau, tất cảm ơn và quy phục thái sư. Trác nghe Lý Nho. Ngay hôm sau, sai thái phó là Mã Nhật Đê và thái bộc là Triệu Kỳ, đem chiếu mệnh đi dụ hai người. Hai sứ đi đến Hà Bắc, Viên Thiệu ra ngoài một trăm dặm đón rước, lạy hai lạy, vâng lệnh chiếu dụ. Hôm sau Mã Nhật Đê và Triệu Kỳ lại đến dinh Công Tôn Toản để dụ. Toản cũng vâng chiếu, liền sai sứ đưa thư sang cho Thiệu. Hai bên giảng hoà, Mã, Triệu về Trường An. Toản lập tức rút quân về, rồi tiến cử Huyền Đức làm tướng ở Bình Nguyên. Lưu Bị khi từ giã Triệu Tử Long, hai người cầm tay nhau rỏ nước mắt khóc, ngần ngừ không muốn xa nhau. Vân than rằng: - Trước kia tôi cũng nghĩ Công Tôn Toản là người anh hùng. Nay xem việc làm, thì bất quá cũng là một tuồng Viên Thiệu mà thôi! Lưu Bị nói: - Thôi, xin ông hãy chịu khó náu thân ở đây. Hai chúng ta thế nào cũng có ngày gặp nhau!… Hai người buông nhau ra, nước mắt chứa chan. Lại nói đến Viên Thuật ở Nam Dương nghe tin Viên Thiệu mới được Ký Châu, sai sứ lại xin một nghìn ngựa, Thiệu không cho. Thuật giận. Từ đó hai anh em ghét nhau, Thuật lại sai sứ đến Kinh Châu hỏi vay Lưu Biểu hai vạn tạ lương. Biểu cũng không cho vay. Thuật cũng giận, sai người đưa mật đưa thư cho Tôn Kiên xui Kiên đánh Lưu Biểu. Thư rằng: “Trước kia Lưu Biểu chẹn đường ông, là do mưu kế của anh tôi Bản Sơ cả. Nay tôi lại thấy anh tôi bàn riêng với Lưu Biểu muốn nuốt cả Giang Đông. Ông nên chong chóng khởi binh đánh Lưu Biểu đi. Tôi thì xin đánh Bản Sơ hộ ông. Có thế thì hai mối thù mới báo được. Ông lấy Kinh Châu; tôi lấy Ký Châu. Ông đừng để mất cơ hội”. Kiên được thư nói rằng: - Lưu Biểu chẹn trước đường ta, nay không nhân dịp nào báo thù, còn đợi đến bao giờ? Bèn họp các tướng Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương để bàn. Phổ nói: - Viên Thuật là người trí khá lắm, không nên tin vội. Kiên nói: - Ta muốn đánh báo thù, cần gì Viên Thuật giúp Rồi sai Hoàng Cái đến bên sông trước, sắp sẵn chiến thuyền và chở nhiều quân lương khí giới, thuyền lớn thì chứa ngựa chiến để một ngày nào đó sẽ cất quân. Quân do thám dò biết tình hình, về báo với Lưu Biểu, Biểu sợ lắm, kíp họp các tướng lại bàn. Khoái Lương nói: - Lo gì việc này, Chúa công nên sai Hoàng Tổ lĩnh quân ở Giang Hạ đi trước, làm tiền khu. Chúa công đem quân Kinh Tương đi sau này làm hậu viện. Tôn Kiên còn phải qua nhiều sông mới đến đây, còn dụng võ làm sao được? Biểu cho là phải, sai Hoàng Tổ thu xếp sẵn sàng, rồi đưa đại quân ra nghênh địch. Lại nói đến Tôn Kiên có bốn con, đều là con vợ cả là Ngô phu nhân. Con cả tên là Sách, tự là Bá Phù; con thứ hai tên là Quyền, tự là Trọng Mưu; con thứ ba tên là Dực, tự là Thúc Bật; con thứ tư tên là Khuông, tự là Quý Tá. Vợ thứ hai Kiên, là em ruột vợ cả, đẻ được hai con, một trai một gái. Con trai tên là Lang, tự là Tảo An, con gái tên là Nhân. Kiên lại nuôi một người con họ Du làm con nuôi, tên là Thiều, tự là Công Lễ. Kiên có một người em, tên là Tĩnh, tự là Ấu Đài. Khi Kiên sắp đi, Tôn Tĩnh dắt cả các con, sắp hàng ở trước ngựa, lạy mà can rằng: - Nay Đổng Trác chuyên quyền, thiên tử hèn yếu, bốn bể loạn lạc, mỗi người giữ một phương. Giang Đông ta vừa mới yên được ít lâu, nay chỉ vì một chút giận nhỏ, mà anh mang đại quân đi, tôi tưởng không nên. Xin anh nghĩ lại. Kiên nói: - Chú đừng nói nhiều. Ý tôi muốn tung hoành trong thiên hạ, nay có thù lẽ nào lại không báo? Con cả là Tôn Sách nói: - Nếu cha đã quyết, con xin đi theo! Kiên cho đi, rồi hai bố con kéo quân đến Phàn Thành. Hoàng Tổ phục cung nỏ ở bên sông, thấy thuyền Kiên gần đến bờ, bắn tên ra như mưa. Kiên truyền quân sĩ không ai được bắn vội, hãy cứ nấp ở trong thuyền, chở đi chở lại dụ địch luôn ba hôm, thuyền cứ lượn vào bờ đến vài mươi lượt. Quân Hoàng Tổ thi nhau bắn ròng rã, đến hết sạch tên. Đến hôm thứ tư, Kiên sai quân ra rút những tên giắt đầy cả hai mạn thuyền, ước được vài mươi vạn rồi nhân lúc thuận gió, bắn cả vào bờ. Quân Hoàng Tổ chống đỡ không nổi, phải bỏ chạy. Kiên kéo quân lên bờ, Trình Phổ, Hoàng Cái chia binh ra làm hai đường, đến đánh trại Hoàng Tổ. Đằng sau thì Hàn Đương kéo quân tiến lên. Ba mặt đánh dồn lại, quân Hoàng Tổ thua, bỏ Phàn Thành chạy về Đặng Thành. Kiên sai Hoàng Cái ở lại giữ lấy thuyền bè còn mình thì đem quân đuổi theo. Hoàng Tổ đem quân nghênh địch, bầy trận ở giữa cánh đồng, Kiên cũng dàn thành thế trận, rồi cưỡi ngựa ra đứng dưới cửa cờ. Tôn Sách mặc áo giáp gọn ghẽ, cầm mác, cưỡi ngựa đứng bên cạnh bố. Hoàng Tổ dẫn hai tướng cưỡi ngựa ra, một tướng là Trương Hổ ở Giang Hạ, một tướng là Trần Sinh ở Tương Dương. Hoàng Tổ trỏ roi mắng: - Đàn chuột ở Giang Đông kia! Sao dám xâm phạm vào đất của tôn thân nhà Hán? Nói rồi sai Trương Hổ ra đánh. Bên quân của Kiên, Hàn Đương nhảy ra nghênh địch. Hai bên đánh nhau chưa được ba mươi hiệp, Trần Sinh thấy Trương Hổ đuối sức cũng phi ngựa ra đánh giúp. Tôn Sách trông thấy, cắp chặt ngọn mác ở nách, giương cung đặt tên bắn tin ngay vào giữa mặt Trần Sinh. Sau tiếng dây cung bật, Trần Sinh ngã ngựa ngay. Trương Hổ thấy thế, giật nảy mình, bị ngay Hàn Đương giơ dao chém một nhát. Hổ đỡ không kịp bị Đương chém mất nửa đầu. Trình Phổ xông ngựa vào trận để bắt Hoàng Tổ. Tổ bỏ cả mũ lẫn ngựa, chạy vào đám bộ quân để lẩn trốn. Tôn Kiên đánh tràn cánh bại quân, đuổi thẳng mãi đến sông Hán Thuỷ, sai Hoàng Cái đem thuyền tiến lên đóng ở Hán Giang. Hoàng Tổ thu quân vào ra mắt Lưu Biểu, nói rằng: - Thế Tôn Kiên to quá, không sao địch được! Biểu vội gọi Khoái Lương ra bàn. Lương nói: - Nay ta mới thua, binh lính ngã lòng cả. Bây giờ chỉ nên thành cao hào sâu, giữ cho vững vàng, rồi mật sai người sang cầu cứu Viên Thiệu, mới có thể giải vây được. Sái Mạo nói: - Tử Nhu bàn mưu ấy thực vụng. Nay quân địch tới ngoài thành, tướng địch đã đến bên hào, lẽ nào ta lại ngồi khoanh tay chịu chết! Tôi tuy không có tài cán gì, nhưng cũng dám xin lĩnh quân ra ngoài thành quyết chiến một trận. Lưu Biểu nghe lời, cho Sái Mạo đem hơn một vạn quân ra ngoài thành Tương Dương, dàn trận ở dưới núi Nghiễn Sơn. Tôn Kiên đem quân vừa thắng trận, kéo bừa lên đánh Sái Mạo. Mạo thúc ngựa ra. Kiên thấy Mạo liền hô: - Thằng này là anh vợ bé Lưu Biểu đây, ai ra bắt lấy nó cho ta! Trình Phổ vác ngay ngọn mâu chuôi sắt, tế ngựa ra đánh. Mới đánh nhau được vài hiệp. Mạo đã thua chạy. Kiên thúc quân vào giết chết vô số quân Mạo, thây người ngổn ngang khắp cả cánh đồng. Mạo trốn về Tương Dương. Khoái Lương thấy Mạo thua chạy về liền nói rằng: - Tôi đã bày một kế hay, Mạo không nghe, cứ ra đánh để đến nỗi thua to. Nay nên chiếu quân pháp mà đem chém! Lưu Biểu vừa lấy em gái Sái Mạo, không nỡ chém. Tôn Kiên chia ra bốn mặt, vây thành Tương Dương để đánh. Một hôm, bỗng một cơn gió nổi lên giật đổ lá cờ “Suý” ở trung quân. Hàn Đương nói: - Điềm này là điềm gở, xin hãy rút quân về. Kiên nói: - Ta đánh trận nào được trận nấy, chỉ sớm tối hôm nay thì lấy được Tương Dương, sao lại vì một việc gió thổi gãy cờ mà bãi binh? Kiên không nghe lời Hàn Đương, càng thúc quân đánh riết. Khoái Lương một hôm xem thiên văn, bảo Lưu Biểu: - Tôi trông thiên văn, thấy một ngôi tướng tinh chừng muốn sa, cứ chia phương hướng mà tính ra, thì ngôi sao ấy là Tôn Kiên. Chúa công nên lập tức đưa thư cho Viên Thiệu để cầu cứu. Lưu Biểu viết thư xong, hỏi có ai dám xông ra ngoài vòng vây. Có mãnh tướng là Lã Công xin đi. Khoái Lương bảo Lã Công rằng: - Người đã có gan dám đi, nên nghe kế ta: Ngươi đem năm trăm quân mã đi, phải kén những tay bắn cung giỏi. Ra khỏi được vòng vây rồi lập tức chạy lên Nghiễn Sơn. Đằng kia tất nó đem quân lại đuổi. Ngươi phải lấy ra một trăm người, lên núi tìm đá chất sẵn; một trăm người nữa mang cung nỏ nấp ở trong rừng. Hễ nó đuổi đến nơi, chớ có chạy đường thẳng, cứ chạy quanh co, dử cho nó đến chỗ mai phục, rồi ở trên cùng bắn tên và ném đá xuống. Nếu thắng trận thì lập tức nổi hiệu súng liên châu, trong thành sẽ cho quân ra tiếp ứng. Nếu nó không đuổi thì đừng nổ súng báo hiệu làm gì, cứ đi sấn đi thôi. Đêm nay trăng không sáng lắm. Chiều tà có thể ra khỏi thành. Lã Công vâng lĩnh kế ấy, sắp sẵn quân mã, đợi đến sâm sẩm tối, bí mật mở cửa phía đông, kéo quân ra khỏi thành. Tôn Kiên đang ở trong trướng, nghe có tiếng reo, kíp cưỡi ngựa đem ba mươi tên kỵ mã ra cửa trại xem. Quân sĩ lại báo rằng: - Có một toán quân mã ở trong thành kéo ra, chạy về mé Nghiễn Sơn. Kiên không kịp gọi các tướng chỉ dẫn ba mươi tên kỵ mã đuổi theo. Bấy giờ Lã Công đã đưa quân vào mai phục trong rừng rậm rồi. Một mình Kiên phóng ngựa chạy nhanh tới thấy quân đằng trước không còn cách xa mấy, Kiên bèn gọi to lên rằng: - Đừng chạy nữa. Lã Công quay ngựa lại đánh. Đánh được một hiệp, Lã Công lại chạy, lẻn vào trong đường núi. Kiên đằng sau theo hút, nhưng đi đến núi thì không thấy Lã Công nữa. Kiên toan trèo lên núi bỗng nghe thấy một tiếng cồng rồi đá đâu ở trên núi lăn xuống như mưa. Trong rừng tên bắn ra tua tủa. Kiên bị đá và tên bắn trúng vào đầu, phọt óc ra. Người và ngựa cùng chết cả ở chân núi. Lúc ấy Tôn Kiên mới có ba mươi bảy tuổi. Lã Công xuống chẹn đường bắt được ba mươi tên kỵ mã, giết tuốt cả rồi nổi hiệu súng liên châu. Trong thành nghe thấy, Hoàng Tổ, Khoái Việt, Sái Mạo cùng chia làm mấy ngả ra đánh. Quân Giang Đông xôn xao cả lên. Hoàng Cái giữ thuyền ở dưới sông, nghe thấy tiếng reo ầm ĩ, cũng dẫn thuỷ quân kéo lên bờ, gặp ngay Hoàng Tổ, đánh nhau được vài hiệp thì Hoàng Cái bắt sống được Hoàng Tổ. Trình Phổ bảo vệ Tôn Sách, vội tìm đường chạy, vừa gặp ngay Lã Công đến. Phổ tế ngựa ra, hai bên đánh nhau được vài hiệp. Phổ đâm một ngọn mâu. Lã Công chết ngã xuống chân ngựa. Hai bên đánh nhau mãi đến tận sáng mới thu quân về. Quân Lưu Biểu rút vào thành. Tôn Sách về đến Hán Thuỷ mới biết tin bố chết, quân Lưu Biểu đã khiêng xác vào thành mất rồi. Sách khóc lóc thảm sầu, quân sĩ cũng rền rĩ than khóc. Sách khóc: - Xác phụ thân ta còn ở bên địch, làm thế nào mang về quê hương được? Hoàng Cái nói: - Nay ta bắt sống được Hoàng Tổ, nên sai người vào thành giảng hoà, đem Hoàng Tổ đổi lấy thi thể của chúa công. Nói chưa dứt lời có viên tướng tên là Hoàn Khải bước ra nói rằng: - Tôi với Lưu Biểu có quen biết trước, xin nhận đi sứ vào thành. Sách cho Khải đi. Lúc giáp Lưu Biểu, Biểu nói: - Hài cốt Văn Đài ta đã nhập quan tử tế, ngươi về nói bên ấy tha Hoàng Tổ ra ta sẽ trả hài cốt cho mà đem về. Hai bên cùng bãi binh, từ nay về sau không phạm nhau nữa. Khải từ tạ định đi, dưới thềm Khoái Lương nhảy ra ngăn rằng: - Không nên! Không nên! Tôi có một kế này làm cho quân Giang Đông mảnh giáp không còn. Nhưng trước hết xin hãy chém đầu Hoàn Khải đi đã. Thế rõ thực là: Tôn Kiên đuổi giặc vừa toi mạng Hoàn Khải cầu hoà lại gặp nguy Chưa biết tính mệnh Hoàn Khải ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.[/SPOIL]
Tam Quốc diễn nghĩa - La Quán Trung Hồi 8 Vương tư đồ khéo dụng liên hoàn kế; Đổng thừa tướng náo động Phượng Nghi đình [SPOIL] Khoái Lương nói với Lưu Biểu rằng: - Ngày nay Tôn Kiên đã chết, các con còn bé cả, nên thừa kế tiến quân nhanh lên, chỉ đánh một trận là lấy được Giang Đông. Nếu chúa công trả thây Tôn Kiên và bãi binh về, để cho kẻ thù nuôi dưỡng sức khoẻ, đó là cái vạ của Kinh Châu về sau vậy! Biểu nói: - Ta còn có Hoàng Tổ ở bên ấy, sao nỡ bỏ được? Lương nói: - Bỏ một anh Hoàng Tổ vô mưu, mà lấy được cả Giang Đông, việc gì còn phải cân nhắc? Biểu lại nói: - Ta với Hoàng Tổ là bạn tâm phúc với nhau, bỏ y là trái nghĩa. Biểu cho Hoàn Khải về, hẹn rằng hễ bên ấy tha Hoàng Tổ, thì bên này cho đem xác Tôn Kiên về. Tôn Sách tha Hoàng Tổ, rồi sang rước linh cữu bố về, rút quân về Giang Đông, táng cha ở gò Khúc A. Việc tang xong. Tôn Sách dẫn quân về Giang Đông, vời người hiền, dùng kẻ sĩ; khéo nhún mình trọng người; hào kiệt bốn phương dần dần kéo đến theo Tôn Sách cả. Trong khi ấy, Đổng Trác ở Trường An được tin Tôn Kiên đã chết, mừng mà nói rằng: - Ta trừ được một mối lo lớn trong lòng! Trác hỏi con Kiên bao nhiêu tuổi, có người thưa mười bảy tuổi. Trác không cho vào đâu; từ bấy giờ lại càng kiêu căng tự xưng là thượng phụ[1], khi ra khi vào dùng toàn nghi vệ thiên tử. Trác lại phong em là Đổng Mẫn làm tả tướng quân, tước Vu hầu; cháu là Đổng Hoành làm trị trung, coi cả quan cấm binh. Tôn tộc họ Đổng chẳng cứ già trẻ, ai cũng được phong tước hầu cả. Các Trường An hai trăm năm mươi dặm, Trác sai đắp một cái thành gọi là thành My Ổ, bắt hai mươi nhăm vạn dân đắp cao, dày, theo y như kiểu thành Trường An. Trong thành lại làm những cung thất kho tàng, chứa được đủ lương ăn trong hai mươi năm; lại kéo gái thanh tân tám trăm người chứa trong ấy; vàng, ngọc, gấm, vóc, trân châu vào không biết bao nhiêu mà kể. Họ hàng Trác đều được đem vào cả trong thành. Trác thì đi đi về về Trường An, khi nửa tháng một lần, khi một tháng một lần. Công khanh đưa đón thường phải đứng trực ở ngoài cửa Hoành Môn. Trác nhiều khi đặt trướng ở dọc đường, cùng với công khanh ăn tiệc. Một hôm Trác ra ngoài cửa Hoành Môn, các quan đi tiễn, Trác mời các quan ở lại uống rượu, đoạn cho gọi mấy trăm hàng binh vừa dụ được ở đất bắc đến. Trác sai đem ra trước chỗ ăn tiệc, đứa thì đem chặt chân chặt tay, đứa thì đem khoét mắt xẻo mũi, đứa thì đem cắt lưỡi, đứa thì đem bỏ vạc dầu đun. Tiếng kêu khóc vang lừng trời đất. Các quan đang ăn tiệc, thấy thế người nào người nấy đều run cầm cập, đánh rơi cả đũa. Trác vừa uống rượu vừa cười nói như không. Lại một hôm khác, Trác ở sảnh đài, hội cả bách quan ngồi sẵn ra hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần, thì Lã Bố đi tắt vào, ghé vào tai Đổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng: - À ra thế! Nói rồi sai Lã Bố lôi quan tư không, tên là Trương Ôn, đang ngồi dự tiệc, đem xuống nhà dưới. Các quan không biết đầu đuôi thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một cái mâm đỏ, giữa để đầu lâu Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía. Đổng Trác cười nói: - Các quan đừng sợ. Trương Ôn liên kết với Viên Thuật, toan hại ta. Nhân hai đứa gửi thư cho nhau, đưa nhầm cho con ta là Lã Ôn hầu, nên ta mới đem chém. Các quan không có việc gì, đừng sợ. Các quan dạ dạ rồi về. Quan tư đồ Vương Doãn, hôm ấy về đến phủ, nghĩ đến những việc trông thấy ở trong bữa tiệc, ngồi đứng không yên. Đến đêm khuya, trăng sáng vằng vặc, Doãn chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi[2], ngẩng mặt lên trời, mà khóc. Chợt nghe có tiếng người thở dài ở cạnh đình Mẫu Đơn. Doãn ron rén lại nhìn xem ai thì là một con hát trong phủ, tên là Điêu Thuyền. Điêu Thuyền từ thuở nhỏ được kéo vào phủ, học múa học hát, bấy giờ mới mười sáu tuổi, đủ cả tài sắc, Doãn thương yêu như con đẻ. Doãn đứng nghe một hồi lâu, mắng rằng: - Con này đã có tư tình gì đây? Thuyền quỳ xuống thưa rằng: - Lạy cha, con đâu dám có tư tình. Doãn hỏi: - Không có tư tình thì việc gì canh khuya lại ra đứng đây mà thở vắn than dài? Thuyền nói: - Lạy cha! Xin cho con bày tỏ nỗi lòng. Doãn nói: - Con không được giấu giếm, phải nói cho thực. Thuyền nói: - Con nhờ ơn cha nuôi nấng, dạy bảo múa hát, lại được hậu đãi, dù thịt nát xương tan, cũng không báo được muôn một. Gần đây con thấy cha mặt thảm mày chau, tất cha có lo việc lớn gì trong nước, con vẫn không dám hỏi. Nhân chiều hôm nay con thấy cha đứng ngồi không yên, cho nên con cũng buồn rầu mà thở dài, không ngờ cha nghe thấy. Nếu cha có việc gì cần sai bảo đến con, dù có chết con cũng không ngại. Doãn đập gậy xuống đất nói rằng: - Ai ngờ cơ đồ nhà Hán lại ở trong tay con! Hãy theo cha đến nhà gác cha bảo! Doãn đến đó, đuổi hết tỳ thiếp ra, dắt Điêu Thuyền ngồi lên trên sập, rồi thụp xuống lạy. Điêu Thuyền sợ hãi, cúi rạp xuống đất, thưa rằng: - Sao cha lại làm thế? Doãn nói: - Con hãy thương lấy sinh linh nhà Hán! Nói rồi khóc như nước suối chảy. Thuyền thưa: - Vừa rồi con đã thưa, cha có việc gì sai khiến, dẫu chết con cũng không từ. Doãn lại quỳ xuống nói: - Hiện nay trăm họ như bị treo ngược, vua tôi ngất ngưởng như trứng chồng, thật nguy cấp, phi con không ai cứu được. Tặc thần Đổng Trác sắp cướp ngôi vua, văn võ trong triều không ai nghĩ được kế gì. Đổng Trác có một thằng con nuôi là Lã Bố, sức khoẻ lạ thường. Ta xem hai đứa ấy cũng là tuồng hiếu sắc. Nay ta muốn dùng một kế liên hoàn: trước đem con gả cho Lã Bố, sau lại đem con dâng Đổng Trác. Con ở trong, tuỳ cơ lập kế, ly gián hai bố con nó, xui khiến thế nào cho Lã Bố giết Đổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Đó là nhờ ở sức con, con nghĩ thế nào? Thuyền thưa: - Con xin thưa, dẫu chết con cũng không từ. Xin đem ngay con dâng cho nó, con sẽ lập mưu ở trong. Doãn nói: - Việc này nếu tiết lộ họ nhà ta sẽ chết hết! Thuyền thưa rằng: - Xin cha chớ lo. Nếu con không báo đền được nghĩa lớn, con sẽ chết ở dưới muôn vàn ngọn giáo. Doãn lạy tạ. Hôm sau Doãn sai người đem ngọc minh châu, xưa nay vẫn cất kỹ một nơi, gọi thợ khéo, làm một cỗ mũ vàng, mật sai người đem biếu Lã Bố. Bố mừng rỡ, thân đến nhà Doãn tạ ơn. Doãn làm sẵn của ngon vật lạ đợi Bố đến. Doãn ra cửa đón rước vào hậu đường, mời ngồi lên trên. Bố nói: - Tôi là một tiểu tướng ở trong phủ, tư đồ là một vị đại thần trong triều, sao lại quá tôn kính như vậy? Doãn nói: - Nay thiên hạ không có ai là anh hùng, tôi chỉ thấy duy có tướng quân mà thôi. Tôi tỏ lòng tôn kính, không phải là tôn kính cái chức của tướng quân mà là tôn kính cái tài của tướng quân đó. Bố mừng lắm, Doãn khẩn khoản mời rượu, khen lấy khen để mãi cái đức Đổng thái sư và cái tài Lã Bố. Bố cười vang và uống rượu thoả thích. Bấy giờ Doãn mới đuổi đầy tớ lùi ra, chỉ để vài người tỳ thiếp đứng hầu rượu. Khi Bố ngà ngà say, Doãn nói truyền rằng: - Gọi con em nó ra đây! Một lát hai thị tỳ đỡ Điêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy bước ra. Lã Bố trông thấy giật mình, hỏi: - Người nào vậy? Doãn nói: - Đó là con gái nhỏ lão, tên là Điêu Thuyền. Lão nay được ơn tướng quân có lòng hạ cố mà coi như chỗ chí thân, nên lão sai nó ra để chào tướng quân. Liền sai Điêu Thuyền bưng chén rượu mời. Thuyền nâng chén rượu mời Bố. Hai bên nhìn nhau, đầu mày cuối mắt… Vương Doãn giả tảng say, nói: - Con cố mời tướng quân uống vài chén con nhé! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân đấy. Bố mời Thuyền ngồi. Thuyền giả cách thẹn thùng, muốn lui vào, Doãn nói: - Tướng quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại. Thuyền khép nép, ngồi bên cạnh Doãn. Lã Bố nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài chén. Doãn mới trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lã Bố rằng: - Lão vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tỳ thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ cố thương đến không? Bố nghe nói vội vàng đứng dậy, ra ngoài chiếu, tạ mà nói rằng: - Nếu được như thế, tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu. Doãn nói: - Nay mai xin chọn ngày lành tháng tốt, đưa nó đến phủ tướng quân. Lã Bố mừng hớn hở, đưa mắt nhìn Điêu Thuyền. Điêu Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp lại. Một chốc tiệc tan, Doãn nói: - Lão phu muốn mời tướng quân nghỉ lại đây chơi, nhưng sợ thái sư sinh nghi. Bố hai ba lần tạ đi tạ lại, rồi lui về. Được vài hôm, Vương Doãn ở trong triều gặp Đổng Trác, nhân thể không có Lã Bố ở đấy, bèn thụp xuống đất lạy, nói rằng: - Tôi muốn rước thái sư quá bước lại nhà tôi xơi chén rượu, nhưng không biết thái sư có lòng hạ cố chăng? Trác nói: - Được quan tư đồ mời, tôi xin đến ngay. Doãn lạy tạ, về nhà, trang hoàng nhà cửa lịch sự, bày đủ các món sơn hào hải vị, giữa gian sảnh, kê một cái sạp; gấm vóc rải cả xuống đất; trong ngoài trướng rủ màn che. Buổi trưa hôm sau, Đổng Trác đến, Doãn mặc áo đại trào ra đón, lạy hai lạy rồi mời vào. Trác xuống xe, tả hữu hơn một trăm người vác kích đi thẳng vào nhà, đứng xếp thành hai hàng. Doãn xuống dưới thềm lạy hai lạy, Trác sai người dắt Doãn lên ngồi bên cạnh. Doãn nói: - Công đức thái sư to lắm! Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng! Trác mừng lắm. Doãn sai tấu nhạc và dâng rượu, rất là cung kính. Đến chiều Trác uống rượu đã say, Doãn mời Trác vào nhà trong. Trác quát giáp sĩ lui ra. Doãn bưng một chén rượu, mừng Trác rằng: - Chúng tôi thuở nhỏ có học thiên văn, đêm xem tượng trời, thấy khí số nhà Hán đã hết. Thái sư công đức đã vang lừng cả thiên hạ. Ngày xưa, vua Thuấn nối ngôi vua Nghiêu, vua Vũ nối ngôi cho vua Thuấn. Thế là hợp lòng trời và lòng người lắm. Trác nói: - Ta có đâu dám mong như thế! Doãn nói: - Xưa nay người có đạo thay người vô đạo, người không có đức nhường người có đức, có gì là không đúng. Trác cười và nói rằng: - Nếu mệnh trời về ta, tư đồ phải làm nguyên huân. Doãn lạy tạ. Bấy giờ đèn nến đốt sáng choang, chỉ có mấy đứa hầu gái đứng hầu rượu và dâng đồ ăn. Doãn nói: - Phường nhạc không đáng đem ra cung phụng thái sư. Nay có một con hát của nhà, xin thái sư cho phép được gọi ra hầu. Trác nói: - Hay lắm! Doãn mới sai kéo bức màn ra, đàn sáo vang lừng, Điêu Thuyền đứng ở ngoài mành lượn múa dịu dàng, ở ngoài trông vào thực là ngoạn mục. Có bài ca khen Điêu Thuyền như sau: Người ở cung Chiêu Dương đó nhỉ Cánh hồng bay phớn phở trên tay Động Đình chừng đã qua bay Lương Châu vỗ nhịp nhẹ giày gót sen. Một cành gió lá hoa mềm Mùi hương ngào ngạt dày thềm vẻ xuân. Lại có một bài thơ nữa khen rằng: Én liệng la đà nhịp phách ngà Mây bay một áng diễu thềm hoa Mày ngài gợi khách sầu man mác Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha Hồ dễ nghìn vàng mua được miệng Lọ dùng trăm báu xức vào da? Rèm cao múa đoạn ai nhìn trộm Nào biết Tương vương mấy kẻ là! Điêu Thuyền múa xong, Trác gọi lại gần. Điêu Thuyền ở ngoài thềm đi vào, lạy hai lạy. Trác thấy Điêu Thuyền dung nhan xinh đẹp bèn hỏi Doãn: - Con bé này là thế nào? Vương Doãn thưa: - Bẩm, nó là con hát ở phủ, tên là Điêu Thuyền. Trác hỏi: - Biết hát không? Doãn sai Điêu Thuyền gõ nhịp hát một bài. Thật là: Môi son hé nở cánh đào tân Ngọc trắng hai hàng nhả “ánh xuân” Đầu lưỡi đinh hương đường kiếm sắc Rắp toan chém cổ kẻ gian tham! Đổng Trác khen nức nở. Doãn sai Thuyền dâng rượu. Trác cầm lấy chén rượu hỏi rằng: - Xuân xanh năm nay bao nhiêu? Thuyền thưa: - Tuổi tiện thiếp vừa đôi tám. Trác cười nói rằng: - Thật là người chốn thần tiên! Doãn đứng dậy thưa rằng: - Chúng tôi có ý muốn đem dâng lên thái sư, không biết thái sư có nhận cho không? Đổng Trác nói: - Ơn ấy ta biết lấy gì báo lại. Doãn nói: - Nếu nó được hầu hạ thái sư thì thực phúc to cho tôi lắm. Trác cảm ơn hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Điêu Thuyền đến tướng phủ. Trác đứng dậy cáo từ. Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về. Doãn cưỡi ngựa đến nửa đường, trông thấy hai bên đường có đèn đỏ, ở giữa là Lã Bố, cưỡi ngựa cầm kích đi lại. Lúc Vương Doãn đến, Bố dừng ngựa, một tay nắm lấy áo Vương Doãn rồi hỏi to rằng: - Tư đồ đã gả Điêu Thuyền cho ta, nay lại đem Điêu Thuyền dâng thái sư, sao lại đùa như thế? Doãn vội vàng ngăn Lã Bố, nói rằng: - Nói chuyện ở đây không tiện, xin ngài hãy quá bước lại nhà lão phu. Bố theo Doãn về. Hai người dắt nhau vào nhà trong. Chào hỏi xong. Doãn nói: - Sao tướng quân lại trách lão? Bố nói: - Có người nói với ta rằng tư đồ dùng xe đưa Điêu Thuyền vào tận tướng phủ, là cớ làm sao? Doãn thưa: - Rõ khổ, tướng quân không biết! Hôm qua ở triều thái sư bảo tôi rằng: “Ta có một việc phải đến nhà ngươi”. Vậy tôi có sửa soạn tiệc nhỏ đón tiếp. Trong khi uống rượu, thái sư hỏi: “Ta nghe ngươi có con gái tên là Điêu Thuyền, đã gả cho con ta là Lã Phụng Tiên. Có thực không? Đem con lão ra đây cho ta coi!” Tôi không dám không vâng lệnh, phải gọi Điêu Thuyền ra lạy bố chồng. Thái sư lại truyền rằng: “Hôm nay tốt ngày, để ta đem Điêu Thuyền về cho Phụng Tiên!” Tướng quân thử nghĩ xem, thái sư thân hành đến nơi truyền bảo, lão phu sao dám gàn trở! Lã Bố nói: - Quan tư đồ không có lỗi gì, tôi trót nghĩ lầm. Ngày mai tôi xin mang roi đến chịu tội. Doãn lại nói: - Con tôi có ít nhiều đồ nữ trang. Khi nào nó về phủ tướng quân, tôi sẽ mang đến. Lã Bố tạ, rồi về. Sáng hôm sau, Bố ở nhà nghe ngóng, chẳng thấy tin tức gì, bèn sang tướng phủ, vào thẳng nhà trong hỏi tin những người hầu. Một người thưa: - Đêm qua thái sư cùng nghỉ với người hầu mới, bây giờ chưa dậy. Bố giận lắm, lẻn vào sau buồng nằm của Đổng Trác để dò xem. Bấy giờ Điêu Thuyền đã dậy rồi đang ngồi trong cửa sổ chải đầu, chợt trông xuống ao trước cửa sổ thấy bóng người cao lớn, đầu đội mũ bịt tóc, biết ngay là Lã Bố, Điêu Thuyền cố ý chau ngay đôi mày làm ra dáng buồn bã, tay cầm khăn thỉnh thoảng nâng lên lau nước mắt. Lã Bố đứng nhìn hồi lâu rồi trở ra, một lát sau lại vào. Đổng Trác ngồi ở trung đường, thấy Bố đến, hỏi rằng: - Ở ngoài không có việc gì chứ? Bố thưa: - Không. Rồi đứng hầu một bên. Trác ăn cơm, Bố liếc mắt nhìn dòm trộm, thấy trong rèm có người con gái đi đi lại lại, hơi thò nửa mặt ngoảnh ra ngoài, liếc mắt đưa tình. Trác nhìn thấy dáng điệu của Bố như vậy, trong lòng nghi hoặc liền hỏi rằng: - Phụng Tiên không có việc gì, hãy lui ra! Lã Bố bực tức trở ra. Trác từ khi được Điêu Thuyền, hơn một tháng trời không coi gì đến việc quan. Một bữa Trác hơi khó ở, Điêu Thuyền hết lòng hầu hạ, mặc áo không lúc nào cởi đai, cố ý chiều chuộng, Trác lại càng yêu quý hơn nữa. Một hôm Lã Bố vào hỏi thăm, gặp lúc Đổng Trác đang ngủ, Điêu Thuyền đứng ở sau giường thò nửa người ra, trông thấy Bố, lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Đổng Trác, và luôn luôn gạt nước mắt. Bố cảm thấy ruột như nát ra. Trác nằm hai mắt lim dim, thấy Lã Bố nhìn chòng chọc về phía sau chỗ mình nằm, quay lại thì thấy Điêu Thuyền đứng ở sau giường. Trác nổi giận mắng Bố rằng: - Mày ghẹo vợ yêu của tao à? Bèn sai tả hữu đuổi Lã Bố ra và cấm từ nay không được vào nhà trong nữa. Lã Bố tức giận trở về, đi đường gặp Lý Nho, kể lại đầu đuôi. Nho lập tức vào ra mắt Đổng Trác, nói rằng: - Thái sư muốn lấy thiên hạ, sao lại vì một việc nhỏ mọn mà trách mắng Lã Ôn hầu. Nếu y thay lòng đổi dạ, việc lớn hỏng mất. Trác hỏi: - Bây giờ nên làm thế nào? Nho nói: - Sớm mai gọi y vào, cho vàng lụa, dùng lời ngọt ngào an ủi y, thì sẽ không có việc gì xảy ra nữa. Trác nghe lời, hôm sau cho gọi Lã Bố vào nhà trong, bảo rằng: - Hôm qua trong cơn đau yếu, tinh thần hoảng hốt, ta có nói mấy câu, nhà ngươi đừng để bụng. Nói rồi, sai đưa cho Lã Bố mười cân vàng và hai mươi tấm gấm. Bố lạy tạ rồi về, nhưng từ lúc ấy tuy đứng hầu ở bên Đổng Trác, mà ruột gan lúc nào cũng vơ vẩn chung quanh Điêu Thuyền. Khi Trác đã khỏi bệnh, vào triều bàn việc, Bố vẫn cầm kích đi theo. Một bữa, Trác đang ngồi bàn tiệc với vua Hiến đế, Bố vác kích lẻn ra cửa sau, lên ngựa chạy đến tướng phủ, buộc ngựa ở cửa phủ, cầm kích vào thẳng hậu đường, để tìm Điêu Thuyền. Thuyền bảo: - Hãy ra vườn sau bên đình Phượng Nghi đợi thiếp! Bố vác kích đi trước, đứng bên bao lơn ở dưới đình chờ một hồi lâu, thấy Điêu Thuyền rẽ hoa gạt liễu đi đến, chẳng khác gì tiên trên cung trăng. Thuyền sụt sùi khóc bảo Bố rằng: - Tiện thiếp tuy không phải Vương tư đồ sinh ra, nhưng tư đồ coi thiếp như con đẻ. Từ khi gặp tướng quân, được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn nguyện lắm. Ngờ đâu thái sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận không chết ngay được, chỉ vì chưa gặp được tướng quân để từ giã lần cuối cùng, cho nên còn nhịn nhục sống đến bây giờ. Nay may được gặp nhau, thế là hả rồi. Tấm thân đã nhơ nhuốc này không xứng đáng thờ người anh hùng, thiếp xin chết ở trước mặt chàng để tỏ rõ lòng thiếp! Điêu Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống. Lã Bố vội vàng ôm ngay lấy Điêu Thuyền, khóc nói rằng: - Lòng nàng tôi biết đã lâu, chỉ hiềm chưa được nói với nhau đấy thôi! Điêu Thuyền gạt tay Lã Bố ra nói rằng: - Kiếp này thiếp không được làm vợ chàng, xin hẹn để kiếp sau! Lã Bố nói: - Nếu kiếp này không lấy được nàng, tôi không phải là người anh hùng nữa. Điêu Thuyền nói: - Thiếp coi một ngày dài bằng một năm, xin chàng thương mà cứu vớt. Bố nói: - Tôi lên đến đây, sợ thằng giặc già nó nghi, tôi phải đi ngay. Thuyền lôi vạt áo Lã Bố lại nói rằng: - Chàng còn sợ thằng giặc già như thế, thiếp này không còn mong có ngày nào được trông thấy trời và đất nữa! Bố đứng lại nói rằng: - Đừng vội vàng, để tôi nghĩ cách đã. Nói rồi vác kích định ra. Điêu Thuyền níu lại nói rằng: - Khi tôi ở chốn buồng the đã được nghe tiếng tướng quân, lừng lẫy như sấm rót vào tai, tưởng rằng ở đời này chỉ có một người như thế chớ không có hai. Ai ngờ tướng quân lại chịu dưới quyền áp chế của người khác! Nói rồi, nước mắt chảy xuống như mưa. Lã Bố thẹn đỏ cả mặt, dựa kích vào một chỗ, quay lại ôm lấy Điêu Thuyền, dỗ dành an ủi. Hai người quấn quấn quýt quýt không nỡ buông nhau ra. Đổng Trác ở trên điện, bỗng ngoảnh lại không thấy Lã Bố trong bụng nghi ngay, vội vàng xin cáo từ lên xe về phủ. Thấy ngựa của Bố buộc trước cửa phủ, Trác bèn hỏi lính canh cửa. Lính canh nói: - Ôn hầu vào nhà sau. Trác mắng quân canh cửa, đi thẳng ngay vào hậu đường, không thấy Lã Bố. Trác gọi Điêu Thuyền cũng không thấy thưa. Trác hỏi người hầu gái. Người hầu gái thưa: Điêu Thuyền ở trong vườn sau ngắm hoa. Trác vào vườn sau tìm, thấy Lã Bố và Điêu Thuyền đang nói chuyện với nhau ở bên đình Phượng Nghi, hoạ kích dựng một bên. Trác giận quát to một tiếng. Bố thấy Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy. Trác vớ ngay lấy ngọn hoạ kích đuổi theo. Bố chạy mau, Trác béo phục phịch, đuổi không kịp, bèn cầm kích ném theo Lã Bố. Bố gạt rơi xuống đất, Trác nhặt kích lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa. Trác đuổi ra tận cửa vườn, thì một người xăm xăm chạy đến, đâm sầm ngay vào Đổng Trác. Trác ngã quỵ xuống đất. Thế rõ thực là: Khí căm xông thẳng trên mây tía Mình béo lăn kềnh đến đất đen. Chưa biết người ấy là ai, xem hồi sau mới rõ.[/SPOIL] . ___________Auto Merge________________ . Tam Quốc diễn nghĩa - La Quán Trung Hồi 9 Trừ hung bạo, Lã Bố giúp tư đồ; Chiếm Trường An, Lý Thôi nghe Giả Hủ [SPOIL]Người đi va vào Đổng Trác, tức là Lý Nho, Nho thấy Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện. Trác hỏi Lý Nho: - Ngươi đến đây làm gì? Lý Nho thưa: - Tôi chợt qua cửa phủ, thấy nói thái sư giận đi vào vườn sau tìm Lã Bố, tôi vội vàng chạy vào, thì gặp Lã Bố chạy ra, kêu lên rằng: “Thái sư giết ta”. Bởi thế, tôi hấp tấp vào đây để can ngăn thái sư, chẳng may chạm phải thái sư, thật đáng tội chết! Trác nói: - Không thể tha được thằng nghịch tặc ấy! Nó dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta cũng giết chết nó mới nghe. Lý Nho can rằng: - Thái sư không nghĩ cho chín; ngày xưa vua Trang Vương nước Sở, trong bữa tiệc “Dứt dải mũ” đã tha tội cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu[1], đến sau bị binh nhà Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết cứu thoát được. Nay Điêu Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lã Bố là một mãnh tướng tâm phúc của thái sư, nếu thái sư nhân dịp này đem Điêu Thuyền cho Bố, chắc Bố cảm ơn lắm, lấy chết báo lại thái sư, xin thái sư nghĩ đi nghĩ lại. Trác nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói rằng: - Ngươi nói cũng phải, để ta nghĩ kỹ xem. Lý Nho tạ từ rồi ra. Trác vào ngay hậu đường gọi Điêu Thuyền ra hỏi rằng: - Sao mày có tư tình với Lã Bố? Điêu Thuyền khóc thưa rằng: - Thiếp đang đứng xem hoa, bỗng Lã Bố đột ngột ở đâu đến. Thiếp vội vàng toan tránh. Bố nói: “Tôi là con thái sư, việc gì phải tránh?” Rồi y cầm kích ép thiếp đến đình Phượng Nghi. Thiếp thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tới mình thiếp, định đâm đầu xuống ao sen tự tận, nhưng lại bị y ôm chặt lấy. Đang lúc giằng co không biết sống chết thế nào, may có thái sư chạy lại cứu được tính mệnh. Trác lại hỏi: - Nay ta đem mày gả cho nó, mày có thuận không? Điêu Thuyền giật mình, khóc rằng: - Thiếp đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thiếp thà chết chứ không chịu được nhục này! Bèn rút thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn. Trác vội vàng giằng lấy thanh gươm và ôm chặt lấy Điêu Thuyền và nói rằng: - Ta nói bỡn đấy mà! Thuyền nằm ngả vào lòng Trác, bưng mặt khóc rằng: - Đây hẳn là mẹo của Lý Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên Nho mới bày ra mẹo này, không kể gì đến thể diện của thái sư và tính mệnh của tiện thiếp, thiếp phải xả thịt chúng nó ra. Trác nói: - Ta sao nỡ bỏ nàng. Điêu Thuyền lại nói: - Thái sư dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lã Bố làm hại. Trác dỗ dành Điêu Thuyền rồi nói rằng: - Ngày mai chúng ta về My Ổ, cùng hưởng sung sướng, đừng lo gì nữa. Thuyền mới lau nước mắt lạy tạ. Hôm sau Lý Nho vào ra mắt, nói rằng: - Hôm nay tốt ngày thái sư nên đem Điêu Thuyền gả cho Lã Bố. Trác nói: - Chuyện ấy ta đã nghĩ rồi. Lã Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố thế là được rồi! Nho nói: - Thái sư đừng dễ mê hoặc vì một người đàn bà. Trác giận đổi sắc mặt mắng rằng: - Thế thì vợ mày mày có đem cho nó không? Việc Điêu Thuyền cấm không được động đến nữa, còn nói tao sẽ chém đầu. Lý Nho trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng: - Lũ chúng ta chết cả về tay người đàn bà! Đời sau có thơ rằng: Tư đồ khéo mượn khách má đào Chẳng dùng gươm giáo, chẳng dùng dao Hổ Lao ba trận hoài bao sức Phượng Nghi chiến thắng ấy lạ sao! Ngay hôm ấy Đổng Trác hạ lệnh về My Ổ, trăm quan đều tống tiễn. Điêu Thuyền ngồi trên xe, xa trông thấy Lã Bố đứng ở trong đám đông người, mắt nhìn vào trong xe. Thuyền giả cách che mặt làm ra dáng đau khóc bi thảm. Xe đã đi xa. Lã Bố còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù mịt than tiếc bực dọc. Chợt nghe sau lưng có người hỏi rằng: - Ôn hầu sao không theo thái sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở? Bố quay đầu lại xem ai, thì ra là tư đồ Vương Doãn. Chào hỏi xong, Doãn nói: - Tôi mấy bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa có dịp gặp tướng quân. Bữa nay thái sư về My Ổ, nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin hỏi tướng quân làm sao đứng đây thở than? Bố nói: - Chỉ vì con gái ông đấy! Doãn giả cách thất kinh hỏi rằng: - Từ hôm ấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à? Bố nói: - Thằng giặc già ấy lấy làm thiếp của nó đã lâu rồi! Doãn lại giả thất kinh: - Không ngờ lại như thế! Bố bèn đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe. Vương Doãn mặt ngửa lên trời, chân giẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì. Mãi hồi lâu, Doãn mới nói rằng: - Không ngờ thái sư lại làm cái việc cầm thú ấy… Rồi kéo tay Lã Bố, nói rằng: - Xin tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện. Bố theo Doãn về. Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản đãi. Bố lại đem việc gặp Điêu Thuyền ở đình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn nghe. Doãn nói: - Thái sư làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho, nhưng người ta không chê cười thái sư đâu mà người ta chỉ chê cười tướng quân và tôi thôi. Tôi già yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh hùng tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này. Bố nghe nói, cơn giận bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to. Doãn vội vàng nói rằng: - Lão trót lỡ lời… xin tướng quân nguôi giận! Bố nói: - Ta thề sẽ giết chết thằng giặc già ấy để rửa nhục. Doãn vội vàng lấy tay bưng miệng Bố can rằng: - Tướng quân chớ nói, nhỡ ra có liên luỵ đến lão. Bố nói: - Đại trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ đâu lại cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ người khác mãi ru! Doãn nói thêm một câu rằng: - Tài như tướng quân thì thái sư làm sao có thể kìm hãm được. Bố lại nói: - Tôi muốn giết thằng giặc già ấy, nhưng ngại rằng còn vướng tình cha con, sợ người sau chê cười chăng? Doãn tủm tỉm cười nói rằng: - Tướng quân họ Lã, mà thái sư thì họ Đổng. Thử hỏi lúc thái sư cầm kích lao tướng quân ở đình Phượng Nghi, liệu còn có tình cha con không? Bố hăng hái đứng lên nói rằng: - Nếu tư đồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm. Doãn thấy Lã Bố đã quyết tâm giết Trác bèn bảo Lã Bố rằng: - Giúp nhà Hán, tướng quân mới thực là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu tướng quân giúp Đổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời. Bố đứng dậy lạy Vương Doãn và nói rằng: - Ý tôi đã quyết rồi. Tư đồ không nên nghĩ nữa. Doãn nói: - Tôi sợ việc không xong thì vạ to. Bố liền rút con dao đeo ở mình, đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề. Doãn quỳ xuống lạy tạ, nói rằng: - Hương hoả nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng quân biết. Bố khẳng khái nhận lời rồi trở ra. Doãn lập tức mời quan bộc sa là Sĩ Tôn Thuỵ, quan tư lệ hiệu uý là Hoàng Uyển đến để bàn việc ấy. Thuỵ nói: - Nay vua mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến My Ổ mời Trác vào đây để bàn việc nước. Một mặt lấy mật chiếu của thiên tử trao cho Lã Bố sai phục quân trong cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ giết đi. Chước ấy là hơn cả. Uyển nói: - Nhưng có ai dám đi mời không? Thuỵ nói: - Có quan kỵ đô uý Lý Túc là người cùng quận với Lã Bố. Vì Trác không thăng chức cho, vẫn mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ[2]. Doãn cho là phải, bèn mời Lã Bố đến bàn bạc. Bố nói: - Ngày xưa xui ta giết Đinh Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta sẽ chém ngay trước. Các quan mật sai mời Lý Túc đến. Bố bảo Túc: - Xưa ông xui tôi giết Đinh Kiến Dương để về với Đổng Trác. Nay Đổng Trác trên dối thiên tử, dưới hại sinh linh, tội ác đã nhiều, cả người và thần đều giận. Vậy ông hãy mang chiếu thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh giết nó đi, cố giúp nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa sĩ, ông tính thế nào? Túc nói: - Tôi cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lòng. Nay tướng quân có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng? Nói đoạn Túc bẻ một cái tên ra thề. Doãn nói: - Ông làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng. Hôm sau Túc dẫn vài mươi tên kỵ mã đến My Ổ, sai người báo tin cho Trác biết rằng có chiếu thiên tử đến. Trác cho mời vào, Lý Túc vào lạy, Trác nói: - Thiên tử có chiếu gì? Túc thưa: - Thiên tử vừa mệt mỏi, muốn hội văn võ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho thái sư, nên sai tôi cầm chiếu này đến đây. Trác hỏi: - Ý Vương Doãn thế nào? Túc thưa: - Vương tư đồ đã sai người đắp đền thụ thiện, chỉ mong đợi thái sư về. Trác mừng rỡ nói rằng: - Thảo nào đêm ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có tin mừng. Dịp này không nên để lỡ. Bèn sai bốn tướng tâm phúc là Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba nghìn quân phi hùng giữ My Ổ rồi ngay hôm ấy sắp xe kiệu vào kinh. Trác ngoảnh lại bảo Lý Túc: - Hễ ta làm vua thì cho ngươi làm chức Chấp kim ngô. Túc lạy tạ, xưng thần. Trác vào từ giã mẹ. Mẹ Trác bấy giờ đã hơn chín mươi tuổi, hỏi Trác: - Con đi đâu? Trác nói: - Con sắp đi nối ngôi vua nhà Hán. Nay mai mẹ sắp lên làm hoàng thái hậu đấy. Mẹ nói: - Ta mấy hôm nay cứ nóng ruột giật mình, sợ không phải điềm hay! Trác nói: - Mẹ sắp làm quốc mẫu, chẳng trách giật mình! Nói rồi từ giã mẹ. Đến lúc đi, bảo Điêu Thuyền rằng: - Ta làm thiên tử, sẽ lập nàng làm quý phi. Điêu Thuyền đã biết rõ mọi chuyện, giả cách hớn hở mừng rỡ, lạy tạ. Trác lên xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng. Đi chưa được ba mươi dặm, tự nhiên xe gãy một bánh. Trác xuống xe cưỡi ngựa, đi chưa được mười dặm, ngựa tự dưng lồng lên gầm thét dữ tợn, lôi đứt dây cương. Trác hỏi Lý Túc: - Xe gãy bánh, ngựa đứt dây cương, là điềm thế nào? Túc nói: - Thế là cái điềm thái sư nối ngôi nhà Hán, thay cũ đổi mới. Từ nay thái sư sẽ ngồi kiệu ngọc yên vàng. Trác nghe lấy làm lọt tai. Hôm sau đương đi bỗng có cơn gió dữ nổi lên ầm ầm, mây kéo nghịt trời, Trác lại hỏi Túc: - Thế là điềm gì? Túc nói: - Chúa công sắp lên ngôi rồng, cho nên mới có những ráng hồng mây tía, để thêm oai trời. Trác lại mừng không lo gì nữa. Khi Đổng Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rước duy có Lý Nho cáo bệnh ở nhà không ra đón. Trác đến tướng phủ. Lã Bố vào mừng. Trác nói: - Hễ ta làm vua, Phụng Tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ. Bố lạy tạ rồi nghỉ ngay ở dưới trướng. Đêm hôm ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong, gió đưa tiếng hát vào tận màn. Hát rằng: “Thiên lý thảo Hà thanh thanh Thập nhật bốc Bắt đắc sinh”[3] (Cỏ ngàn dặm Sao xanh xanh? Trên mười ngày Chẳng được sống) Tiếng hát nghe thực ai oán. Trác nghe thấy mới hỏi Lý Túc: - Trẻ hát như thế, hay dở thế nào? Túc thưa: - Thế nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Đổng sắp lên. Mờ mờ sáng hôm sau, Trác sai bày nghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong triều. Bỗng thấy một đạo quân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài, trên buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu[4]. Trác lại hỏi Lý Túc: - Người ấy làm thế là ý thế nào? Túc nói: - Nó là một thằng rồ. Rồi bảo tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi. Trác vào đến triều, các quan đều mặc áo trào, đứng đón cả hai bên đường, Lý Túc tay cầm thanh bảo kiếm, vịn xe Đổng Trác đẩy đi. Đến cửa Bắc Dịch, quân sĩ đều bị ngăn cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được đẩy xe đi vào. Trác vào khỏi cửa, thấy bọn Vương Doãn, ai nấy đều cầm gươm đứng cửa điện, sợ hỏi Lý Túc: - Họ cầm gươm là ý gì? Lý Túc không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào. Vương Doãn bấy giờ mới thét to lên rằng: - Phản tặc đã đến đây, võ sĩ đâu? Hai bên hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm kẻ vác đao, cùng đổ xô lại đâm Đổng Trác. Trác mặc áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, ngã xuống xe, Trác gọi to lên rằng: - Con ta Phụng Tiên đâu? Lã Bố đứng ở đằng sau, nghe thấy tiếng gọi đến tên, bèn thét lên một tiếng rồi chạy ra nói rằng: - Nay ta vâng chiếu vua giết thằng giặc này! Một ngọn kích đâm trúng ngay cổ họng Đổng Trác. Lý Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách lên. Lã Bố tay trái cầm kích, tay phải thò vào bọc, lấy tờ chiếu ra, nói to lên rằng: - Phụng chiếu vua, giết được tặc thần là Đổng Trác, còn các người khác tha cho cả! Các tướng sĩ đều reo: - Vạn tuế! Đời sau có thơ rằng: Bá nghiệp thành công hoá đế vương Không thành cũng vẫn được giàu sang Ai biết lòng trời không thiên vị My Ổ thành ra đất nát hoang. Lã Bố lại hô lên rằng: - Giúp Đổng Trác làm điều tàn ngược, đều tự Lý Nho cả, ai đi bắt nó cho ta? Lý Túc xin đi. Chợt nghe có tiếng reo ngoài cửa triều rồi có người vào báo rằng: - Người nhà Lý Nho đã trói Lý Nho đem lại nộp. Vương Doãn sai điệu Nho ra chợ chém; rồi lại sai đem đầu và thây Đổng Trác đi diễu, loan báo khắp các ngả đường cho mọi người cùng biết. Thây Trác to béo; quân sĩ lấy mồi cắm vào rốn đốt lửa làm đèn, mỡ chảy đầy cả ra đường cái; nhân dân ai đi qua cũng lấy gạch đá ném vào đầu, lấy chân đạp vào thây. Vương Doãn lại sai Lã Bố cùng với Hoàng Phủ Tung, Lý Túc lĩnh năm vạn quân đến My Ổ bắt người nhà Đổng Trác và tịch biên gia sản. Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù, nghe tin Trác đã chết, mà Lã Bố thì sắp đến My Ổ, liền dẫn quân phi hùng, ngay đêm hôm ấy chạy ra Lương Châu. Lã Bố đến My Ổ, trước hết tìm Điêu Thuyền. Hoàng Phủ Tung sai đem những con gái nhà lương thiện bị Đổng Trác bắt hiếp vào làm tỳ thiếp, tha cho về nhà cả. Còn bao nhiêu họ hàng thân thuộc nhà Đổng Trác, không cứ lớn bé già trẻ đều đem ra giết sạch. Mẹ Trác cũng bị giết, em Trác là Đổng Mân, cháu Trác là Đổng Huy cũng bị chém, đầu bêu đi các ngã ba. Lại tịch thu những của cải chứa ở trong nhà, vàng vài mươi vạn lạng, bạc vài trăm vạn lạng; vóc, nhiễu, châu báu, đồ đạc không biết bao nhiêu mà kể. Xong rồi Tung về báo để Vương Doãn biết. Doãn khao thưởng quân sĩ thực to, mở tiệc yến ở lễ đường tướng phủ, họp cả các quan lại uống rượu ăn mừng. Đang ăn bỗng có người vào báo rằng: - Thây Đổng Trác đang phơi ở chợ, bỗng có một người đến cúi xuống thây khóc vang lên. Doãn giận lắm, quát rằng: - Giết được Đổng Trác, quan dân ai ai cũng mừng cả, đứa nào lại dám khóc? Võ sĩ đâu, ra trói cổ nó điệu vào đây ta hỏi! Một lát quân dẫn người khóc vào, tưởng là ai, hoá ra quan thị trung Sái Ung, Doãn tức giận nói: - Nay trừ được thằng giặc Đổng Trác đi, là may cho xã tắc lắm. Người là bề tôi nhà Hán, đã không mừng cho xã tắc, lại khóc thằng giặc là cớ làm sao? Ung xin nhận tội nói rằng: - Tôi tuy chẳng ra gì, cũng có biết đôi điều nghĩa lớn lẽ đâu lại theo Đổng Trác. Nhưng vì tôi với Trác có chút ơn tri ngộ nên tôi tự cảm xúc thương khóc. Tôi cũng biết như thế là có tội nặng. Nhưng xin ngài hãy rộng thứ cho: Nếu bị thích chữ vào mặt, vào chân nhưng vẫn được sống chép nốt pho Hán sử để chuộc tội, thì may cho tôi quá! Các quan tiếc Ung là người tài, ai cũng cố sức nói hộ. Quan thái phó là Mã Nhật Đê cũng ghé vào tai Doãn nói thầm rằng: - Sái Ung là người tài, không mấy đời có được. Để cho hắn sống làm nốt pho Hán sử cũng là một điều hay! Vả lại Ung là một người hiếu hạnh, nay đem giết đi, e mất lòng thiên hạ. Doãn nói: - Ngày xưa, vua Hiếu Vũ không giết Tư Mã Thiên, sau để cho Tư Mã Thiên chép nốt sách sử, vì thế cho nên mới có sách sử gièm pha truyền đến bây giờ. Nay đang lúc vận nước suy yếu, chính sự nhầm lẫn, không nên để kẻ nịnh thần cầm bút ở bên mình ấu chúa, chúng ta sẽ bị nó chê cười. Mã Nhật Đế không nói gì nữa, đi trở ra, nói riêng với các quan rằng: - Vương Doãn cũng không toàn mệnh được đâu! Người hiền là rường mối nhà nước, sách sử là điển cố nhà nước. Bỏ cả rường mối, dứt cả điển cố, bền lâu làm sao được? Doãn không nghe lời Mã Nhật Đê, sai bỏ Sái Ung vào ngục, bắt phải thắt cổ chết. Các sĩ phu bấy giờ nghe thấy chuyện, ai cũng thương khóc. Người đời sau bàn rằng Ung khóc Đổng Trác đã là không phải, nhưng Doãn giết Ung thì cũng là quá lắm. Có thơ than Ung rằng: Đổng Trác chuyên quyền thực bất nhân Ung sao rước lấy vạ vào thân? Bây giờ Gia Cát nằm trong núi Đâu chịu ra thờ kẻ loạn thần. Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù trốn sang Thiểm Tây, sai người đến Trường An, dâng biểu xin tạ tội. Vương Doãn nói: - Đổng Trác làm loạn, là bởi bốn đứa giúp cả. Nay tuy đại xá thiên hạ, duy bốn đứa ấy, không thể tha được. Sứ giả về báo Lý Thôi, Thôi nói: - Xin tha không được, thì cùng đi trốn cả là xong! Mưu sĩ là Giả Hủ bàn rằng: - Các ông bỏ quân mà đi trốn một mình thì chỉ một người đình trưởng, cũng bắt trói lại được. Chi bằng ta tụ tập người Thiểm Tây và quân mã của mình, kéo thẳng vào Trường An đánh báo thù cho Đổng công. Được ra thì lấy danh nghĩa triều đình mà hiệu lệnh thiên hạ. Ngộ thua, bấy giờ sẽ chạy cũng chưa muộn. Bọn Lý Thôi lấy làm phải, liền nói phao lên ở Tây Lương rằng: - Vương Doãn muốn giết sạch cả người Tây Lương Dân chúng đều sợ hãi. Lũ Lý Thôi lại nói khích rằng: - Chịu chết uổng công vô ích, có ai theo ta làm phản không? Dân chúng xin theo cả. Bởi thế lũ Lý Thôi một được hơn mười vạn quân, chia làm bốn đường, kéo vào Trường An. Đi đường lại gặp con rể Đổng Trác là trung lang tướng Ngưu Phụ, đem năm nghìn quân đi báo thù cho bố vợ. Lý Thôi hợp hai toán làm một, sai Phụ làm tiền khu đi trước, bốn tướng dần dần kéo đi sau. Vương Doãn nghe thấy binh Tây Lương kéo đến bèn bàn với Lã Bố, Bố nói: - Tư đồ đừng lo. Tôi coi chúng nó như đàn chuột. Rồi cùng với Lý Túc đem quân ra. Túc đi trước nghênh địch, cùng Ngưu Phụ đánh nhau một trận. Phụ chống không nổi thua chạy. Chẳng ngờ canh hai đêm hôm ấy, nhân lúc Túc không phòng bị, Ngưu Phụ kéo quân đến cướp trại Lý Túc. Quân Túc rối rít bỏ chạy ra hơn ba mươi dặm, chết mất quá nửa. Túc vào ra mắt Lã Bố. Bố nổi giận mắng rằng: - Sao mày dám làm mất nhuệ khí của ta? Nói rồi liền chém Lý Túc, treo đầu ở cửa quân. Hôm sau Lã Bố tiến binh, cùng Ngưu Phụ đối địch. Phụ địch sao nổi được Bố, cho nên lại thua chạy. Đêm hôm ấy Ngưu Phụ gọi tướng tâm phúc tên là Hồ Xích Nhi bảo rằng: - Lã Bố kiêu dũng lắm, thế khó địch nổi. Sao bằng ta không cho bọn Lý Thôi biết, ngầm giấu vàng bạc, châu báu đem dăm ba người thân tín bỏ trốn đi. Hồ Xích Nhi ưng thuận. Ngay đêm hôm ấy Ngưu Phụ nhặt nhanh vàng bạc, châu báu, bỏ trại đi, chỉ đem ba bốn người đi theo. Đi đến một con sông, lúc súc qua đò, Xích Nhi trông thấy của cải ngốt mắt, muốn chiếm lấy một mình, liền giết Ngưu Phụ đem đầu Phụ đến dâng Lã Bố. Bố hỏi đầu đuôi người đi theo khai rằng: “Xích Nhi giết Phụ để lấy của”, Bố giận, lập tức giết ngay Xích Nhi. Lã Bố dẫn quân tiến lên, gặp ngay quân mã Lý Thôi kéo đến. Bố không đợi cho bày trận, vác kích tế ngựa thúc quân xông vào, quân Lý Thôi không chống được, lui hơn năm mươi dặm, dựa vào sườn núi cắm trại. Lý Thôi cho mời Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lại bàn rằng: - Lã Bố tuy khoẻ nhưng vô mưu, không lo sợ mấy. Nay ta đóng quân ở cửa hang, mỗi ngày ra khiêu chiến một lần. Quách tướng quân thì lĩnh quân đánh ở mặt sau, bắt chước lối Bành Việt quấy rối Sở ngày xưa. Nghe khua chiêng thì tiến binh, nghe đánh trống thì rút quân. Trong khi ấy thì hai ông chia quân ra hai đường, đi tắt vào lấy Trường An. Bên nó đầu cuối không tiếp ứng được nhau, tất nhiên sẽ thua. Mọi người dùng kế ấy. Lã Bố dẫn quân đến dưới núi, Lý Thôi đem binh ra đánh. Bố hầm hầm xông vào trận. Thôi lui chạy lên núi. Trên núi tên đá bắn xuống như mưa. Bố không lên được. Chợt có người báo rằng: - Quách Dĩ ở đằng sau đánh lại. Bố vội vàng quay lại đánh, nhưng nghe thấy tiếng trống vang lên, quân Dĩ đã lui rồi. Bố vừa toan thu quân, thì một chiêng khua, quân Thôi trên núi lại đánh xuống. Bố chưa kịp đối địch, đằng sau Quách Dĩ lại tiến lên đánh. Khi Lã Bố trở lại thì Dĩ lại đánh trống rút quân về. Lã Bố tức đầy ruột, ròng rã bốn hôm. Bố muốn đánh không đánh được, muốn thôi cũng không thôi được. Đang lúc tức mình có thám mã lại báo rằng: - Trương Tế, Phàn Trù, hai cánh quân mã kéo vào Trường An, kinh thành nguy cấp lắm! Bố vội vàng thu quân về. Lý Thôi, Quách Dĩ nhân thế đánh dấn lại. Bố vội quá không tham đánh nữa chỉ tháo đường chạy về kinh cho nhanh, người ngựa xốn xáo tổn thất khá nhiều. Khi Bố về đến Trường An, thấy quân giặc đông nghịt, Bố đánh không được. Quân sĩ thấy Bố hung bạo, bỏ đi theo giặc khá nhiều, Bố lo lắm. Vài hôm sau, dư đảng của Đổng Trác là Lý Mông, Vương Phương ở trong thành làm nội công cho giặc, mở trộm cửa thành, bốn mặt giặc kéo ùa cả vào. Lã Bố hết sức chống cự không nổi, dẫn vài trăm quân kỵ mã đến trước cửa Thanh Toà, gọi Vương Doãn bảo rằng: - Thế nguy cấp lắm rồi, xin tư đồ lên ngựa, cùng ra cửa quan với tôi, ta sẽ tìm kế khác. Doãn cứ vững vàng nghiêm chỉnh như không, nói rằng: - May ra nhờ thần linh xã tắc, nhà nước được yên, là sở nguyện của tôi; nếu không tôi xin đem thân cùng chết với nước. Gặp hoạn nạn mà bỏ trốn tránh để thoát lấy thân, thì tôi không làm. Xin Ôn hầu vì tôi mà nói với các bạn ở Quan Đông hết sức lo tính việc nước. Lã Bố hai ba lần giục, Doãn nhất định không đi. Được một lúc, các cửa thành lửa cháy ngùn ngụt, Lã Bố phải bỏ cả vợ con, dẫn hơn một trăm quân kỵ mã, chạy ra ngoài cửa ải, đi theo Viên Thuật. Lý Thôi, Quách Dĩ thả cho quân tha hồ cướp bóc, Quan thái thường khanh Chủng Phất, quan thái bộc Lỗ Quỳ, quan đại hồng lô Chu Hoàn, thành môn hiệu uý Thôi Liệt, việt kỵ hiệu uý Vương Kỳ đều chết vì nạn nước. Quân giặc vây kín nội đình. Các thị thần xin vua lên cửa Tuyên Bình để dẹp loạn. Lúc vua lên cửa, lũ Lý Thôi trông thấy lọng vàng, liền dừng ngựa lại, miệng hô vạn tuế. Vua Hiến đế đứng lên lầu hỏi rằng: - Các ngươi chưa tâu xin, dám tự tiện vào Trường An, ý các ngươi muốn làm gì? Thôi, Dĩ ngẩng lên tâu rằng: - Muôn tâu bệ hạ, Đổng thái sư là bầy tôi nhà vua, tự dưng bị Vương Doãn mưu giết. Nay chúng tôi đến tìm Vương Doãn để báo thù cho Đổng công, chứ không dám làm phản. Chúng tôi được trông thấy Vương Doãn xin rút quân ngay. Vương Doãn bấy giờ đứng ở cạnh vua, nghe thấy nói thế tâu rằng: - Tôi nguyện vì nước giết Trác. Nay chẳng may sự đến thế này, xin bệ hạ đừng tiếc tôi mà lỡ việc nước ra. Tôi xin xuống gặp hai tên giặc. Vua dùng dằng không nỡ. Doãn từ trên lầu Tuyên Bình nhảy xuống đất, quát to rằng: - Vương Doãn đây! Lý Thôi, Quách Dĩ rút gươm ra mắng rằng: - Đổng thái sư tội tình gì mà mày giết? Doãn nói: - Tội Đổng Trác đầy trời suốt đất, nói sao cho xiết. Hôm nó chết ở Trường An, từ quan chí dân, ai là không mừng, chúng bay lại không biết à? Thôi, Dĩ lại hỏi rằng: - Ừ, như thái sư có tội đã đành, chúng tao có tội gì, sao xin tha cũng không được? Vương Doãn chửi rầm lên mà mắng rằng: - Nghịch tặc nói làm chi cho lắm! Vương Doãn tao chỉ chờ chết mà thôi. Thôi, Dĩ giết Doãn ngay dưới lầu. Sử quan có thơ khen Vương Doãn rằng: Vương Doãn bày mưu hay Gian thần bị giết ngay Thương dân nên tức ruột Xót nước lại chau mày Sao tỏ, lòng trung giãi Mây cao, khí nghĩa đầy Đến nay hồn vía ấy Quanh quất Phượng lâu này. Lũ Lý Thôi giết Vương Doãn xong rồi, một mặt sai người bắt cả họ hàng nhà Doãn giết sạch. Sĩ dân ai nấy đều thương khóc, Lý, Quách lại bàn nhau rằng: - Đã đến thế này, còn vua không giết nốt để mưu việc lớn, còn đợi đến bao giờ? Hai đứa cầm gươm reo to, kéo vào trong cung. Thế rõ thực: Đầu sỏ tạ tội, tai nạn hết Gặp quân tặc đảng lại sinh nguy. Chưa biết tính mạng vua Hiến đế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.[/SPOIL]
Tam Quốc diễn nghĩa - La Quán Trung Hồi 10 Giúp nhà vua, Mã Đằng khởi nghĩa; Báo thù bố, Tào Tháo cất quân [SPOIL] Lý Thôi, Quách Dĩ hai đứa muốn giết vua Hiến đế. Trương Tế, Phàn Trù can rằng: - Không nên! Nay ta vội giết vua như thế, tôi e rằng thiên hạ không phục. Không bằng cứ để đấy, rồi dụ chư hầu vào trong cửa quan: trước hết trừ hết vây cánh, rồi sau ta sẽ liệu, như thế mới tính xong được việc thiên hạ. Lý Thôi, Quách Dĩ nghe lời bèn đóng quân lại. Vua ở trên lầu phán hỏi rằng: - Vương Doãn đã bị giết rồi, sao quân mã chưa rút? Lý Thôi, Quách Dĩ thưa rằng: - Muôn tâu bệ hạ, chúng tôi có công với nhà vua, chưa được phong tước, cho nên chưa dám lui quân. Vua phán hỏi: - Các người muốn được phong tước gì? Lý, Quách, Trương, Phàn bốn đứa cầu phong chức hàm gì, đều tự tay viết ra dâng lên, đòi vua phải phong như thế. Vua bắt buộc phải nghe theo: 1. Lý Thôi làm sa kỵ tướng quân, Trì Dương hầu, lĩnh chức tư lệ hiệu uý, được dùng cờ tiết, lưỡi phủ việt. 2. Quách Dĩ, làm hậu tướng quân, Mỹ Dương hầu, cũng được dùng cờ tiết, lưỡi phủ việt. Hai người cùng giữ quyền chính trong triều. 3. Phàn Trù, làm hữu tướng quân, Vạn Niên hầu. 4. Trương Tế, làm phiêu kỵ tướng quân, Binh Dương hầu. Trương, Phàn hai người lĩnh binh ra đóng đồn ở Hoằng Nông. Còn lũ Lý Mông, Vương Phương đều được phong làm hiệu uý. Bọn ấy lại sai người đi tìm đầu và thây Đổng Trác. Tìm được ít nhiều da xương vụn nát, chúng lấy gỗ thơm, khắc thành hình thể, chắp ghép đâu vào đấy, cúng tế thực to, áo mũ quan quách, dùng theo đám ma nhà vua, chọn ngày tốt làm lễ cất đám rước sang táng ở My Ổ. Táng xong, bỗng nhiên trời nổi sấm sét, mưa to gió lớn, mặt đất ngập sâu vài thước. Một tiếng sét đánh vào áo quan Đổng Trác, đầu và thây bật cả ra ngoài. Lý Thôi đợi tạnh mưa, lại đem táng lại. Đêm hôm ấy trời lại mưa to, sấm sét lại đánh vào áo quan Trác như trước; ba lần cải táng không xong, da xương thịt vụn Đổng Trác bị mấy lần sét đánh tan tành. Lý Thôi, Quách Dĩ cầm được quyền chính, tàn đãi dân chúng, trăm họ khổ sở điêu đứng. Chúng lại mật sai những người tâm phúc hầu bên cạnh vua để dò la ý tứ. Vua Hiến đế bấy giờ như ngồi trên chông gai. Các quan trong triều thăng giáng đều do hai đứa Thôi, Dĩ cả. Muốn thu phục lòng người, chúng mời Chu Tuấn vào triều, phong làm chức thái bộc, cho dự triều chính. Một hôm có người báo rằng: - Thái thú Tây Lương là Mã Đằng, thái sử Tịnh Châu là Hàn Toại, hai người dẫn hơn mười vạn quân, kéo đến Trường An, nói rằng vào để đánh giặc. Hai người ấy vốn đã có sai người vào Trường An, mật kết với thị trung là Mã Vũ, gián nghị đại phu là Chủng Thiệu, tá trung lang tướng là Lưu Phạm, để ba người ấy làm nội ứng. Ba người mật tâu với vua phong cho Mã Đằng làm chỉnh tây tướng quân, Hàn Toại làm chấn tây tướng quân, trao cho mỗi người một tờ mật chiếu, sai hợp sức nhau lại để đánh giặc. Lý, Quách, Trương, Phàn nghe tin hai cánh quân ấy sắp đến, họp nhau để bàn. Mưu sĩ là Giả Hủ nói rằng: - Hai đám quân ấy từ xa đến, chỉ nên đắp thành cao, hào sâu, cố thủ để chống lại, bất quá chỉ độ trăm ngày, chúng cạn lương là phải rút. Bấy giờ ta sẽ kéo quân đuổi theo, chắc chắn bắt được. Lý Mộng, Vương Phương nói rằng: - Kế ấy không hay. Chúng tôi xin lĩnh một vạn tinh binh ra đánh, lập tức chém đầu Mã Đằng, Hàn Toại dâng dưới cờ. Giả Hủ nói: - Hễ mà đánh nhau, tất ta thua! Hai người bảo Hủ rằng: - Nếu hai chúng tôi thua, xin chịu chém đầu. Nhưng nếu chúng tôi được, ông cũng phải nộp đầu cho chúng tôi. Hủ mới bảo Lý Thôi, Quách Dĩ rằng: - Ở phía tây Trường An, ngoài hai trăm dặm, có núi Trập Chất, đường ấy hiểm trở, nên sai Trương Tế, Phàn Trù hai tướng ra đóng đồn ở đấy giữ cho vững, rồi hãy để mặc Lý Mông, Vương Phương lĩnh quân ra đánh. Lý, Quách nghe lời, điểm một vạn rưởi quân mã giao cho Lý Mông, Vương Phương. Hai người mừng rỡ, đem quân đi, ra khỏi Trường An hai trăm tám mươi dặm hạ trại đóng quân ở đó. Quân Tây Lương đến, hai người dẫn quân ra đánh. Lúc hai bên dàn trận rồi, Mã Đằng, Hàn Toại sóng ngựa cùng ra trước trận, trỏ Lý Mông, Vương Phương nói rằng: - Giặc phản nước kia, ai ra bắt lấy nó! Nói chưa dứt lời, có tướng trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, tay cầm một ngọn giáo dài, mình cưỡi con ngựa đẹp đẽ từ trong trận tế ra. Tướng ấy vốn là con Mã Đằng, tên Mã Siêu, tự là Mạnh Khởi, mới có mười bảy tuổi, khoẻ mạnh không ai bằng. Vương Phương thấy Siêu còn bé khinh thường, nhảy ngựa lại đánh. Chưa được mười hiệp, Mã Siêu đâm Phương chết ngã xuống đất, rồi quay ngựa trở về. Lý Mông thấy Phương chết, tế ngựa theo sau Mã Siêu để đánh trả thù. Siêu cứ lững thững đi trở về làm ra vẻ không biết. Mã Đằng ở cửa trận gọi to: “Đằng sau có người đuổi theo”. Đằng nói chưa dứt lời, đã thấy Mã Siêu bắt sống Lý Mông ngay ở trên mình ngựa. Té ra Siêu vẫn biết có Mông đuổi, lờ như không trông thấy, đợi cho Mông đến, phóng dao ra đâm. Siêu mới tránh sang một bên, Mông đâm hụt, hai con ngựa giáp nhau. Siêu bấy giờ mới quờ tay vượn ra bắt sống được Mông. Quân Lý Mông không có chủ, chạy trốn tán lạc cả. Mã Đằng, Hàn Toại thừa thế đuổi đánh, thắng to, xông thẳng đến cửa thành hạ trại rồi đem Lý Mông ra chém bêu đầu. Lý Thôi, Quách Dĩ thấy Mông, Phương cùng bị giết cả, mới tin là Giả Hủ có tài biết trước, bấy giờ mới nhất định dùng kế của Hủ, chỉ giữ vững các cửa thành, mặc bên kia khiêu chiến thế nào cũng không ra. Quả nhiên chưa được hai tháng, quân Mã Đằng, Hàn Toại cạn lương, hai tướng phải bàn nhau rút quân về. Giữa lúc ấy thì ở trong thành đầy tớ Mã Vũ ra thú với lũ Lý, Quách, kháo rằng chủ nó cùng với Lưu Phạm, Chủng Thiệu liên kết với Mã Đằng, Hàn Toại để làm nội ứng. Lý, Quách giận lắm bắt hết cả già trẻ, lớn bé ba nhà đem ra chợ chém, rồi mang ba đầu lâu ra bêu trước cửa thành. Mã Đằng, Hàn Toại thấy quân lương đã hết, nội ứng lại bị tiết lộ, phải nhổ trại đem quân về. Lý, Quách sai Trương Tế đem quân đuổi Mã Đằng, sai Phàn Trù đem quân đuổi Hàn Toại. Quân Tây Lương thua to, may được Mã Siêu đi hậu quân đánh lùi được quân Trương Tế. Phàn Trù đuổi Hàn Toại, dần dần đuổi kịp, gần đến Trần Thương, Hàn Toại quay ngựa lại bảo Trù rằng: - Tôi với ông người cùng làng với nhau, nay sao vô tình quá thế! Trù thấy nói dừng ngựa lại nhìn rồi nói rằng: - Có lệnh trên sai, ta phải tuân theo! Toại lại nói: - Tôi lại đây cũng vì việc nước, sao lại quá bức bách nhau như thế? Trù nghe xong quay ngựa lại, thu quân trở về, để cho Toại đi. Không ngờ có cháu Lý Thôi là Lý Biệt đi theo sau, thấy Phàn Trù tha Hàn Toại, về mách với chú. Thôi giận lắm muốn đem binh ra đón đánh Phàn Trù. Giả Hủ lại can rằng: - Nay nhân tâm chưa được yên, mà cứ dấy binh mãi mãi không nên, sao bằng mở một tiệc rượu, mời Trương, Phàn đến để mừng công, rồi đang cuộc rượu bắt Trù đem chém chẳng phải khó nhọc gì. Lý Thôi ưng theo kế ấy, bèn mở tiệc mời hai người đến. Trương, Phàn hớn hở đến ăn yến. Đang giữa tiệc Lý Thôi sầm mặt lại rồi hỏi rằng: - Phàn Trù sao dám tư thông với Hàn Toại, định làm phản hay sao? Trù giật nảy mình, chưa kịp trả lời thì mấy tay đao phủ đã vào kéo Trù ra, chém ngay trước tiệc. Trương Tế trông thấy khiếp đảm, cúi rạp xuống tận đất. Lý Thôi nâng Tế dậy mà nói rằng: - Trù mưu phản, nên ta phải giết. Người là tâm phúc với ta, việc gì mà sợ. Nói rồi Thôi đem quân của Trù, giao cho Tế quản lĩnh. Tế dẫn quân về Hoằng Nông. Từ khi Lý Thôi, Quách Dĩ đánh được quân Tây Lương, chư hầu không ai dám chống lại. Giả Hủ lại khuyên rằng: - Phải cốt giữ cho dân được yên; phải thu dùng những người hiền tài. Từ bấy giờ trở đi triều đình mới hơi thấy có vẻ dễ chịu. Nhưng không ngờ lại có đám giặc Khăn Vàng ở Thanh Châu nổi dậy, tụ quân vài mươi vạn khởi loạn, cướp bóc của dân. Thái bộc là Chu Tuấn xin tiến cử một người để đi dẹp giặc. Thôi, Dĩ hỏi ai. Tuấn nói: - Muốn phá giặc Sơn Đông, phi Tào Tháo không xong. Lý Thôi nói: - Bây giờ Tào Tháo ở đâu? Chu Tuấn thưa: - Hiện Tháo đang làm thái thú Đông Quận, trong tay có nhiều quân sĩ, giá sai người này đi đánh giặc, thì không mấy bữa giặc sẽ tan. Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm hôm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Đông Quận, sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc. Tháo vâng chiếu họp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương. Pháo Tín vào đất giặc, bị giặc giết chết. Còn Tào Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc hàng vài vạn người. Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu, giặc hàng đến đấy. Mới được hơn một trăm ngày chiêu an được hơn bốn mươi vạn quân hàng. Vừa đàn ông, đàn bà kéo lại theo Tháo hơn một triệu người. Tháo tuyển lấy những quân tinh nhuệ, đặt riêng một cánh quân gọi là quân Thạch Châu, còn bao nhiêu đuổi về cho làm ruộng. Từ đó uy danh Tào Tháo mỗi ngày một lừng lẫy, tiếng đồn về đến tận kinh, triều đình phong cho Tháo làm Chấn đông tướng quân. Tào Tháo ở Duyện Châu chiêu mộ thu dùng những người hiền sĩ. Ở làng Dĩnh Âm châu Dĩnh Xuyên, có một nhà hai chú cháu cùng đi theo Tào Tháo. Người chú họ Tuân tên Úc, tự là Văn Nhược, nguyên là con Tuân Côn. Úc trước đã thờ Viên Thiệu, bây giờ bỏ Thiệu về với Tháo. Tháo cùng Úc nói chuyện xong rồi mừng lắm nói rằng: “Người này là Tử Phòng[1] của ta đây!”, rồi cho làm hành quân tư mã. Người cháu tên là Tuân Du, tên chữ là Công Đạt, vốn có tiếng là một danh sĩ, trước đã làm hoàng môn thi lang, sau bỏ quan về làng, nay theo chú sang với Tào Tháo. Tháo cho làm hành quân giáo thụ. Tuân Du lại nói với Tháo rằng: - Tôi nghe ở Duyện Châu có một người hiền sĩ, vốn ở Đông An, họ Trình tên Dục, tự là Trọng Đức, nhưng không biết bây giờ ở đâu? Người ấy chúa công nên dùng. Tháo nói: - Ta đã biết tiếng Trình Dục từ lâu. Nói rồi sai người về tận Đông An để hỏi cho được, thấy họ bảo rằng: Trình Dục đang ở trong núi đọc sách. Tháo cho mời ra, Trình Dục đến bái kiến, Tháo mừng lắm. Dục lại bảo với Tuân Úc rằng: - Tôi là người quê kệch, học hành chưa được mấy, không xứng đáng với sự tiến cử của ông. Nay tôi biết có một người cùng làng với ông, tên là Quách Gia, tự là Phụng Hiếu, người ấy thực là hiền sĩ thời nay. Sao ông không triệu ra? Úc sực nhớ đến nói rằng: - Suýt nữa tôi quên mất người ấy! Úc nói chuyện ngay với Tháo. Tháo cho đi mời Quách Gia. Gia đến Duyện Châu bàn việc thiên hạ với Tào Tháo, rồi lại tiến Tháo một người nữa, dòng dõi vua Quang Vũ, người Thanh Đức, họ Lưu tên Hoa, tự là Tử Dương. Tháo cho mời Hoa đến. Hoa lại tiến hai người nữa, một người ở Sương Ấp, họ Mãn tên Sủng, tự là Bá Ninh; người nữa ở Vũ Thành, họ Lã tên Kiền, tự là Tử Khác. Tháo cũng đã biết tiếng hai người ấy, cho nên đặt ngay làm trung quân tùng sự. Hai người lại tiến Tháo một người nữa, họ Mao tên Giới, ở Bình Kỳ, tự là Hiếu Tiên. Tháo cũng cho làm tùng sự. Được ít bữa lại có một tướng nữa, đem vài trăm quân mã lại xin theo Tháo, người ở Cự Binh, tên là Vu Cấm, tự là Văn Tắc. Tháo thấy người ấy bắn cung cưỡi ngựa giỏi, võ nghệ hơn người, liền cho làm điển quân tư mã. Một hôm Hạ Hầu Đôn lại dắt một người cực to lớn lại ra mắt Tào Tháo. Tháo hỏi ai, Đôn thưa rằng: - Người ấy ở Trần Lưu, họ Điển tên Vi, sức khoẻ không ai địch nổi. Trước Vi đã theo Trương Mạc, liền giết vài mươi người rồi trốn vào núi ở. Tôi đi săn gặp Điển Vi đang đuổi hổ nhảy qua suối, nay tôi đem về dâng chúa công. Tháo nói: - Ta xem người này tướng mạo khôi ngô, tất là người có sức khoẻ. Đôn lại nói: - Điển Vi từng báo thù cho bạn, giết người xách đầu ra ngoài chợ, hàng mấy trăm người không dám đến gần. Y sử dụng được hai ngọn kích sắt, nặng hơn tám mươi cân, cắp ngồi trên ngựa, vung múa nhẹ như bay. Tào Tháo lập tức sai Vi ra thử kích. Vi cắp đôi kích lên ngựa nhẹ nhàng đi lại như bay. Bỗng bấy giờ có một cơn gió to, lá cờ lớn trồng dưới trướng lung lay sắp đổ. Quân sĩ lại xúm xít ôm giữ không nổi. Điển Vi thấy vậy, từ trên ngựa nhảy xuống, quát to một tiếng, đuổi quân sĩ lui ra, rồi một tay nắm chắc lấy, cột cờ đứng im phăng phắc giữa luồng gió. Tháo thấy thế mừng nói rằng: - Người này thực là Ác Lai[2] ngày xưa đây! Liền cho làm tướng đô uý, cởi ngay áo gấm đang mặc cho Điển Vi, lại cho thêm một con ngựa thực tốt và một bộ yên chạm. Từ bấy giờ bộ hạ Tào Tháo, văn có người tài, vũ có tướng giỏi, uy danh lừng lẫy cả Sơn Đông. Tháo bèn sai thái thú Thái Sơn là Ung Thiệu, về quân Lương Gia đón bố là Tào Tung. Tung trước ở Trần Lưu, từ khi loạn lánh sang ở Lương Gia. Bấy giờ tiếp được thư bèn cùng em là Tào Đức và người nhà hơn bốn mươi người, lại đem hơn một trăm đầy tớ, ngồi mấy trăm cỗ xe, kéo nhau về Duyện Châu. Lúc đi qua Từ Châu, quan thái thú ở đấy là Đào Khiêm, tên chữ là Cung Tổ, người ôn hậu hoà nhã, vốn xưa nay vẫn muốn làm quen với Tào Tháo, nay thấy bố Tào Tháo đi qua địa hạt mình bèn thân hành ra đón chào lạy cung kính, mở tiệc khoản đãi mấy ngày liền. Lúc Tung đi, Khiêm thân đưa ra khỏi thành, rồi lại sai đô uý là Trương Khải đem năm trăm bộ binh đi hộ tống. Khi Tung và người nhà đi đến địa giới đất Hoa và Phí, bấy giờ vào cuối hạ sang thu, bỗng gặp cơn mưa to, phải vào nghỉ nhờ một ngôi chùa. Sư tăng trong chùa ra tiếp. Tung thu xếp cho người nhà nơi ăn chỗ nghỉ, rồi sai Trương Khải đem quân mã đóng hai bên hành lang chùa. Bị mưa ướt cả quần áo và hành trang, quân sĩ đều kêu ca oán thán. Trương Khải mới gọi những đầu mục thủ hạ đến một chỗ vắng và bảo rằng: - Chúng ta vốn là dư đảng Khăn Vàng, bất đắc dĩ phải đầu hàng Đào Khiêm. Từ ấy đến giờ chưa thấy được lợi lộc gì. Nay của cải nhà họ Tào chất đầy bao nhiêu xe cộ, các anh em muốn phú quý, cũng chẳng khó gì. Canh ba đêm hôm nay, chúng ta bổ cửa chùa vào giết hết cả nhà Tào Tung, lấy sạch của cải, rồi ta lại cùng nhau về rừng làm nghề lạc thảo, kế ấy anh em nghĩ thế nào? Quân sĩ đều cùng thuận cả. Đêm hôm ấy mưa gió chưa dứt. Tung đương ngồi bỗng nghe thấy bên ngoài bốn mặt có tiếng hò reo rầm rĩ. Tào Đức cầm gươm ra xem việc gì, bị đâm chết ngay. Tung vội vàng dắt một người thiếp chạy vào buồng phương trượng, định nhảy qua tường đi trốn, chẳng may phải người thiếp to béo không ra lọt. Tung vội vàng cùng người thiếp ẩn vào trong chuồng tiêu, rồi cả hai đều bị loạn quân giết mất. Ung Thiệu là người Tào Tháo sai đi đón bố, chạy thoát, sang ở với Viên Thiệu. Khải giết hết cả nhà Tào Tung, lấy sạch của cải, đốt chùa, đem năm trăm quân trốn về Hoài Nam. Đời sau có thơ rằng: A Man vốn có tiếng gian hùng Hại cả nhà Sa thật nhẫn lòng Bỗng chốc gặp ngay người khác hại Lòng giời báo ứng khiếp hay không? Bấy giờ bộ hạ Ung Thiệu có một người trốn được về báo với Tào Tháo. Tháo nghe tin khóc lăn xuống đất, mọi người vực dậy, Tháo nghiến răng lại nói rằng: - Đào Khiêm hỡi! Dám thả cho quân giết bố tao. Thù này mày với tao không đội trời chung được! Nay ta khởi hết đại quân, sang giết sạch cả Từ Châu mới hả được giận này! Liền sai Tuân Úc, Trình Dục lĩnh ba vạn quân ở lại giữ Nhân Thành, Phạm Huyện, Đông An, còn bao nhiêu quân kéo cả đến Từ Châu, sai Hạ Hầu Đôn, Vu Cấm, Điển Vi làm tiên phong. Tháo hạ lệnh rằng: - Hễ đánh được thành trì nào, bao nhiêu dân trong thành đều phải đem giết nhẵn để báo thù cho cha ta. Bấy giờ có thái thú ở Cửu Giang tên là Biên Nhượng vốn là bạn thân với Đào Khiêm, nghe thấy Từ Châu có nạn, đem năm nghìn quân lại cứu. Tháo nghe thấy giận lắm, sai Hạ Hầu Đôn đón đường giết chết Biên Nhượng. Trần Cung khi ấy làm tùng sự ở Đông Quận, chơi rất thân với Đào Khiêm, nghe thấy tin Tào Tháo khởi binh báo thù cho cha, định giết cả dân Từ Châu, sáng tinh sương hôm ấy đến xin vào ra mắt Tào Tháo. Tháo biết rằng Cung vào để nói cho Đào Khiêm, đã toan không tiếp sau lại nghĩ đến ân cũ nghĩa xưa, nên phải mời vào. Cung vào nói rằng: - Nay tôi nghe thấy ông đem đại binh đến Từ Châu, báo thù cho tôn phụ, ông định đi đến đâu giết sạch muôn dân, cho nên tôi đến đây xin trình bày một lời. Đào Khiêm vốn là hiền nhân quân tử, phải là tội của Trương Khải, chứ không phải là tội của Khiêm. Vả lại, dân chúng các châu huyện có thù gì với tướng quân, xin tướng quân nghĩ lại cho kỹ rồi sẽ làm. Tháo nổi giận nói rằng: - Trước kia ông đã bỏ ta mà đi, nay còn mặt mũi nào lại trông thấy nhau? Đào Khiêm nó giết cả nhà ta, ta thề moi ruột móc gan nó ra, mới hả được giận. Ông làm thuyết khách cho Đào Khiêm, nhưng ta chẳng nghe, thì làm thế nào? Trần Cung từ biệt Tào Tháo trở ra, than rằng: - Chuyến này ta cũng không mặt nào trông thấy Đào Khiêm nữa! Nói rồi giục ngựa sang với thái thú Trần Lưu là Trương Mạc. Tào Tháo đi đến đâu cũng cho quân tàn hại dân chúng đến đấy, đào mồ quốc mả người ta, ai ai cũng sợ. Đào Khiêm ở Từ Châu nghe thấy Tháo giết dân hại lắm, bèn ngửa mặt lên trời mà khóc rằng: - Ta để cho dân Từ Châu mắc phải nạn này, phải mang tội với trời đất! Rồi lập tức họp các quan lại để bàn. Tào Báo nói: - Quân Tào đã đến nơi, lẽ đâu ta lại ngồi khoanh tay mà chịu chết. Tôi xin giúp sứ quân phá giặc. Đào Khiêm bất đắc dĩ phải đem quân ra đón, xa trông thấy quân Tháo trắng xoá, tựa hồ như sương sa tuyết toả, ở trung quân dựng hai lá cờ trắng, trên đề bốn chữ to “Báo thù rửa hận”. Quân mã dàn thành thế trận, Tào Tháo cưỡi ngựa ra, mình mặc đồ tang trỏ roi thét mắng. Đào Khiêm cũng cưỡi ngựa ra dưới cửa cờ, nghiêng mình, vái mà nói rằng: - Ta vốn muốn kết hiếu với minh công, nên mới sai Trương Khải đi hộ tống. Không ngờ tướng giặc Trương Khải, ngựa quen đường cũ; đến nỗi xảy ra việc như thế. Quả tình tôi oan, xin minh công xét kỹ cho. Tháo quát mắng rằng: - Thằng già kia, mày đã giết bố tao, còn dám mở mồm? Ai ra bắt sống thằng giặc già kia vào đây! Hạ Hầu Đôn nhảy ra. Đào Khiêm vội vàng chạy về trận. Đôn xông lại. Tào Báo thúc ngựa ra đánh. Hai ngựa đang giao nhau, bỗng đâu nổi trận gió to, sỏi cát bay mù mịt; hai bên đều thu quân về. Đào Khiêm vào thành bàn với quân sĩ - Quân Tào thế to, khó địch lắm. Ta nên tự trói mình, thân đến dinh quân Tào, tuỳ nó hành tội, để cứu lấy dân trong quận Từ Châu! Khiêm nói chưa dứt lời, có một người tiến lên thưa rằng: - Sứ quân trấn thủ Từ Châu đã lâu, dân chúng ai cũng cảm phục. Nay quân Tào tuy nhiên, nhưng vị tất, đã phá được thành ngay. Sứ quân hãy cứ cùng với trăm họ giữ thành cho vững. Tôi tuy bất tài, nhưng dám hiến một kế nhỏ, làm cho Tào Tháo chết không có chỗ chôn. Ai nấy giật mình hỏi kế làm sao? Thế thực là: Bởi muốn cầu thân nên kết oán Ai hay đất tuyệt có đường sinh! Chưa biết người hiến kế là ai, xem đến hồi sau sẽ rõ.[/SPOIL]
Tam Quốc diễn nghĩa - La Quán Trung Hồi 11 Lưu hoàng thúc cứu Khổng Dung ở Bắc Hải; Lã Ôn hầu phá Tào Tháo thành Bộc Dương [spoil] Người hiến kế cho Đào Khiêm vốn là người ở Đông Hải, tên là My Chúc, tự là Tử Trọng. Chúc nguyên là con nhà hào phú, một bữa ra thành Lạc Dương mua bán, đi xe về đến nửa đường gặp một người con gái xinh đẹp xin cho đi xe nhờ. Chúc xuống đi bộ, nhường xe cho người con gái ấy ngồi. Người ấy cứ nhất định mời My Chúc lên ngồi. Chúc lên xe, ngồi thực nghiêm trang, mắt không trông ngang. Đi được vài dặm, người con gái xin xuống xe, từ giã My Chúc, nói rằng: - Ta là Hoả Đức tính quân ở phương nam, phụng mệnh Thượng đế xuống để đốt cháy nhà ngươi. Nay thấy ngươi đãi ta có lễ phép, nên ta bảo cho ngươi biết trước. Ngươi nên về nhà mau, dọn dẹp hết đồ đạc đi. Đêm nay ta sẽ đến. Nói rồi biến mất. Chúc thất kinh, vội vàng chạy về trong nhà có gì chạy đi hết. Tối hôm ấy quả nhiên trong bếp phát hoả, nhà cửa cháy hết. Chúc cũng vì thế mà đem gia tài phân tán, cứu giúp người nghèo khó. Về sau Đào Khiêm đón về cử làm biệt giá tùng sự. Bấy giờ My Chúc hiến kế rằng: - Tôi xin sang quận Bắc Hải cầu Khổng Dung đến cứu. Lại xin sai một người nữa sang Thanh Châu cầu cứu Điền Khải. Hai nơi ấy cho quân mã đến thì Tào Tháo tất phải lui. Khiêm nghe lời, viết hai bức thư, rồi hỏi: - Dưới trướng có ai dám sang Thanh Châu không? Một người xin đi, là Trần Đăng, tự là Nguyên Long, người Quảng Lăng. Nguyên Long đi rồi, My Chúc cũng đi sang Bắc Hải, Đào Khiêm tự mang quân giữ thành. Khổng Dung tự là Văn Cử, người làng Khúc Phụ, nước Lỗ, là cháu đời thứ hai mươi đức Khổng Tử; con quan đô uý thái sơn là Khổng Trụ. Dung vốn thông minh từ thuở nhỏ, năm lên mười tuổi Dung có vào yết kiến quan doãn ở Hà Nam tên là Lý Ung. Lúc đến cửa quan canh hỏi đi đâu Dung nói: - Ta là thông gia với Lý tướng. Khi vào đến nơi. Lý Ung mới hỏi: - Tổ mày có họ hàng gì với tổ nhà tao? Dung nói: - Ngày xưa Khổng Tử hỏi Lão Tử[1] về việc lễ, nhà Dung với nhà ông chẳng phải đời đời thông gia với nhau là gì? Ung lấy làm kỳ. Được một hồi, có thái trung đại phu là Trần Vĩ đến chơi. Ung trỏ vào Khổng Dung và nói rằng: - Thằng bé này là kỳ đồng! Trần Vĩ bĩu môi nói rằng: - Những đứa thuở nhỏ thông minh như thế, ngày sau lớn vị tất đã ra gì! Dung liền ứng đối ngay rằng: - Thưa ông, hẳn thuở nhỏ ông thông minh lắm! Cả bọn đi với Trần Vĩ cùng cười ồ lên mà nói rằng: - Người này lớn lên tất là người giỏi giang trong đời. Từ đấy Dung nổi tiếng, sau làm trung lang tướng, dần dần được làm thái thú Bắc Hải. Khổng Dung tính ưa thết khách, thường nói rằng: - Trên chỗ ngồi lúc nào cũng đông khách, trong hồ lúc nào cũng có rượu, thế là sướng nhất trần gian. Dung ở Bắc Hải được sáu năm, dân chúng rất là yêu mến. Hôm ấy Dung đương ngồi chơi với khách, có người vào báo rằng có My Chúc ở Từ Châu muốn vào hầu. Dung cho mời vào hỏi có việc gì, Chúc đưa thư của Đào Khiêm ra, rồi nói rằng: - Tào Tháo vây gấp lắm, xin minh công sang cứu cho. Dung nói: - Ta với Đào Cung Tổ là chỗ chí thân, vả Tử Trọng lại thân hành đến tận đây, lẽ đâu lại không cứu; nhưng ta với Tào Mạnh Đức không có thù gì. Vậy trước hết ta tưởng hãy nên sai người đưa thư giải hoà đã, nếu Tháo không nghe, bấy giờ ta sẽ khởi hành. Chúc nói: - Tào Tháo cậy có nhiều quân, quyết không chịu hoà. Dung liền sai một mặt thì điểm binh sẵn, một mặt cho người đưa thư cho Tào Tháo. Lúc đang bàn bạc, chợt có người báo rằng: - Có dư đảng của đám Khăn Vàng ngày xưa, tên là Quản Hợi, đem mấy vạn quân đến thành để khiêu chiến. Quản Hợi tế ngựa ra nói rằng: - Bắc Hải nhiều lương, cho ta vay một vạn hộc, ta sẽ lui quân ngay. Hễ không ta đánh phá thành trì, già trẻ sẽ không một người nào sống sót. Dung mắng mà nói rằng: - Ta là bầy tôi nhà Đại Hán, giữ đất của nhà Đại Hán, có đâu lại đem lương cho giặc. Quản Hợi giận lắm, múa đao tế ngựa nhảy thẳng vào đánh Khổng Dung. Tướng Dung là Tôn Bảo, vác giáo nhảy ra địch, được vài hiệp bị Hợi chém chết, quân Dung rối loạn, chạy cả vào thành, Hợi chia quân ra bốn mặt vây thành. Dung trong lòng bực tức, My Chúc cũng buồn chán lắm. Hôm sau, Khổng Dung lên thành trông thấy thế giặc lớn mạnh, càng thêm lo phiền. Chợt thấy một người cưỡi ngựa vác giáo xông vào đám giặc, tả xung hữu đột như vào chỗ không người, rồi chạy thẳng đến dưới thành, gọi to mở cửa. Dung không biết là ai, chưa dám mở cửa. Quân giặc sấn đến bờ hào, định vào giết người ấy, nhưng người ấy quay mình lại đâm một lúc chết luôn vài chục đứa. Chúng phải lui chạy cả. Dung bấy giờ mới sai mở cửa mời vào. Người ấy xuống ngựa, bỏ giáo, lên thẳng trên mặt thành, chào Khổng Dung. Dung hỏi tên họ, người ấy thưa rằng: - Tôi là người ở Hoàng Huyện, đất Đông Lai, họ là Thái Sử, tên là Từ, tự là Tử Nghĩa. Mẹ tôi được đội ơn ngài nhiều lắm. Hôm nọ tôi ở Liêu Đông về nhà thăm mẹ. Nghe tin giặc vây thành, mẹ tôi bảo tôi rằng: “Ta đã nhiều lần đội ơn ngài, nay con phải đi cứu”. Bởi vậy một mình tôi cưỡi ngựa đến đây. Khổng Dung mừng lắm. Nguyên khi trước Dung tuy không biết mặt Thái Sử Từ, nhưng vẫn biết tiếng là anh hùng. Nhân thấy Từ đi vắng xa, có mẹ già ở nhà, nhà cách thành hai mươi dặm, Dung thường sai người đem biếu gạo lụa. Bà mẹ cảm cái đức ấy nên sai con lại cứu. Dung kính trọng Thái Sử Từ hết lòng, tặng một bộ áo giáp, ngựa và yên. Từ nói: - Tôi xin mượn ngài một nghìn tinh binh nữa để ra ngoài thành phá giặc. Dung nói rằng: - Ông tuy khoẻ thực, nhưng thế giặc to lắm, không nên coi thường. Từ nói: - Mẹ tôi cảm hậu đức của ngài, nên sai tôi đến, nếu không phá được giặc, tôi cũng không còn mặt nào dám về trông thấy mẹ. Vậy xin cứ để tôi ra, quyết một trận tử chiến. Dung nói: - Ta nghe có Lưu Huyền Đức là anh hùng đời bấy giờ. Giá mà mời được Huyền Đức lại cứu, thì mới giải được vây. Chỉ hiềm chưa biết nhờ ai đi cho được. Từ nói: - Xin ngài viết thư, tôi xin mang đi! Dung mừng, viết thư giao cho Từ. Từ mặc áo giáp lên ngựa, lưng đeo cung tên, tay cầm giáo, ăn no, sắm sửa đủ, mở cửa thành, phi ngựa ra đi. Lúc gần đến bờ hào, quân giặc xúm vào đánh. Từ đâm luôn chết mấy đứa, vượt qua vòng vây chạy ra. Quản Hợi thấy có người ở trong thành ra, tất là đi cầu cứu, liền đem vài trăm quân kỵ đuổi theo, tám mặt vây lại. Từ dừng ngọn giáo, giương cung đặt tên, bắn cả tám mặt, không phát nào là không có người ngã ngựa, giặc sợ không dám đuổi nữa. Từ thoát được, ngay suốt ngày đêm đến Binh Nguyên, vào ra mắt Lưu Bị. Thư lễ xong, Từ nói hết sự tình Khổng Dung bị vây, rồi đưa thư ra, Lưu Bị xem thư xong, hỏi: - Ông là ai? Từ nói: - Tôi là Thái Sử Từ, người nhà quê ở Đông Hải. Tôi với Khổng Dung không phải anh em họ hàng, cũng không phải láng giềng làng mạc; chỉ vì nghĩa khí đối với nhau nên có ý chia sẻ ưu hoạn với nhau. Nay Quản Hợi bạo loạn, Bắc Hải bị vây, không biết cậy vào đâu, nguy ở sớm tối, Khổng Dung nghe ngài là người nhân nghĩa, hay cứu người khốn, giúp kẻ nguy, nên sai tôi xông pha giữa vòng giáo mác, phá vòng vây đến đây cầu cứu ngài. Lưu Bị tỏ vẻ tôn kính nói rằng: - Khổng Bắc Hải cũng biết rằng trong đời có Lưu Bị à? Lập tức cùng Quan Vũ, Trương Phi điểm ba nghìn tinh binh kéo sang Bắc Hải. Quản Hợi thấy quân đến cứu, dẫn quân ra đối địch. Lại thấy quân Lưu Bị ít nên khinh thường không sợ. Lưu Bị cùng với Quan, Trương và Thái Sử Từ cưỡi ngựa đứng ra trước trận. Quản Hợi hăm hở ra đánh. Từ đang định xông ra, Quan Vũ đã nhảy ra trước. Hợi địch sao nổi Quan Vũ: mới được vài mươi hiệp, một nhát thanh long đao đã chém chết ngay Quản Hợi ở dưới chân ngựa. Từ, Trương hai ngựa cùng ra, hai giáo đều múa, xông vào đám quân giặc, Lưu Bị thúc quân đánh riết. Khổng Dung ở trên thành trông thấy Từ, Quan, Trương ba người vào trong đám giặc, không ai đương nổi, xông xáo tựa hồ như hổ giữa đàn dê, liền kéo binh ra thành, hai đầu đánh dồn lại, quân giặc thua chạy, đầu hàng vô số, còn bao nhiêu tan vỡ cả. Khổng Dung đón Lưu Bị vào thành; chào lễ xong rồi, mở một tiệc yến thực to ăn mừng, lại dẫn My Chúc ra chào Huyền Đức. My Chúc nhân thể nói việc Trương Khải giết Tào Tung, nay Tào Tháo thả binh đến cướp phá Từ Châu, bởi vậy Đào Khiêm sai y đến cầu cứu Khổng Dung. Lưu Bị nói: - Đào Cung Tổ là người quân tử, không ngờ mắc phải oan này. Dung nói: - Ông là tôn thân nhà Hán, nay Tào Tháo tàn hại trăm họ, cậy khoẻ, khinh yếu. Sao ông không cùng với tôi đi cứu Đào Cung Tổ một thể? Lưu Bị nói: - Tôi đâu dám từ việc ấy, nhưng tướng ít, binh yếu, lo rằng không làm nổi việc. Dung lại nói: - Tôi nay đi cứu Cung Tổ tuy vì tình bạn, nhưng cũng vì nghĩa lớn, ông há không có bụng trượng nghĩa hay sao? Lưu Bị đáp: - Có phải thế xin Văn Cử hãy đi trước, khoan cho tôi còn sang Công Tôn Toản mượn thêm năm ba nghìn quân mã, rồi sẽ đến sau. Dung lại dặn: - Xin ông chớ sai hẹn. Huyền Đức nói: - Ông cho tôi là người thế nào? Thánh nhân đã dạy rằng: “Xưa nay ai cũng chết nhưng không có tin thì không ra người”. Nay dù mượn được quân hay không, thế nào tôi cũng phải đến cứu Từ Châu. Dung bằng lòng, sai My Chúc về báo trước cho Đào Khiêm, rồi thu xếp khởi hành. Thái Sử Từ lạy tạ Khổng Dung, nói rằng: - Tôi vâng lời mẹ, sang đây giúp ngài. Nay công việc xong xuôi cả rồi, thứ sử Dương Châu là Lưu Gio, là người cùng một quận với tôi, có thư lại gọi, không đi không được. Xin để khi khác lại có dịp gặp nhau. Dung đem vàng lụa tạ ơn. Từ không chịu lấy gì cả, ra về. Mẹ Từ thấy Từ về mừng nói rằng: - Mẹ mừng cho con báo được ơn Bắc Hải. Nói xong lại sai Từ sang Dương Châu. Nay không nói chuyện Khổng Dung khởi binh sang cứu Từ Châu vội. Hãy nói chuyện Lưu Bị đến gặp Công Tôn Toản và nói chuyện cả sự tình mình muốn sang cứu Từ Châu. Toản hỏi rằng: - Tào Tháo không có thù gì với ông, tội gì ông lại đi giúp bên nọ đánh bên kia? Lưu Bị nói: - Tôi đã hứa với người ta rồi, thế nào cũng phải đi. Toản cho mượn hai nghìn quân mã, Lưu Bị xin cho Triệu Tử Long đi theo. Toản bằng lòng. Lưu, Quan, Trương dẫn ba nghìn quân bản bộ của mình đi trước. Triệu Vân dẫn hai nghìn quân kéo đi sau, cùng đến Từ Châu. Trong khi ấy thì My Chúc về báo với Đào Khiêm rằng: - Khổng Dung đến giúp, lại mời thêm được cả Lưu Bị. Trần Nguyên Long cũng về báo rằng: - Điền Khải vui lòng đem quân sang cứu. Bấy giờ Đào Khiêm mới hơi vững dạ. Hai cánh quân Khổng Dung, Điền Khải mới đến, sợ quân Tào mạnh thế nên ở đằng xa, dựa vào sườn núi đóng trại chưa dám khinh tiến. Tào Tháo thấy hai đám quân cứu viện đã đến, cũng chia quân ra giữ, chưa dám kéo cả vào phá thành. Lưu Bị đến sau, vào ra mắt Khổng Dung. Dung nói: - Quân Tháo thế lớn lắm, mà Tháo lại khéo dùng mưu mẹo, ta không nên tiến vội, đợi xem tình hình thế nào đã. Lưu Bị nói: - Tôi chỉ lo trong thành không có lương, khó giữ được lâu. Nay hãy xin sai Quan Vân Trường và Triệu Tử Long lĩnh bốn nghìn quân ở đây với ông. Tôi thì cùng với Trương Phi kéo qua trại Tào Tháo, đi tắt đến Từ Châu, để vào bàn với Đào sứ quân. Dung mừng lắm, hẹn nhau với Điền Khải hai người lập thế ỷ giác(1), còn Vân Trường với Tử Long thì lĩnh binh để tiếp ứng hai bên. Lưu Bị, Trương Phi hai người dẫn một nghìn quân mã, kéo qua bên cạnh trại Tào Tháo. Quân đang đi thấy trong trại nổi một tiếng trống, quân mã, bộ kéo ra như nước vỡ. Vu Cấm đứng đầu, dừng cương ngựa lại gọi to lên rằng: - Bọn cuồng đồ xứ nào kéo đi đâu đấy? Trương Phi chẳng nói chẳng rằng, xông thẳng vào đánh Vu Cấm. Hai bên đánh nhau được vài hiệp, Lưu Bị múa đôi dao, kéo quân tràn lên. Vu Cấm thua chạy, Trương Phi đi đầu chém giết, rồi lao thẳng đến dưới thành Từ Châu. Trên thành trông xuống thấy lá cờ đỏ, viết năm chữ trắng thực to: “Bình Nguyên Lưu Huyền Đức”, Đào Khiêm kíp sai người mở cửa. Huyền Đức vào thành. Khiêm tiếp đón, mời về phủ nha, thi lễ xong, mở tiệc yến khoản đãi. Đào Khiêm thấy Lưu Bị diện mạo hiên ngang, nói năng khoát đạt, trong bụng lấy làm mừng rỡ, sai ngay My Chúc đem cả bài, ấn Từ Châu ra, xin nhường chức cho Lưu Bị, Lưu Bị ngạc nhiên hỏi: - Thế này là ý ngài ra làm sao? Khiêm nói: - Nay thiên hạ rối loạn, rường cột nhà vua không cất lên được. Ngài là tôn thân nhà Hán, nên ra sức giúp nước. Tôi nay già rồi, không làm gì được nữa, ngài chớ có chối. Tôi xin tự viết một bài biểu dâng lên triều đình. Lưu Bị đứng ra ngoài chiếu lạy hai lạy nói rằng: - Bị tuy là dòng dõi nhà Hán, nhưng công nhỏ, đức mỏng, làm một chức tướng ở Bình Nguyên còn sợ không nổi, nay vì đại nghĩa đến giúp ông, sao ông lại dạy thế? Hay là ông nghĩ tôi có bụng tham lam gì chăng? Nếu tôi có bụng thế, trời sẽ không thương tôi. Khiêm nói rằng: - Xin ngài chớ nghĩ thế, ấy là thực tình của tôi. Khiêm hai ba lần nhường, Lưu Bị nhất định không chịu. My Chúc thấy hai người, kẻ nhường người chối dùng dằng mãi, bèn tiến lên thưa rằng: - Nay quân giặc ở dưới thành, xin hai ngài hãy bàn kế phá giặc đã. Khi nào đánh tan được giặc rồi, bấy giờ xin các ngài hãy nhường thành cho nhau. Lưu Bị nói: - Tôi hãy đưa thư cho Tào Tháo, khuyên y giải hoà, nếu y không nghe lời, bấy giờ ta sẽ đánh cũng không muộn. Bèn truyền hịch cho ba trại hãy đóng binh không được động vội. Rồi sai người đưa thư cho Tào Tháo. Tháo đương ở trung quân, cùng các tướng bàn việc, bỗng có người vào báo Từ Châu có chiến thư mang đến. Tháo mở ra xem. Thư rằng: “Từ khi Bị được tiếp tôn nhau ở ngoài cửa quan đến giờ, mỗi người một phương, không được gần gũi bên ngoài. Vừa rồi tôn phụ Tào hầu bị hại, là vì thằng Trương Khải bất nhân, chớ không phải là tội Đào Cung Tổ. Hiện giờ, ngoài thì dư đảng giặc Khăn Vàng quấy nhiễu; trong thì bè cánh Đổng Trác làm loạn. Xin minh công hãy lo việc triều đình trước, rồi sau hãy nghĩ đến thù riêng, rút quân vây Từ Châu về, để cứu nạn nước, thì Từ Châu may lắm, thiên hạ may lắm!” Tào Tháo xem thư xong, nổi giận mắng rằng: - Lưu Bị là ai, dám đưa thư lại ngăn ta, trong thư lại có ý mỉa mai? Nói rồi truyền đem chém sứ đưa thư, rồi ra sức đánh thành. Quách Gia can rằng: - Lưu Bị từ xa lại cứu, trước dùng lễ sau dùng binh, chúa công nên lấy lời tử tế đáp lại, làm cho Lưu Bị khinh thường, phòng bị trễ nải, rồi ta sẽ tiến binh đánh thành, mới dễ phá được. Tháo nghe lời, truyền thết đãi sứ giả, rồi viết thư trả lời. Đang khi bàn bạc, chợt có ngựa lưu tinh lại nói rằng: - Lã Bố đã đánh phá Duyện Châu, hiện đang tiến binh chiếm cứ Bộc Dương. Nguyên Lã Bố từ khi gặp loạn Lý Thôi, Quách Dĩ, trốn ra cửa vũ quan, định đi theo Viên Thuật, Thuật ghét Bố là người phản phúc, không dùng. Bố lại đến với Viên Thiệu, được Thiệu dung nạp. Thiệu cùng Bố đánh tan Thường Sơn, từ ấy Bố lấy làm đắc chí, khinh nhờn những tướng sĩ của Thiệu. Thiệu giận muốn giết. Bố lại bỏ sang với Trương Dương. Dương dùng Bố. Bấy giờ Bàng Thư ở Trường An, cứu được vợ con Lã Bố, sai đưa lại trả. Lý, Quách biết, bèn chém Bàng Thư, rồi đưa thư cho Trương Dương sai giết Lã Bố. Bố lại bỏ Dương, sang với Trương Mạc. Giữa lúc ấy thì em Trương Mạc là Trương Siêu đưa Trần Cung lại ra mắt Mạc. Cung báo Mạc rằng: - Nay thiên hạ bị chia xẻ, anh hùng đều nổi dậy, ông có đất nghìn dặm, sao lại chịu ở dưới quyền người khác, há chẳng hèn lắm sao! Nay Tào Tháo đánh mặt đông, Duyện Châu bỏ trống. Lã Bố là dũng sĩ đời nay, giá ông cùng với Lã Bố đánh lấy Duyện Châu, thì có thể làm nên nghiệp lớn. Trương Mạc cả mừng, liền sai Lã Bố ra phá Duyện Châu, rồi chiếm cả Bộc Dương, chỉ có ba xứ Nhân Thành, Đông An, Phạm Huyện là nhờ có Tuân Úc, Trình Dục lập kế cố giữ được, còn các xứ khác đều bị phá vỡ cả. Tào Nhân đánh nhau mãi, nhưng đánh không nổi, vì thế phải cho đi cấp báo với Tào Tháo. Tháo nghe tin báo giật mình, nói rằng: - Nếu Duyện Châu mất, ta sẽ không còn chỗ về nữa. Phải kíp lo toan ngay. Quách Gia nói: - Lúc này chúa công nên tỏ chút ân tình với Lưu Bị, rút quân về lấy lại Duyện Châu. Tào Tháo lấy làm phải, lập tức viết thư đáp trả lại Lưu Bị, rồi nhổ trại lui binh. Sứ giả về Từ Châu, vào thành gặp Đào Khiêm, đưa trình thư của Tào Tháo, rồi nói quân Tào đã lui. Khiêm mừng lắm, sai người mời Khổng Dung, Điền Khải, Quan Vũ, Triệu Vân vào thành hội họp. Yến tiệc xong, Khiêm mời Lưu Bị lên ghế trên, chắp tay thưa rằng: - Lão phu này tuổi già, hai con lại không có tài, không kham nổi được việc lớn nước nhà. Lưu công là dòng dõi nhà vua, đức rộng tài cao, nên nhận lấy Từ Châu. Lão phu tình nguyện cáo về dưỡng bệnh. Lưu Bị nói: - Khổng Văn Cử sai tôi đến cứu Từ Châu là việc nghĩa. Nay bỗng dưng tôi giữ lấy Từ Châu, thiên hạ tất bảo tôi là người bất nghĩa. My Chúc nói: - Nay vận Hán đã suy, đất nước rối loạn, dựng công lập nghiệp chính ở lúc này. Từ Châu của giàu người nhiều, dân đinh kể có trăm vạn, Lưu sứ quân không nên từ chối. Lưu Bị nói: - Việc ấy tôi quyết không thể vâng mệnh. Trần Đăng nói: - Đào phủ quân nhiều bệnh lắm, không sao coi nổi được công việc, xin minh công đừng từ chối. Lưu Bị nói: - Viên Công Lộ bốn đời làm tam công, trong nước ai cũng trông mong. Nay Công Lộ ở Thọ Xuân, sao không tìm mà nhường? Khổng Dung nói: - Viên Thiệu là hạng người vô dụng, chẳng khác một bộ xương khô trong mả, còn đáng để làm chi. Nay trời cho sứ quân chẳng lấy, sau có hối lại cũng muộn. Lưu Bị nhất định không chịu. Đào Khiêm khóc nói rằng: - Nếu ông bỏ tôi mà đi, tôi chết cũng không nhắm mắt được! Vân Trường nói: - Đào công đã nói hết điều, thực lòng nhường cho, xin anh hãy nhận lấy việc châu. Trương Phi cũng nói: - Không phải là mình cố đòi lấy châu quận của người ta. Người ta có bụng tốt nhường cho mình, việc gì cứ phải khăng khăng từ chối? Lưu Bị nói rằng: - Các em muốn hãm ta vào việc bất nghĩa hay sao? Đào Khiêm hai ba lần nhường, Lưu Bị cứ một mực không nghe. Khiêm mới nói: - Nếu ông nhất định không nghe thì gần đây có một ấp gọi là Tiểu Bái, có thể đóng đồn. Xin ông tạm đóng quân mà ở đó để bảo vệ Từ Châu. Ông nghĩ thế nào? Mọi người đều khuyên Lưu Bị nên ở lại ấp Tiểu Bái, Lưu Bị nhận lời. Khiêm khao quân xong, Triệu Tử Long cáo từ ra về. Lưu Bị cầm tay Triệu Tử Long rỏ nước mắt từ biệt. Khổng Dung, Điền Khải cũng cáo biệt, dẫn quân về. Lưu, Quan, Trương cùng dẫn quân bản bộ đến Tiểu Bái, sửa sang thành quách, phủ dụ dân cư ở đấy. Tào Tháo kéo quân về, Tào Nhân ra đón, nói rằng: - Lã Bố thế to, lại có Trần Cung giúp. Duyện Châu, Bộc Dương mất cả, duy còn có Nhân Thành, Đông An, Phạm Huyện, ba xứ ấy nhờ có Tuân Úc, Trình Dục bày mưu đặt mẹo nên còn giữ được vững. Tháo nói: - Ta chắc Lã Bố có sức khoẻ nhưng không có mưu mẹo, chẳng đáng lo lắm. Nay hãy lập trại đâu đấy, rồi sau sẽ bàn. Lã Bố biết Tào Tháo đem quân về, đã đến Đằng Huyện bèn cho gọi phó tướng là Tiết Lan và Lý Phong, bảo rằng: - Ta muốn dùng hai người đã lâu, nay mới có dịp. Hai người dẫn một vạn quân, giữ lấy Duyện Châu cho vững, để ta đem quân đi đánh Tào Tháo. Hai người vâng lệnh. Trần Cung vội vàng hỏi rằng: - Tướng quân bỏ Duyện Châu, định đi đâu? Bố nói: - Ta muốn đóng quân ở Bộc Dương, để thành thế “chân đinh”. Cung nói: - Hỏng mất! Tiết Lan không giữ được Duyện Châu. Ở phía nam đường này, cách đây một trăm tám mươi dặm, có núi Thái Sơn. Chỗ ấy hiểm lắm, nên đem một vạn tinh binh phục ở đó. Quân Tào Tháo nghe Duyện Châu mất, tất nhiên gấp đường tiến lên, thế nào cũng phải đi qua đó. Ta đợi cho nó kéo quân qua một nửa đổ ra đánh một trận có thể bắt được Tào Tháo. Lã Bố bảo rằng: - Ta đóng ở Bộc Dương, còn có mẹo hay hơn, ngươi biết đâu! Bèn không nghe lời Trần Cung, sai Tiết Lan giữ Duyện Châu, còn mình thì đem quân đi. Khi Tào Tháo đem quân đến quãng đường hẻm ở Thái Sơn, Quách Gia bảo rằng: - Không nên đi vội. Chỗ này tất có phục binh! Tháo cười nói rằng: - Lã Bố là đồ vô mưu cho nên mới giao Duyện Châu cho Tiết Lan giữ, còn nó thì kéo quân sang Bộc Dương. Chỗ này chắc không có binh phục. Tào Nhân đâu, hãy lĩnh một cánh quân vây lấy Duyện Châu, để ta kéo quân lên đánh Lã Bố ở Bộc Dương! Trần Cung ở Bộc Dương với Lã Bố nghe thấy quân Tào đã đến gần, bèn thưa với Lã Bố rằng: - Quân Tào nay từ xa, tất mỏi mệt cả, nên đánh ngay, đừng cho nghỉ ngơi để dưỡng sức. Bố nói: - Ta một mình một ngựa tung hoành khắp thiên hạ, có sợ gì Tào Tháo. Cứ để cho nó đóng trại, ta sẽ bắt nó cho mà xem. Quân Tào Tháo gần đến Bộc Dương, lập vững doanh trại. Hôm sau Tháo đem chư tướng ra dàn trận ở ngoài đồng. Tháo cưỡi ngựa đứng dưới cửa sổ, xa trông thấy binh Lã Bố kéo đến. Hai bên bày trận xong, Lã Bố cưỡi ngựa ra trước hai bên có tám kiện tướng đứng kèm. 1. Trương Liêu, tên chữ Văn Viễn, người ở Mã Ấp, quận Nhạn Môn. 2. Tang Bá, tên chữ Tuyên Cao, người ở Hoa Âm, quận Thái Sơn. Hai tướng ấy lại dẫn sáu tướng là Hách Manh, Tào Tinh, Thanh Liêm, Nguỵ Tục, Tống Hiến, Hầu Thành và năm vạn quân. Trống đánh vang lừng. Tháo trỏ Bố nói rằng: - Ta với ngươi không thù hằn gì, sao ngươi lại cướp châu quận của ta? Bố nói: - Thành trì nhà Hán, người nào cũng có phần, có phải của riêng của nhà ngươi đâu? Liền sai Tang Bá tế ngựa ra đánh. Bên Tào, Nhạc Tiến ra nghênh địch. Hai ngựa giao nhau, đôi dao đều múa, đánh nhau được ba mươi hiệp, chưa phân được thua. Hạ Hầu Đôn tế ngựa xông vào đánh giúp, Trương Liêu cũng vội ra đánh chẹn lại. Lã Bố nóng mắt vác kích phi ngựa xông vào trận. Đôn, Tiến đều thua chạy cả, quân Tào thua to, phải lui ba bốn mươi dặm. Lã Bố thu quân về. Tào Tháo thua một trận, về trại, cùng chư tướng luận bàn. Vu Cấm nói: - Sáng nay lên núi trông thấy phía tây thành Bộc Dương. Bố có một trại, ước chừng chỉ có một ít quân đóng. Đêm nay tất nó tưởng ta vừa thua, không phòng bị gì. Ta nên dẫn quân ra đánh. Nếu lấy được trại ấy, quân Lã Bố tất sợ. Tào Tháo nghe lời, sai sáu tướng là Tào Hồng, Lý Điển, Mao Giới, Lã Kiên, Vu Cấm, Điển Vi dẫn hai vạn quân mã bộ liền đêm hôm ấy theo đường nhỏ kéo vào phía tây Bộc Dương. Hôm ấy Lã Bố về trại khao quân. Trần Cung nói rằng: - Trại mé tây là nơi khẩn yếu, nếu Tào Tháo đến đánh úp thì làm thế nào? Bố nói: - Hôm nay nó mới thua một trận, làm sao còn dám đến? Cung nói: - Tào Tháo là một tay dùng binh thực giỏi. Nên đề phòng nó đánh bất ngờ. Bố bèn sai Cao Thuận, Nguỵ Tục và Hầu Thành dẫn binh đến giữ trại phía tây. Chập tối hôm ấy, Tào Tháo kéo quân đến trại phía tây, bốn mặt ùa vào, quân giữ trại không chống nổi chạy tán loạn cả. Tháo cướp được trại, gần đến canh tư, thì bọn Cao Thuận mới kéo quân đến. Tháo dẫn quân ra đánh. Hai bên đánh nhau đến gần sáng. Chợt nghe tiếng trống rầm rĩ. Lã Bố đem quân đến cứu. Tháo bỏ trại chạy. Đằng sau Cao Thuận, Nguỵ Tục, Hầu Thành đánh thốc lên, mặt trước thì Lã Bố kéo quân lại. Vu Cấm, Nhạc Tiến, hai người địch Bố không nổi. Tháo cứ trông về phía Bắc mà chạy. Sau núi có một toán quân kéo ra, tả thì Trương Liêu, hữu thì Tang Bá, Tháo sai Lã Kiền, Tào Hồng ra đánh cũng không lại. Tháo lại quay chạy về phía tây. Đang chạy, chợt lại nghe thấy tiếng reo ầm ầm, rồi thấy một toán quân đến, đi đầu có bốn tướng là Hách Mạnh, Tào Tinh, Thành Liêm, Tống Hiến kéo ra chẹn đường Tào Tháo. Các tướng Tào liều chết mà đánh. Tào mới xông lên được trước. Bỗng nghe thấy tiếng mõ đánh, tên bắn ra như mưa. Tào Tháo không thể nào tiến lên được nữa, không biết có cách gì thoát, vội kêu lớn rằng: - Ai đến cứu ta? Giữa lúc ấy, trong đội kỵ mã, có một tướng nhảy ra là Điển Vi, hai tay cầm hai ngọn kích, kêu to lên rằng: - Chúa công đừng lo! Nói rồi nhảy tót xuống ngựa, cắp đôi kích dài, lấy vài mươi ngọn đoản kích, nắm trong tay, ngoảnh mặt lại bảo người đi theo rằng: - Lúc nào giặc đến cách độ mười bước, hãy gọi ta! Rồi dang chân, bước nhanh, xông vào mũi tên mà đi. Quân kỵ bên Lã Bố vài mươi người xông đến, lính hô lên: - Giặc còn cách mười bước rồi! Vi nói: - Cách năm bước hãy gọi! Quân lại gọi rằng: - Cách năm bước rồi! Bấy giờ Vi cầm kích ném ra, cứ mỗi ngọn kích là quân Lã Bố chết một người, không sai một ngọn nào, một lúc giết chết vài mươi người. Quân Lã Bố tan chạy, Vi lại cầm hai thanh kích lớn, nhảy lên ngựa, xông vào đánh. Bốn tướng của Lã Bố là Hách, Tào, Hầu, Tống không địch nổi, đều chạy trốn cả. Điển Vi đánh tan quân Lã Bố, cứu được Tào Tháo. Các tướng theo sau cũng dần dần kéo đến cùng nhau tìm đường về trại. Trông trời đã tà tà về chiều, đằng sau lại thấy tiếng reo. Lã Bố phi ngựa cầm kích, đuổi theo xông đến gọi to lên rằng: - Thằng giặc Tào Tháo kia, đừng chạy nữa! Bấy giờ bên Tào người ngựa mỏi mệt, mọi người nhớn nhác trông nhau, ai cũng muốn chạy thoát thân cả. Thế là: Đã hay thoát khỏi vòng vây trước Còn sợ khôn đường giặc đuổi sau. Chưa biết phen này Tháo sống chết thế nào, xem hồi sau sẽ rõ. [/spoil]
Tam Quốc diễn nghĩa - La Quán Trung Hồi 12 Đào Cung Tổ ba lần nhượng Từ Châu; Tào Mạnh Đức một phen đánh Lã Bố [spoil] Tào Tháo đang chạy luống cuống, may đâu phía nam có một toán quân kéo đến. Nguyên là Hạ Hầu Đôn dẫn quân lại cứu, chẹn ngang đường đánh nhau với Lã Bố. Đánh nhau đến sâm sẩm tối, một cơn mưa to như trút nước xuống, hai bên đều dẫn quân về. Tháo về đến trại, trọng thưởng Điển Vi, giao cho làm chức Lĩnh quân đô uý. Lã Bố về trại, cùng Trần Cung bàn bạc, Cung nói: - Ở trong thành Bộc Dương, có một nhà giàu, họ Điền, đầy tớ hàng trăm nghìn người, có tiếng ở trong một quận này. Ta nên khiến nhà ấy mật sai người đưa thư cho Tào Tháo nói rằng: “Lã Ôn hầu tàn bạo bất nhân, lòng người rất oán ghét; nay muốn đem quân sang Lê Dương, chỉ còn có Cao Thuận ở trong thành, nên lập tức tiến ngay, ta xin làm nội ứng…” Nếu Tháo đến, dụ cho vào trong thành, rồi bốn mặt phóng hoả, ngoài đặt quân phục. Tháo tuy có tài ngang trời dọc đất cũng không thoát được. Lã Bố nghe theo, mật dụ họ Điền đưa thư cho Tào Tháo. Tháo nhân lúc mới thua, còn đương lo lắng, chợt có người vào báo họ Điền ở Bộc Dương sai người đưa mật thư đến. Thư rằng: “Lã Bố đã đi sang Lê Dương, trong thành bỏ không. Xin ngài đến ngay, tôi nguyện làm nội ứng. Trên thành cắm lá cờ trắng, viết to một chữ “Nghĩa” làm mật hiệu”. Tào Tháo cả mừng nói rằng: - Trời cho ta Bộc Dương rồi! Bèn trọng thưởng cho người đưa thư, rồi lập tức thu xếp khởi binh. Lưu Hoa nói rằng: - Lã Bố tuy vô mưu, nhưng có Trần Cung nhiều mẹo lắm. Tôi chỉ sợ trong việc này có phần lừa dối, ta phải phòng trước. Minh công muốn đi thì nên chia quân ra làm ba đội. Hai đội phục ở ngoài thành để tiếp ứng, một đội vào thành, như thế mới được. Tháo nghe lời chia quân ra làm ba đội, đến thành Bộc Dương. Tháo đi trước nghe ngóng, trông thấy trên mặt thành cờ cắm đặc cả, trên góc cửa Tây có một lá cờ trắng và chữ “Nghĩa”, trong bụng đã mừng thầm. Giờ ngọ hôm ấy, hai tướng trong thành kéo quân ra đánh, tiền quân là Hầu Thành, hậu quân là Cao Thuận. Tào Tháo sai Điển Vi cưỡi ngựa xông ra, xông thẳng vào đánh Hầu Thành. Thành địch không nổi, quay ngựa chạy vào. Vì đuổi sấn đến tận bên cầu hào. Cao Thuận chống không được cũng lui binh vào trong thành. Trong khi ấy có người trong thành, thừa cơ chạy ra ngoài, đến ra mắt Tào Tháo nói là người họ Điền, đưa trình mật thư, trong thư hẹn rằng: “Đêm nay, hồi canh một, trên thành khua chiêng làm hiệu thì tướng quân tiến binh vào. Tôi làm nội ứng, dâng thành”. Lý Điển can rằng: - Chúa công nên đứng ở ngoài thành, để chúng tôi vào. Tháo nói to rằng: - Ta không đi thì ai chịu xông lên trước? Nói rồi tự lĩnh binh xông thẳng vào. Bấy giờ mới đầu canh một, trăng chưa lên, chỉ nghe thấy trên cửa tây có tiếng tù và, rồi lại có tiếng reo. Trên cửa lửa đốt sáng rực; cửa thành mở to; cầu treo bỏ xuống. Tào Tháo tế ngựa lên trước, đi thẳng đến tận nha thự, trên đường chẳng thấy một người nào cả. Tháo biết là mắc mưu, vội vàng quay ngựa trở lại hô quân lui ra. Lúc ấy trong châu nha có một tiếng pháo nổ, bốn cửa thành lửa cháy rực trời; trống đánh vang lừng, người reo rầm rĩ, như sóng cồn bể réo. Mé đông, Trương Liêu trổ ra; mé tây Tang Bá chạy lại; hai bên đánh dồn vào. Tháo chạy ra cửa bắc lại Hách Manh, Tào Tính đánh cho một trận. Tháo chạy ra cửa nam, lại bị Cao Thuận, Hầu Thành chận đánh, may có Điển Vi trợn mắt nghiến răng, xông vào đánh cứu. Cao Thuận, Hầu Thành phải chạy ra ngoài thành. Điển Vi đuổi ra đến cầu treo, ngoảnh lại không thấy Tào Tháo. Vi lại đánh vào trong thành, vào đến cửa gặp Lý Điển, Vi hỏi: - Chúa công đâu? Điển nói: - Ta cũng tìm không thấy. Vi bảo Điển: - Ngươi ra ngoài thúc quân ứng cứu, ta vào tìm chúa công. Lý Điển đi ra. Điển Vi vào thành, tìm mãi không thấy, lại đánh trở ra, ra khỏi bờ hào gặp Nhạc Tiến. Tiến hỏi: - Chúa công đâu? Vi nói: - Tôi vào ra hai lần rồi, tìm chúa công mãi không thấy. Tiến nói: - Hai chúng ta phải cùng đánh vào để cứu chúa công. Hai người cùng trở vào, đến bên thành, thì hoả pháo trên thành rơi xuống ngựa. Nhạc Tiến không sao vào được. Điển Vi xông pha khói lửa, lại vào thành đi tìm Tào Tháo. Tào Tháo nhìn thấy Điển Vi đánh đến tìm mình nhưng Tháo bị bốn mặt quân mã chẹn lại chung quanh nên không ra được đường cửa nam, đành phải chạy về cửa bắc, thế nào gặp ngay Lã Bố, nhưng trong bóng lửa nhấp nhoáng, Bố không biết là ai. Lã Bố cầm kích tế ngựa lại, Tháo lấy tay che mặt ra roi cứ tế ngựa đi thẳng. Lã Bố ở đằng sau sấn ngựa lại, cầm ngọn kích gõ vào mũ Tào Tháo hỏi rằng: - Tào Tháo ở đâu? Tháo trỏ tay nói rằng: - Người cưỡi ngựa vàng ở đằng trước kia. Bố tế ngựa đuổi người đằng trước, Tào Tháo quay ngựa lại chạy ra cửa đông, may gặp ngay Điển Vi. Vi hộ vệ Tháo, mở một đường máu ra được đến cửa thành. Chung quanh thành lửa cháy ngùn ngụt, cỏ rác chồng chất khắp cả, chỗ nào cũng có lửa. Điển Vi cầm kích gạt lửa ra hai bên, tế ngựa xông vào khói lửa ra trước. Tháo cũng theo sau ra được. Vừa đến cửa thành, có một cái xà cháy trên nhà rơi vào chân sau ngựa của Tào Tháo, ngựa ngã gục xuống. Tháo lấy tay đẩy cái xà ra, lửa bén vào cả cánh tay và đầu tóc. Điển Vi quay ngựa lại cứu. Vừa may Hạ Hầu Uyên cũng ở đâu đến. Hai người cứu được Tháo dậy, xông qua lửa chạy ra. Tháo cưỡi ngựa của Uyên, Vi đánh mở đường để chạy. Đánh nhau mãi đến sáng, Tháo mới về được trại. Các tướng vào lạy hỏi thăm. Tháo ngoảnh mặt lên cười nói rằng: - Ta lầm mắc phải kế thất phu, thề rằng thù này thế nào cũng báo được. Quách Gia nói: - Có kế gì nên làm ngay! Tháo nói: - Nay nên nhân kế của nó mà làm kế của mình: ta nói phao lên rằng ta bị lửa cháy chết bỏng, Bố tất dẫn quân lại đánh. Ta phục binh ở trong núi Mã Lăng, đợi nó đến nửa chừng, đổ ra mà đánh thì quyết bắt được Lã Bố. Quách Gia nói: - Thực là một kế hay. Liền sai quân sĩ phát tang, để trở phao tin đi rằng Tào Tháo đã chết. Có người đến Bộc Dương báo với Lã Bố rằng: - Tháo bị lửa cháy bỏng cả chân tay, về đến trại thì chết. Lã Bố lập tức điểm quân mã, kéo đến núi Mã Lăng. Quân đi gần đến trại Tào, một tiếng trống nổi, phục binh bốn mặt ồ ra. Lã Bố cố đánh, một sống một chết, mới thoát được, tổn hại mất nhiều quân mã, chạy về Bộc Dương giữ vững không dám ra nữa. Năm nay có một thứ sâu, gọi là sâu hoàng ăn hại lúa má. Ở vùng Quan Đông (Trường An), mỗi hộc thóc giá năm mươi quan. Dân chúng đói quá phải ăn thịt lẫn nhau. Tào Tháo nhân hết lương, dẫn quân về đóng ở Nhân Thành. Lã Bố cùng đem quân về đóng ở Sơn Dương. Vì vậy hai bên cùng tạm bãi binh. Bấy giờ Đào Khiêm ở Từ Châu đã sáu mươi ba tuổi, chợt bị bệnh, bệnh mỗi ngày một nặng, bèn mời My Chúc, Trần Đăng đến bàn việc. Chúc nói: - Quân Tào Tháo bỏ Từ Châu đi, cũng chỉ vì Lã Bố cướp Duyện Châu mà thôi. Năm nay nó bãi binh cũng là vì mất mùa. Chắc rằng sang xuân thế nào nó cũng đến. Phủ quân đã hai lần nhường chức cho Lưu Huyền Đức, bấy giờ phủ quân còn khoẻ cho nên Huyền Đức nhất định không chịu nhận. Nay bệnh phủ quân đã nặng, nên lại cho mời Huyền Đức sang mà nhường chức một lần nữa, lần này Huyền Đức chắc không từ chối. Khiêm mừng lắm, sai ngay người đi mời Lưu Bị lại bàn việc quân. Lưu Bị đem Quan Vũ, Trương Phi và vài mươi tên kỵ mã đến Từ Châu. Đào Khiêm cho mời vào chỗ nằm. Lưu Bị hỏi thăm xong, Khiêm nói: - Tôi mời ông đến đây không phải có việc gì đâu, chỉ có một việc: Tôi bây giờ bệnh đã nguy rồi, không biết sớm tối chết lúc nào. Vậy xin minh công thương lấy thành trì nhà Hán, nhận lấy bài ấn Từ Châu này, thì tôi xin chết mới nhắm được mắt. Lưu Bị hỏi: - Ông có hai con, sao không truyền cho, lại gọi tôi? Khiêm nói: - Tôi có hai thằng con, thằng lớn tên Thương, thằng bé tên Ung, hai đứa cùng hèn kém lắm, không sao kham nổi được việc nước. Tôi một mai nhắm mắt lại, cũng trăm nhờ minh công dạy bảo chúng nó, không nên cho chúng nó coi đến việc châu. Lưu Bị nói: - Một mình tôi đảm đương sao nổi việc to lớn ấy! Khiêm thưa: - Tôi xin cử một người để giúp ông, người ở Bắc Hải, họ Tôn, tên Càn, tự là Công Hựu. Ông nên dùng người ấy làm tùng sự. Khiêm lại gọi My Chúc bảo rằng: - Lưu công là hào kiệt đời nay, ngươi nên thờ cho khéo nhé! Huyền Đức vẫn còn từ chối… Lúc ấy Đào Khiêm lấy tay trỏ vào bụng rồi tắt thở. Các quan làm lễ điếu viếng xong rồi, liền đem bài ấn giao cho Lưu Bị, Lưu nhất định không nhận. Hôm sau cả dân châu kéo vào đầy phủ, van khóc nói rằng: - Lưu sứ quân bằng không không chịu nhận việc quận này thì dân chúng tôi không sao sống yên được. Quan, Trương hai người cùng khuyên hai ba lần, Lưu Bị mới chịu quyền lĩnh công việc Từ Châu; dùng Tôn Càn, My Chúc làm phụ tá; Trần Đăng làm mạc quan; đem hết quân mã ở Tiểu Bái vào thành, treo bảng khuyên dân yên nghiệp, rồi sắm sửa việc tang, Lưu Bị và quan quân lớn nhỏ, đều để trở. Tế lễ linh đình xong, an táng Đào Khiêm trên bãi cao ở bên sông Hoàng Hà, rồi đem từ di biểu của Đào Khiêm dâng lên triều đình. Tào Tháo ở Nhân Thành, được tin Đào Khiêm đã chết và Lưu Bị lĩnh chức mục Từ Châu, giận lắm nói rằng: - Thù ta chưa báo xong! Lưu Bị nửa mũi tên không tốn, ngồi yên mà được Từ Châu. Phen này ta quyết trước giết Lưu Bị, sau vằm thây Đào Khiêm để rửa oán cho thân phụ ta! Lập tức truyền lệnh cất quân sang đánh Từ Châu. Tuân Úc lên can rằng: - Xưa nay Cao tổ giữ ở Quan Trung, vua Quang Vũ giữ ở Hà Nội, đều là được sâu rễ bền gốc; tiến lên thì đánh được giặc, lui về thì giữ được thành, cho nên tuy có lúc nguy khốn, nhưng về sau cũng vẫn làm nổi được nghiệp lớn. Minh công lúc đầu vốn khởi sự ở Duyện Châu, mà đất Hà, đất Tế lại là đất hiểm trong thiên hạ và cũng là Quan Trung, Hà Nội ngày xưa. Nay nhược bằng minh công sang lấy Từ Châu, để binh ở đây thì Lã Bố lại thừa cơ đến cướp, thế là bỏ mất Duyện Châu. Nếu Từ Châu lại không lấy được, minh công sẽ đi đâu? Nay Đào Khiêm tuy chết, nhưng đã có Lưu Bị giữ. Dân Từ Châu đã quy phục Lưu Bị lắm, tất nhiên cố sức giúp Lưu Bị. Minh công bỏ Duyện Châu để sang lấy Từ Châu, thì khác nào bỏ cái lớn mà đi tìm cái nhỏ, bỏ chỗ gốc đi tìm chỗ ngọn, đem sự yên mà đổi lấy sự nguy. Xin minh công phải nghĩ cho chín đã! Tháo nói: - Năm nay mất mùa, thiếu lương ăn, quân sĩ cứ đóng ở đây cũng không xong. Tuân Úc nói: - Không bằng ta kéo sang mặt đông, lấy đất Trần cho quân sang ăn ở đó. Vả lại dư đảng Khăn Vàng là Hà Nghi, Hoàng Thiệu ở Nhữ Nam và Vĩnh Xuyên, cướp bóc châu quận, vàng lụa, lương thực có nhiều. Những giặc cỏ ấy phá dễ như chơi. Phá chúng nó, lấy lương thực để nuôi quân sĩ, như thế triều đình cũng mừng, dân gian cũng hả. Chính là một việc làm thuận lòng trời đó! Tháo mừng lắm, liền cho Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân ở lại giữ Nhân Thành, mình thì đem quân sang lấy đất Trần, Nhữ Nam và Dĩnh Xuyên. Đám dư đảng Khăn Vàng là Hà Nghi và Hoàng Thiệu thấy quân Tào Tháo kéo đến, đem binh ra đánh. Hai bên giáp trận nhau ở núi Dương Sơn. Quân giặc tuy nhiều nhưng toàn là những đồ lăng nhăng, hỗn độn không thành đội ngũ. Tháo sai lấy cung mạnh, nỏ cứng bắn sang. Điển Vi cưỡi ngựa ra. Hà Nghi sai phó nguyên soái ra đánh, đánh nhau chưa được ba hiệp, bị Vi đâm chết lăn xuống dưới ngựa. Tào Tháo thừa thế dẫn quân sấn qua núi Dương Sơn đóng trại. Hôm sau Hoàng Thiệu tự dẫn quân lại. Bày trận xong sai một tướng đi bộ ra, đầu đội khăn vàng, mình mặc áo xanh, tay cầm côn sắt, thét to lên rằng: - Ta là Tiệt thiên dạ sao Hà Man, ai dám ra đây đấu với ta nào? Tào Hồng quát to một tiếng, phi mình từ trên ngựa nhảy xuống đất, vác dao đi bộ ra. Hai người ở trước trận đánh nhau ba bốn mươi hiệp chưa phân thắng bại, Hồng giả cách thua chạy. Hà Man sấn vào, Hồng dùng kế đà đao, quay mình lại chém trúng Hà Man; Hồng lại bồi thêm một nhát nữa, Hà Man chết. Lý Điển thấy thế phi ngựa thẳng vào trận giặc. Tướng giặc Hoàng Thiệu chưa kịp đề phòng, bị Điển bắt sống. Quân Tào đánh giết quân giặc, cướp được vô số tiền bạc, lương thực. Còn Hà Nghi thế cô, dẫn vài trăm quân kỵ chạy về thung lũng Cát Pha. Lúc đang đi đường, chợt gặp một toán quân ở trong núi kéo ra, một tráng sĩ đứng đầu, mình cao tám thước, lưng to mười chét tay, cầm thanh đao lớn ra chẹn đường. Nghi vác dao đánh, chỉ mới được một hiệp, đã bị tráng sĩ ấy bắt sống. Quân sĩ luống cuống đều xuống ngựa chịu trói. Tráng sĩ xua cả vào thung lũng Cát Pha. Điển Vi truy kích Hà Nghi tới Cát Pha, thì có một tráng sĩ dẫn quân ra chặn lại. Vi hỏi: - Mày cũng là giặc Khăn Vàng à? Tráng sĩ đáp: - Lũ Khăn Vàng có vài trăm kỵ mã, ta đã bắt nhốt cả trong thung lũng này. Vi hỏi: - Sao không đem ra nộp? Tráng sĩ nói: - Hễ mày địch được với thanh đao trong tay này thì tao đem chúng nó ra nộp. Vi giận lắm, vác đôi kích lại đánh. Hai người đánh nhau từ giờ thìn đến giờ ngọ, không ai thua không ai được, hai bên cùng tạm nghỉ. Được một lát tráng sĩ lại ra thách đánh. Điển Vi cũng ra, đánh nhau đến mãi chiều tối. Hai ngựa cùng mỏi, hai người lại phải tạm nghỉ lần nữa. Quân thủ hạ Điển Vi chạy về báo với Tào Tháo. Tháo thất kinh, vội vàng dẫn các tướng lại xem. Hôm sau tráng sĩ lại ra thách đánh nhau. Tháo trông thấy người ấy uy phong lẫm liệt, trong bụng mừng thầm, dặn Điển Vi rằng: - Nay ngươi hãy giả cách thua đi! Vi vâng lời ra đánh, được ba mươi hiệp. Vi giả cách thua chạy về trận, tráng sĩ sấn đến, trong cửa trận cung nỏ bắn ra tua tủa. Tráng sĩ phải quay trở về. Tháo kíp dẫn quân lùi năm dặm, mật sai người đào sẵn một hầm hố, phục sẵn câu thủ[1]. Hôm sau lại sai Điển Vi dẫn hơn trăm quân kỵ ra. Tráng sĩ cười mà nói rằng: - Tướng đã thua, sao lại còn dám đến đánh? Nói rồi liền phóng ngựa ra đánh. Điển Vi đánh được vài hiệp lại quay ngựa chạy. Tráng sĩ cố sức đuổi theo, không ngờ cả người lẫn ngựa cùng sa xuống hố cả, bị quân phục ra trói lại đem về nộp Tào Tháo. Tháo vội vàng xuống trướng, mắng đuổi quân sĩ, tự cởi trói cho tráng sĩ, sai người lấy áo mặc cho, mời ngồi tử tế, rồi hỏi tên họ làng mạc ở đâu, tráng sĩ nói: - Tôi là người ở Tiêu Huyện, nước Tiêu, họ Hứa tên Chử, tự là Trọng Khang. Nguyên trước gặp buổi loạn lạc, tụ cả tôn tộc vài trăm người, đắp một cái luỹ ở trong thung lũng này để chống cự. Một bữa có giặc đến, tôi sai người nhà lấy đá vụn để sẵn, rồi tôi cầm đá ném ra, chẳng sai hòn nào. Giặc thấy vậy phải chịu lui. Lại một hôm nữa giặc đến, trong thung lũng tôi không có lương, phải hoà với giặc, xin đem trâu cày đổi cho nó, để lấy gạo. Lúc gạo giặc đã đưa đến rồi, giặc dắt trâu ra ngoài cửa thung lũng thì trâu đều chạy ngược trở lại, tôi lấy tay nắm lấy hai đuôi trâu kéo lại đi giật lùi được hơn một trăm bước. Giặc thấy thế đều thất kinh, không dám lấy trâu nữa. Bởi thế tôi mới giữ được ở đây yên ổn, không việc gì. Tháo nói: - Ta biết ngươi đã lâu. Nay ngươi có chịu hàng không? Chử nói: - Bụng tôi muốn thế đã lâu rồi. Chử về dẫn cả họ hàng vài trăm người ra hàng Tào Tháo. Tháo cho làm đô uý, thưởng rất hậu rồi đem Hà Nghi, Hoàng Thiệu ra chém. Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên, từ ấy đều bình định cả. Tháo rút quân về. Tào Nhân, Hạ Hầu Đôn ra tiếp kiến, nói rằng: - Mấy hôm nay quân đi do thám về báo rằng: ở Duyện Châu quân sĩ Tiết Lan, Lý Phong ra ngoài đi ăn cướp, thành bỏ trống không, chúa công đem quân vừa thắng trận trở về mà đánh, chỉ một trận là hạ được thành. Tháo liền đem quân đi đường tắt đến Duyện Châu. Tiết Lan, Lý Phong không ngờ có quân đến, chưa kịp phòng bị, nhưng cũng phải đem quân ra ngoài thành để đánh. Hứa Chử nói: - Tôi xin bắt hai đứa này để làm lễ ra mắt. Tháo mừng sai Chử ra trận, Lý Phong vác hoạ kích lại đánh. Hai ngựa giao nhau mới được hai hiệp, Chử chém Phong chết lăn xuống dưới ngựa. Tiết Lan vội vàng chạy về. Lý Điển chẹn ngang bên cầu. Lan không dám vào thành, dẫn quân kéo về Cự Giã, đang đi gặp ngay Lã Kiền tế ngựa lại đuổi bắn một phát tên. Lan chết ngã quay xuống đất. Quân Tiết Lan, Lý Phong vỡ tan cả. Tháo lấy lại được Duyện Châu. Trình Dục xin tiến binh lấy lại nốt Bộc Dương. Tháo sai Hứa Chử, Điển Vi làm tiên phong; Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên làm tả quân; Lý Điển, Nhạc Tiến làm hữu quân; Tào Tháo tự lĩnh trung quân; Vu Cấm, Lã Kiền làm hậu quân. Quân Tào đến Bộc Dương, Lã Bố muốn ra đánh, Trần Cung can rằng: - Không nên đánh vội. Đợi các tướng đến đây đủ cả, rồi hãy hay. Bố nói: - Ta có sợ ai! Không nghe lời Trần Cung, Bố cứ đem quân ra trận, cầm ngang ngọn kích thét mắng. Hứa Chử ra địch, hai bên đánh nhau hai mươi hiệp chưa bên nào được thua. Tháo nói: - Một người không thắng nổi Lã Bố được. Nói rồi sai Điển Vi ra giúp Hứa Chử đánh Lã Bố. Hai tướng giáp lại đánh, bên tả thì Đôn, Uyên, bên hữu thì Điển, Tiến, cùng kéo ra, sáu tướng quây quần lại đánh một mình Lã Bố. Bố chống đỡ không xuể, phải quay ngựa chạy về thành. Họ Điền ở trên thành thấy Bố thua chạy về, kíp sai người ra kéo cầu lên. Bố gọi to: - Mở cửa! Điền nói: - Ta đã hàng Tào tướng quân rồi! Bố chửi to một hồi rồi đem quân sang Định Đào. Trần Cung vội vàng bảo vệ vợ con Lã Bố mở cửa đông chạy ra ngoài thành. Tháo lấy được Bộc Dương, tha cho họ Điền các lỗi khi trước. Lưu Hoa bàn với Tào Tháo rằng: - Lã Bố là một con hổ dữ. Nay nó đang cùng khốn không nên khoan dung cho nó một chút nào. Tháo bèn sai Hoa giữ Bộc Dương, tự mình dẫn quân đến Định Đào. Bấy giờ Lã Bố cùng Trương Mạc, Trương Siêu ở trong thành, còn Cao Thuận, Trương Liêu, Tang Bá, Hầu Thành, đi tuần để kiếm lương chưa về. Quân Tào Tháo đến Định Đào, đợi mấy ngày Lã Bố không chịu ra đánh, bèn rút quân lại bốn mươi dặm hạ trại. Nhân bấy giờ lúa mạch ở Tế Quận đã chín, Tháo sai quân ra gặt về để ăn. Quân đi thám về báo với Lã Bố. Bố đem quân lại, đi đến gần trại Tào Tháo, trông về phía tả thấy rừng rậm um tùm, sợ có quân phục lại phải trở về. Tháo biết quân Bố quay trở về, bảo với chư tướng rằng: - Lã Bố nghi trong rừng có quân phục. Ta nên cắm rõ nhiều tịnh kỳ để đánh lừa nó. Mé tây trại có một dải đường đê không có nước, ta nên đem tinh binh ra phục ở đó. Ngày mai Lã Bố tất đến đốt rừng, quân phục trở ra đánh tập hậu chắc bắt được Lã Bố. Tháo nói xong sai làm ngay. Trong trại Tháo chỉ để độ năm mươi người đánh trống và bắt bọn trai gái bắt được ở dân thôn hò reo, còn bao nhiêu tinh binh phục cả ở sau đê. Quả nhiên Lã Bố nghi trong rừng có quân phục, hấp tấp về kể chuyện với Trần Cung. Cung nói: - Tào Tháo có nhiều quỷ kế, không nên khinh chiến đâu. Bố nói: - Ta dùng mẹo hoả công, chắc phá được quân phục. Liền sai Trần Cung, Cao Thuận giữ thành rồi hôm sau kéo đại quân vào rừng đánh giặc. Đi xa xa đã trông thấy trong rừng có cờ, kéo quân đi sấn lên, bốn mặt sai phóng hoả. Rừng cháy ngùn ngụt, nhưng chẳng thấy người nào; muốn kéo quân về trại Tào Tháo, thì nghe thấy tiếng trống đánh rầm rĩ cả lên. Trong bụng Lã Bố còn đương nghi nghi hoặc hoặc, thì chợt ở sau trại có toán quân kéo ra. Bố tế ngựa sấn lại. Bỗng nghe thấy một tiếng pháo nổ, rồi quân phục ở sau đê trổ ra. Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Hứa Chử, Điển Vi, Lý Điển, Nhạc Tiến tế ngựa kéo ồ cả ra. Lã Bố liệu không địch nổi, vội vàng chạy trốn. Tướng Bố là Thành Liêm bị Nhạc Tiến bắn một mũi tên chết. Quân Bố ba phần chết mất hai. Quân thua có đứa chạy được về báo với Trần Cung. Cung nói: - Thành trống không, khó giữ, chi bằng hãy bỏ chạy. Liền cùng với Cao Thuận đưa vợ con Lã Bố bỏ Định Đào mà đi. Quân Tào Tháo thừa thắng đánh bừa vào thành, đánh đến đâu được đến đấy, dễ như chẻ tre. Trương Siêu tự vẫn chết. Trương Mạc chạy sang với Viên Thuật. Một xứ Sơn Đông về tay Tào Tháo cả. Tháo phủ dụ dân chúng sửa sang thành quách lại. Lã Bố đang khi chạy trốn, gặp ngay các tướng đi kiếm lương đã về. Trần Cung cũng vừa tìm đến nơi. Bố nói: - Quân ta dù ít, còn đủ phá được Tào Tháo. Liền lại kéo quân trở lại. Thế thực là: Được thua, thua được là thường Quay binh đánh lại ai lường được đâu! Chưa biết Lã Bố phen này được thua thế nào, xem hồi sau mới tỏ. [/spoil]
Tam Quốc diễn nghĩa - La Quán Trung Hồi 13 Lý Thôi, Quách Dĩ một trận giao tranh Dương Phụng, Đổng Thừa hai lần cứu giá [spoil] Tào Tháo đánh phá được Lã Bố ở Ðịnh Ðào. Bố thu nhặt tàn quân mã ở bờ bể, cùng các tướng định quay trở lại đánh nhau với Tào Tháo. Trần Cung can rằng: - Nay Tào Tháo binh thế lớn, mình chưa tranh dành được với hắn. Hãy nên tìm xứ nào yên thân, về sau sẽ tính cũng không muộn. Bố hỏi: - Ta lại muốn sang với Viên Thiệu, nên không? Cung nói: - Hãy nên sai người sang Ký Châu, dò xem tình ý ra sao, rồi hãy đi. Bố nghe lời. Bấy giờ Viên Thiệu ở Ký Châu nghe thấy Tào Tháo đánh nhau với Lã Bố. Mưu sĩ của Thiệu là Thẩm Phối nói rằng: - Lã Bố là một giống hổ sói. Nếu hắn lấy được Duyện Châu, tất sang chiếm cả Ký Châu. Bất nhược ta giúp Tào Tháo đánh Lã Bố, về sau khỏi lo. Thiệu sai Nhan Lương đem năm vạn quân sang giúp Tào Tháo. Quân do thám nghe được tin, về báo với Lã Bố. Bố sợ lắm, bàn với Trần Cung. Cung nói: - Tôi nghe ông Lưu Bị mới lĩnh đất Từ Châu, ta nên sang nhờ ông ấy. Bố nghe lời Cung, sang Từ Châu. Có người báo với Lưu Bị, Bị nói: - Lã Bố là người anh dũng đời nay, ta nên ra đón. My Chúc nói: - Lã Bố là giống hổ lang, không nên chứa. Chứa nó, tất có khi nó hại người. Huyền Ðức nói: - Trước kia nếu không có Lã Bố đánh ở Duyện Châu, thì Từ Châu sao thoát được nạn. Nay hắn thế cùng mà về với ta, thì còn có bụng gì khác nữa. Trương Phi nói: - Ðại huynh bụng rất tốt. Nhưng phải đề phòng mới được. Lưu Bị lĩnh quân ra khỏi thành ba mươi dặm để đón Lã Bố. Hai người cùng sóng đều ngựa đi vào thành, vào đến tận châu nha. Chào mừng xong, mọi người an toạ. Bố nói: - Từ khi Vương tư đồ giết Ðổng Trác, về sau gặp cuộc biến loạn của bọn Thôi, Dĩ, tôi phải long đong ở xứ Quan Ðông. Chư hầu nhiều người không dung, gần đây lại gặp Tào Tháo bất nhân, xâm chiếm Từ Châu. May nhờ có sứ quân cố sức cứu Ðào Cung Tổ, tôi bấy giờ cũng đánh úp được Duyện Châu, mới chia được thế của Tào Tháo; không ngờ tôi lại mắc phải mưu gian, hao quân tổn tướng. Nay xin về với sứ quân, cùng toan việc lớn. Chưa biết ý sứ quân nghĩ làm sao? Huyền Ðức nói: - Ðào sứ quân mới mất, không có ai quản lĩnh Từ Châu, nên sai tôi tạm quyền cai quản. Nay may có tướng quân đến đây, tôi xin nhường lại. Nói rồi liền đem bài ấn giao cho Lã Bố. Bố chực giơ tay đỡ lấy, lại thấy sau lưng Lưu Bị có Quan Vũ, Trương Phi, hai người đều có vẻ mặt tức giận cả. Bố giả cách cười nói rằng: - Tôi là một đứa dũng phu, làm thế nào được châu mục. Lưu Bị lại xin nhường. Trần Cung nói: - Khách mạnh, không lấn được chủ. Xin sứ quân đừng nghi. Lưu Bị mới thôi, sai mở tiệc yến khoản đãi, rồi sai dọn dẹp một nơi tươm tất để Lã Bố nghỉ ngơi. Hôm sau Lã Bố làm tiệc mời lại Huyền Ðức. Lưu, Quan, Trương cùng đi. Uống rượu độ nửa chừng, Lã Bố mời Huyền Ðức vào nhà trong. Quan, Trương cùng theo vào. Lã Bố sai vợ con ra lạy. Huyền Ðức hai ba lần khiêm tốn không dám nhận. Lã Bố nói: - Hiền đệ bất tất phải khiêm nhường. Trương Phi nghe thấy câu ấy, trợn mắt thét mắng: - Anh tao là cành vàng lá ngọc. Mày là thằng nào dám gọi anh tao là hiền đệ? Lại đây, tao đánh với mày ba trăm hiệp. Lưu Bị vội vàng mắng át đi. Quan Công khuyên Trương Phi đi ra, rồi lấy lời ôn tồn nói với Lã Bố rằng: - Em tôi uống rượu say nói càn, xin anh đừng chấp. Bố lặng yên không nói. Một hồi, tiệc tan. Lã Bố tiễn Lưu Bị ra tận cửa, Trương Phi cưỡi ngựa đi ngang ngoài cửa thét to: - Lã Bố, tao đánh với mày ba trăm hiệp. Lưu Bị vội vàng sai Quan Công ra bảo Trương Phi phải thôi đi. Ðến hôm sau, Lã Bố đến từ giã Lưu Bị nói rằng: - Sứ quân không nỡ bỏ tôi, nhưng chỉ sợ lệnh đệ không dung. Vậy tôi xin đi nơi khác. Lưu Bị nói: - Nếu tướng quân đi thì tội tôi chẳng hoá ra to lắm ru. Em tôi nó hỗn với tướng quân, hôm khác tôi xin bắt nó đến xin lỗi. Gần đây có ấp Tiểu Bái, khi trước tôi cũng đóng đồn ở đó. Xin tướng quân chớ nề hẹp hòi tạm đến nghỉ ngựa. Lương thực và quân nhu, tôi xin cung ứng cả. Lã Bố tạ ơn Lưu Bị, rồi dẫn quân ra đóng ở Tiểu Bái. Lưu Bị từ bữa ấy chê trách Trương Phi mãi. Tào Tháo từ khi bình được Sơn Ðông, dâng biểu tâu về triều đình. Triều đình thăng chức cho Tháo làm Kiến Ðức tướng quân, phong làm Phi đình hầu. Lúc bấy giờ Lý Thôi tự làm đại tư mã. Quách Dĩ tự làm đại tướng quân, hoành hành không còn vị nể ai cả. Triều đình không ai dám mở miệng. Thái uý là Dương Bưu, đại tư nông là Chu Tuấn mật tâu với vua Hiến đế rằng: - Nay Tào Tháo cầm hơn 20 vạn quân, mưu thần, dũng tướng trong tay có vài mươi người. Nếu được người ấy để phù trì xã tắc, tiêu trừ đứa gian phi, thì thiên hạ may lắm! Hiến đế khóc nói rằng: - Trẫm bị hai đứa giặc ấy khinh nhờn đã lâu. Nếu giết được thì hay lắm. Bưu tâu rằng: - Thần có một mẹo, trước làm cho hai đứa tự tàn hại lẫn nhau, rồi sau mới mời Tào Tháo đem binh vào giết, quét sạch lũ giặc để yên triều đình. Hiến đế hỏi: - Kế ấy là kế gì? Bưu tâu: - Thần nghe vợ Quách Dĩ rất hay ghen, nay sai người đến xúi vợ hắn, dùng kế phản gián, hai đứa giặc tất giết lẫn nhau. Vua liền viết tờ mật chiếu, đưa cho Dương Bưu, sai Bưu thi hành kế ấy. Bưu lập tức sai vợ, lấy cớ có việc đến phủ Quách Dĩ, nhân dịp bảo vợ Dĩ rằng: - Tôi nghe Quách tướng quân thường cùng với phu nhân Lý tư mã có tư tình với nhau, tình thân mật lắm. Nếu quan tư mã biết chuyện tất bị tai vạ. Phu nhân nên giữ gìn đừng cho đi lại nữa là hơn. Vợ Dĩ đem lòng ngờ ngay chồng, nói: - Thảo nào! Mấy đêm nay nhà tôi không về. Chẳng hoá ra đi làm việc vô sỉ ấy. Giá phu nhân không nói thì tôi không biết, để từ nay tôi xin giữ gìn. Vợ Bưu từ giã về. Vợ Dĩ ra tiễn, hai ba lần tạ ơn rồi mới trở vào. Ðược vài ngày, Quách Dĩ lại sắp sang nhà Lý Thôi ăn yến. Vợ ngăn, không cho đi nói rằng: - Lý Thôi là người bất trắc lắm. Và thời nay hai người anh hùng không chắc đứng lâu được với nhau. Phu quân sang bên ấy, ví dụ trong khi ăn uống, Lý Thôi đánh thuốc độc, thiếp làm thế nào? Quách Dĩ nhất định không nghe. Vợ hai ba lần ngăn can. Buổi chiều Lý Thôi sai người đem biếu một mâm rượu. Vợ Dĩ bỏ thuốc độc vào đồ ăn rồi mới bưng vào cho chồng. Dĩ định ăn ngay, vợ nói: - Ðồ ăn ở ngoài đưa lại, không nên ăn ngay. Nói rồi đem đổ mội ít cho chó ăn thử. Chó ăn chết liền. Từ đấy Quách Dĩ có bụng ngờ Lý Thôi. Một hôm tan chầu, Lý Thôi lại mời Quách Dĩ về nhà uống rượu. Dĩ cũng đến. Ðến đêm tan tiệc, Dĩ say mới trở về. Ngẫu nhiên đêm hôm ấy đau bụng. Vợ thấy vậy mới nói: - Thôi lại ăn phải thuốc độc rồi! Nói rồi sai lấy nước phân cho uống. Dĩ uống xong thổ ra hết đồ ăn, thì khỏi đau bụng. Dĩ giận lắm, nói rằng: - Ta với Lý Thôi cùng toan việc lớn với nhau, nay bỗng dưng muốn hại ta. Ta không liệu trước tất mắc tay hắn. Liền sửa sang giáp binh bản bộ mình để đi đánh Lý Thôi. Có người báo với Thôi. Thôi nổi giận nói rằng: - Quách Dĩ sao dám thế. Thôi cũng đem giáp binh bản bộ lại đánh Hai người họp binh vài vạn ở dưới thành Trường An đánh nhau chán rồi, thừa thế cướp bóc của dân. Cháu Lý Thôi là Lý Tiêm, dẫn quân đến vây cung điện, rồi lấy hai cỗ xe, một cỗ chở thiên tử, mộc cỗ chở Phục hoàng hậu, rồi sai Giả Hủ, Tả Linh đi giám áp xa giá; còn bao nhiêu phu nhân nội thị đều phải đi bộ cả. Trong khi mọi người kéo ra cửa Hậu Tể, gặp ngay binh Quách Dĩ đến, bắn nhau tua tủa. Cung nhân bị chết vô số. Lý Thôi từ đằng sau đánh lại, Quách Dĩ phải rút lui, xa giá mạo hiểm ra ngoài thành, không ai phân giải điều gì, bị đưa ngay đến dinh Lý Thôi. Quách Dĩ lui binh vào cung bắt hết cung tần thái nữ đem về trại, rồi phóng hoả đốt cung điện. Hôm sau, Quách Dĩ biết Lý Thôi cướp mất thiên tử bèn đem binh đến trước cửa trại đánh nhau. Vua và hoàng hậu đều sợ hãi lắm. Ðời sau có bài thơ than rằng: Từ khi Quang Vũ trung hưng Truyền đời trên dưới, mới chừng mười hai. Hoàn, Linh, vô đạo nối ngôi, Hoạn quan chuyên chính, ra đời đã suy, Tam công Hà Tiến ra gì? Muốn trừ chuột xã[1] gọi chi gian thần? Ðuổi sài rước hổ vào trong, Tây Châu giặc Ðổng nổi lòng dâm hung Tư đồ mưu cậy má hồng Khiến cho Ðổng, Lã lẫn cùng giết nhau. Giặc tan dân đã bớt sầu, Biết đâu Lý, Quách ra mầu hung hăng! Kinh thành cỏ rậm gai chằng Sáu cung đói khát khổ đàng can qua. Vận trời đến buổi sút sa Anh hùng chia xẻ sơn hà lìa tan Vua sau coi đấy nên răn, Lọ vàng chớ để cho tan mẻ hoài. Sinh linh gan nát óc lầy, Máu oan lai láng tràn đầy non sông Ta xem sử xót thương lòng, Thử ly[2] thơ trước hãi hùng xưa nay Bào tang[3] giữ lấy lời này, Gươm thần cầm vững vẹn bày kỉ cương. Khi quân Quách Dĩ đến, Lý Thôi ra trại đánh nhau. Quách Dĩ thua rút về. Lý Thôi mới đem xa giá vua và hoàng hậu rời sang My Ổ, sai cháu là Lý Tiêm coi giữ, cấm nội sứ, không cho ai vào. Vua tôi ăn uống bữa có bữa không. Thị thần người nào người ấy đói võ cả mặt. Một bữa vua cho người ra hỏi Lý Thôi lấy năm hộc gạo và năm bộ xương trâu để cho kẻ hầu người hạ ăn. Thôi nổi giận mắng rằng: - Sớm chiều đã dâng cơm rồi, còn đòi gì nữa? Rồi lấy những thịt thiu cơm vữa đem cho. Hôi quá không ai ăn được vua mới mắng rằng: - Nghịch tặc dám khinh ta như thế à! Quan thị trung là Dương Kỳ kíp tâu rằng: - Quân hắn đã tàn bạo đến thế này, xin bệ hạ hãy nên nhịn, không nên trêu tức hắn. Vua cúi đầu không nói gì nữa, tay áo long cổn gạt hai hàng nước mắt chứa chan. Chợt thấy tả hữu vào báo rằng: - Có một đám quân mã, gươm giáo sáng choang, chiêng trống om sòm, lại đây cứu bệ hạ. Vua sai ra xem ai, thì là Quách Dĩ, lại càng lo thêm. Ở ngoài thung lũng tiếng người reo rầm rĩ tức là Lý Thôi dẫn quân đến đánh Quách Dĩ. Thôi cầm roi trỏ vào Dĩ mắng rằng: - Tao đối đãi với mày không bạc bẽo gì, sao mày lại rắp tâm hại tao, hở Dĩ? Dĩ trả lời: - Mày là đứa phản tặc, chẳng giết để làm chi? Thôi nói: - Tao bảo vệ vua ở đây, sao lại là phản tặc? Dĩ nói: - Thế là bức hiếp vua, sao gọi là bảo vệ vua? Thôi nói: - Nói làm chi nhiều, tao với mày không dùng quân sĩ, chỉ hai người đánh nhau, người nào thắng thì được đem vua đi. Hai người liền đánh nhau ngay ở trước trận. Ðánh nhau được mười hiệp, chưa rõ ai được thua, thì thấy Dương Bưu tế ngựa lại gọi to lên rằng: - Xin hai tướng quân hãy ngừng tay. Tôi đã mời các quan đến đây để giảng hoà. Hai bên ai về trại nấy. Dương Bưu và Chu Tuấn hội họp các quan triều thần hơn sáu mươi người, kéo nhau đến trại Quách Dĩ dàn hoà trước. Dĩ bắt các quan giam cả lại. Các quan kêu rằng: - Chúng tôi đến đây để bàn điều hay, sao lại đối xử như thế? Quách Dĩ nói: - Lý Thôi bức hiếp thiên tử, thì ta cũng bức hiếp công khanh, chứ kém gì? Dương Bưu nói: - Một người hiếp thiên tử, một người hiếp công khanh là ra làm sao? Dĩ nổi giận lên, cầm kiếm toan giết Dương Bưu, có quan trung lang tướng là Dương Mật cố can mãi, Dĩ mới tha cho Bưu và Chu Tuấn, còn các quan thì giam cả lại trong trại. Ra ngoài Bưu bảo với Tuấn rằng: - Anh em mình làm tôi xã tắc, nay không cứu được chúa, sống ở trên đời cũng là thừa. Nói xong hai người ôm lấy nhau khóc, ngất ngã lăn xuống đất. Tuấn về nhà lo nghĩ thành bệnh chết. Từ bấy giờ Thôi, Dĩ cứ mỗi ngày một lần đánh nhau ròng rã hơn năm mươi ngày trời, quân chết không biết bao nhiêu mà kể. Lý Thôi tính hay ưa tà đạo và thuật yêu quái, thường thường cho bà cốt lên đồng ở trong quân. Giả Hủ can mãi không nghe. Quan Thị Trung là Dương Kỳ thấy vậy liền mật tâu với vua rằng: - Thần xem Giả Hủ, tuy làm tâm phúc Lý Thôi nhưng thực bụng vẫn chưa từng quên vua. Bệ hạ nên bàn với hắn. Ðang nói thì Giả Hủ ở đâu đến. Vua đuổi tả hữu đứng ra xa, rồi khóc bảo Hủ rằng: - Ngươi có thương nhà Hán mà cứu lấy trẫm không? Hủ phục xuống đất, lạy thưa rằng: - Xin bệ hạ chớ nói ra. Bụng thần vốn vẫn muốn thế, thần xin sẽ liệu việc ấy. Vua gạt nước mắt tạ Hủ. Ðược một chốc, Lý Thôi lại đeo kiếm đi thẳng vào. Mặt vua xám ngắt. Thôi nói với vua rằng: - Quách Dĩ là đứa bất nhân, hắn dám giam giữ các công khanh, lại muốn bức hiếp cả bệ hạ, không có tôi, xa giá bị xiêu dạt rồi. Vua chắp tay tạ, Thôi mới ra. Rồi lại có Hoàng Phủ Lịch vào ra mắt, vua biết Lịch là người nói khéo, lại là người làng Lý Thôi, bèn sai Lịch ra giải hoà hai bên. Lịch vâng chiếu, đến trại Quách Dĩ nói. Dĩ bảo: - Hễ Lý Thôi có đưa thiên tử ra thì ta tha các công khanh. Lịch lại đến Lý Thôi bảo rằng: - Nay thiên tử biết tôi là người Tây Lương, cùng làng với ông, nên sai tôi đến giải hoà cho hai ông. Dĩ phụng chiếu rồi, còn ông thế nào? Thôi nói: - Ta có công đánh được Lã Bố, làm phụng chính đã bốn năm nay, công trạng rất nhiều. Thiên hạ ai cũng biết. Quách Dĩ bất quá là một đứa ăn trộm ngựa mà thôi, thế mà hắn dám ăn hiếp công khanh, và chống lại ta. Ta thề phen này phải giết hắn. Ông thử trông xem quân sĩ và kế hoạch của ta, có đánh nổi được tên Quách Dĩ không? Lịch nói: - Không nên, ông ơi! Ngày xưa người Hậu Nghệ ở xứ Hữu Cùng cậy mình bắn giỏi, không biết lo nghĩ, đến nỗi tuyệt diệt. Vừa mới rồi, Ðổng thái sư cường thịnh bao nhiêu, rồi sau thế nào, mắt ông đã trông thấy rành rành, Lã Bố đội ơn Ðổng thái sư mà lại giết Ðổng thái sư, chỉ trong giây phút, đầu thái sư treo cửa chợ, xem thế thì cường thịnh có vững chắc gì. Tướng quân mình làm thượng tướng cầm phủ việt, cắp cờ tiết, họ hàng con cháu đều ở ngôi cao; ơn nước không phải không hậu. Quách Dĩ hiếp công khanh, ông hiếp vua, thế thì bên nào nhẹ, bên nào nặng. Lý Thôi giận lắm, rút kiếm ra mắng rằng: - Thiên tử sai mày đến đây để làm nhục tao hay sao? Trước hết tao hãy chém đầu mày! Kị đô uý là Dương Phụng can rằng: - Nay chưa trừ được Quách Dĩ, lại đem giết sứ nhà vua, tôi e Quách Dĩ vin cớ để khởi binh, chư hầu ai cũng sẽ giúp hắn. Giả Hủ cũng cố can, Thôi mới nguôi cơn giận. Hủ đẩy Hoàng Phủ Lịch ra. Lịch kêu to lên rằng: - Lý Thôi không phụng chiếu, muốn giết vua để lên ngôi báu. Thị trung là Hồ Mặc vội vàng ngăn nói rằng: - Ðừng nói câu ấy, sợ sẽ không lợi cho bản thân. Lịch mắng rằng: - Hồ Mặc! Ngươi cũng là tôi triều đình, sao lại về bè với giặc. Vua nhục thì tôi phải chết. Dù ta bị Lý Thôi giết, là ta trọn đạo làm tôi chứ sao? Lịch vừa nói vừa mắng mãi không thôi. Vua thấy vậy vội vàng sai Lịch trở về Tây Lương. Quân Lý Thôi quá nửa là người ở Tây Lương, lại được người ở nước Khương giúp đỡ. Hoàng Phủ Lịch đến Tây Lương, nói toáng lên rằng: - Lý Thôi mưu làm phản, hễ ai theo nó là giặc và tai hoạ về sau sẽ không lường được. Nhiều người Tây Lương tin lời của Lịch, lòng quân sĩ của Lý Thôi cũng dần dần nao núng. Thôi nghe tin ấy giận lắm, kíp sai hổ bôn là Vương Sương đuổi theo. Sương biết Lịch là người trung nghĩa, không đi đuổi, về báo rằng: “Không biết Lịch đi đằng nào”. Một mặt thì Giả Hủ dỗ người nước Khương rằng: “Thiên tử cũng biết các ngươi là trung nghĩa, đánh mãi thì khổ nhọc. Bởi vậy bệ hạ có mật chiếu cho các ngươi về quận, ngày sau sẽ có thưởng to”. Người nước Khương đang oán sẵn Lý Thôi không cho hưởng tước, liền nghe lời Giả Hủ, kéo cả về. Hủ lại mật tâu với vua rằng: - Lý Thôi tham mà vô mưu, thấy binh lính bỏ về, bụng đã lo sợ, bệ hạ nên lấy trọng tước mà giữ hắn. Vua liền hạ chiếu phong Lý Thôi làm đại tư mã, Thôi mừng nói rằng: - Phúc này thật là thần thánh ban cho ta. Lạy thánh vạn lạy, có cúng có bái cũng có hơn! Thôi thưởng to cho các đồng cốt, còn quân tướng thì không nói gì đến. Kị đô uý là Dương Phụng giận lắm, bàn với Tống Quả rằng: - Chúng ta ra sống vào chết, xông pha mũi tên hòn đạn, mà té ra công trạng không bằng mấy mụ đồng bóng. Tống Quả nói: - Thế thì sao không giết hắn đi mà cứu thiên tử. Phụng nói: - Ngươi ở trong quân đốt lửa làm hiệu, rồi ta ở ngoài kéo binh vào tiếp ứng. Hai người hẹn nhau canh hai đêm hôm ấy khởi sự. Không ngờ việc không kín, tiết lộ ra có người nghe thấy, báo với Lý Thôi. Thôi giận sai người bắt Tống Quả giết đi. Dương Phụng dẫn binh ở ngoài chờ mãi không thấy hiệu lửa. Lý Thôi tự đem quân ra, vừa gặp Dương Phụng đến. Hai bên đánh nhau đến canh tư, Phụng không đánh nổi, chạy về Tây An. Từ đấy, quân thế Lý Thôi mỗi ngày một suy, lại thường thường bị Quách Dĩ đến đánh, quân sĩ bị giết chết rất nhiều, chợt lại có người báo rằng: - Trương Tế thống lĩnh một cánh đại quân từ Thiểm Tây đến, muốn giảng hoà cho hai bên, nói rao lên rằng: bên nào không nghe thì đánh. Thôi nhân thể lấy lòng Trương Tế, sai người đến Quách Dĩ cầu hoà. Dĩ cũng phải vâng theo. Trương Tế dâng biểu mời thiên tử ra chơi ở Hoằng Nông. Vua mừng nói rằng: - Ta đã lâu nay nhớ Ðông Ðô lắm. Nay nhân thể được về, lấy làm may lắm. Liền hạ chiếu phong Trương Tế làm phiêu kị tướng quân. Tế dâng lương thực, rượu thịt để cung cấp cho các quan. Quách Dĩ cũng tha cho các công khanh ra trại. Lý Thôi cũng thu xếp xa giá để về Ðông Ðô, sai vài trăm quân ngự lâm, cầm kích đi hộ tống. Khi loan giá qua Tân Phong đến Bá Lăng, trời về tiết thu, bỗng nổi cơn gió lạnh, nghe thấy có tiếng reo, rồi thấy vài trăm quân đến đầu cầu chẹn đường không cho xa giá đi, quát to hỏi rằng: - Người nào qua đây? Thị trung là Dương Kỳ tế ngựa lên cầu nói rằng: - Xe vua qua đây, đứa nào dám ngăn trở? Có hai tướng ra nói: - Chúng tôi vâng lệnh Quách tướng quân sai giữ cầu này, phòng kẻ gian phi. Có phải xa giá vua đi, xin được trong thấy vua, chúng tôi mới tin. Dương Kỳ mở rèm châu ra, vua mới dụ bảo rằng: - Trẫm ở đây, sao các ngươi không lui quân? Các tướng trông thấy, đều reo: “Vạn tuế!” rồi đứng ra hai bên, để xa giá đi qua. Xe đi rồi, hai tướng về báo với Quách Dĩ. Dĩ nói: - Ta ý muốn đánh lừu Trương Tế, bắt xa giá quay về My Ổ, sao các ngươi lại tự tiện tha ngay? Dĩ liền chém hai tướng rồi khởi binh đi đuổi xe vua. Xe đi đến huyện Hoa Âm, bỗng nghe đằng sau có tiếng reo vang dậy, gọi to rằng: - Xa giá đừng đi vội! Vua khóc bảo với đại thần rằng: - Vừa thoát hang sói, lại gặp miệng hùm. Bây giờ tính làm sao? Các quan sợ mất vía. Quân giặc gần đến nơi, chợt nghe đằng sau có tiếng trống đánh, rồi có một tướng đi lên trước, sau có một lá cờ lớn đề bốn chữ “Ðại Hán Dương Phụng”, kéo hơn một nghìn quân ra. Nguyên Dương Phụng từ khi bị Lý Thôi đánh, dẫn quân đến đóng ở núi Chung Nam, nghe tin vua đi qua đấy nên đến để đi theo hộ giá. Giữa khi ấy quân Dĩ đến nơi. Hai bên dàn thành thế trận. Tướng Quách Dĩ là Thôi Dũng phóng ngựa ra, mắng Phụng là phản tặc. Phụng giận lắm, ngoảnh đầu lại gọi: - Công Minh ở đâu? Một tướng, tay cầm búa lớn, quất ngựa hoa lưu chạy ra, xông thẳng vào đánh Thôi Dũng. Hai ngựa giao nhau, chỉ một hiệp, đầu Dũng đứt rơi dưới chân ngựa. Phụng thừa thế đánh tràn vào, Quách Dĩ thua to, lui hai mươi dặm. Phụng thu quân bái kiến thiên tử. Vua dụ bảo rằng: - Ngươi cứu được trẫm, công thực to! Phụng cúi đầu lạy tạ. Vua phán hỏi: - Tướng vừa chém được giặc là ai? Phụng dắt tướng ấy lại lạy tạ ở dưới xa giá, rồi thưa rằng: - Người này vốn ở Dương Quận, xứ Hà Ðông, họ Từ tên Hoảng, tên chữ là Công Minh. Vua lấy lời phủ dụ. Dương Phụng hộ vệ xa giá đến đóng ở Hoa Âm. Tướng quân là Ðoàn Ổi dâng y phục và đồ ăn uống. Ðên hôm ấy vua nghỉ trong trại Dương Phụng. Quách Dĩ thua một trận, hôm sau đem quân kéo đến cửa trại thách đánh, Từ Hoảng cưỡi ngựa ra trước. Dĩ thả đại quân vây bọc tám mặt. Vua và Dương Phụng cùng bị khốn ở trong vây. Ðương lúc nguy cấp, chợt nghe mé đông nam, có tiếng reo nổi ầm, rồi thấy một tướng kéo quân mã đến, phá quân giặc tan vỡ. Từ Hoảng mới thừa thế đánh ra, quân Dĩ bị thua chạy tan vỡ. Tướng ấy đến ra mắt vua, đó là quốc thích Ðổng Thừa. Vua khóc kể lại chuyện trước. Thừa tâu rằng: - Xin bệ hạ đừng lo, tôi xin cùng với Dương tướng quân thề chém hai đứa giặc ấy để yên thiên hạ. Vua truyền lệnh đi mau đến Ðông Ðô. Xa giá đi suốt đêm ấy đên Hoằng Nông. Quách Dĩ thua, kéo quân về, vừa gặp ngay Lý Thôi. Dĩ nói: - Dương Phụng, Ðổng Thừa cứu giá đến Hoằng Nông rồi. Nếu để chúng đi được đến Sơn Ðông, có chỗ đứng chân vững vàng, tất nhiên sẽ bố cáo thiên hạ, mời chư hầu đến đánh anh em ta, thì ba họ nhà chúng ta cũng không giữ nổi. Thôi nói: - Nay Trương Tế đóng quân ở Trường An, chưa nên khinh động. Ngươi cùng ta nên tụ quân lại một nơi, rồi đến thẳng Hoằng Nông, giết phăng Hiến đế đi, chia thiên hạ làm đôi mỗi người một nửa thì có hay không? Dĩ mừng lắm, xin vâng ngay. Hai người họp quân làm một, đi đến đâu cướp bóc vét sạch của dân đến đấy. Dương Phụng, Ðổng Thừa nghe tin quân Thôi, Dĩ kéo đến, liền quay binh trở lại, đánh nhau to ở Ðông Gián. Thôi, Dĩ bàn với nhau rằng: - Quân ta nhiều, quân chúng it. Ta cứ đánh bừa đi là được. Nói xong rồi, Lý Thôi ở tả, Quách Dĩ ở hữu, kéo tràn quân lại, đầy cả núi, lấp cả đồng. Phụng, Thừa hai người cố liều chết mà đánh, chỉ giữ riết lấy xa giá của vua và hoàng hậu còn các quan, các cung nhân và sổ sách, đồ đạc, các thứ của vua dùng, phải vứt bỏ cả. Quách Dĩ kéo quân vào Hoằng Nông cướp bóc, Ðổng Thừa, Dương Phụng hộ xa giá chạy sang Thiểm Bắc. Thôi, Dĩ chia quân hai đường đi đuổi. Thừa, Phụng một mặt sai người cùng với Quách Dĩ giảng hoà, một mặt mật đưa chiếu chỉ đến Hà Ðông, kíp vời tướng Bạch Ba là Hàn Tiêm, Lý Nhạc và Hồ Tài, đem quân mã ba xứ lại cứu. Lý Nhạc nguyên là giặc cỏ tụ tập ở núi rừng. Nay bất đắc dĩ cũng phải triệu đến. Quân ba xứ được tin vua tha tội, lại cho làm quan, liền đem cả quân sĩ bản doanh của mình đến, phối hợp với Ðổng Thừa cùng nhau hội họp làm một lấy lại Hoằng Nông. Bấy giờ Lý Thôi, Quách Dĩ đi đến đâu, cướp bóc đến đấy, người già yếu đem giết sạch, người khoẻ mạnh bắt đi theo làm quân, khi nào đánh nhau bắt dân binh đi trước, gọi là quân cảm tử. Thế giặc Lý, Quách to lắm. Quân Lý Nhạc đến gặp giặc ở Vị Dương. Quách Dĩ sai quân đem áo sống, đồ đạc bỏ cả dọc đường. Quân Nhạc thấy áo sống ngổn ngang cả đất, tranh nhau nhặt lấy, nhốn nháo mất cả hàng ngũ. Thôi, Dĩ hai cánh quân đánh dồn lại. Quân Nhạc thua to. Dương Phụng chống chế không nổi, hộ giá chạy sang mặt bắc. Quân giặc đuổi theo sau lưng. Lý Nhạc nói: - Việc kíp rồi, xin thiên tử lên ngựa đi trước. Vua nói: - Ta không nỡ bỏ trăm quan chạy lấy một mình. Các quân cùng kêu khóc đi theo. Hồ Tài bị quân giặc giết mất. Phụng, Thừa, thấy giặc đuổi gấp lắm, tâu xin vua xuống xe đi bộ. Ði đến bờ Hoàng Hà, Lý Nhạc tìm được một chiếc thuyền nhỏ để sang sông. Bấy giờ trời đang giá rét. Vua và hoàng hậu dắt nhau đến bờ sông, bờ cao quá không xuống được thuyền. Ðằng sau giặc sắp đến nơi. Dương Phụng nói rằng: - Nên cởi cương ngựa ra, chắp nối lại, buộc vào lưng vua, để đưa xuống thuyền. Trong đám có quốc cữu là Phục Ðức cắp vài chục tấm lụa trắng, chạy lại nói rằng: - Trong lúc quân rối loạn, tôi có nhặt được lụa này, xin đem để buộc. Hành quân hiệu uý là Thượng Hoằng lấy lụa buộc vào lưng vua và hoàng hậu, sai quân sĩ ròng vua xuống thuyền trước. Lý Nhạc cầm thanh kiếm đứng ở đầu thuyền. Quốc cữu Phục Ðức (vốn là anh hoàng hậu) cõng hoàng hậu xuống. Trên bờ những người chưa được xuống, tranh nhau vịn vào dây neo, Lý Nhạc lấy kiếm chặt dây rơi cả xuống nước. Khi chở được vua và hoàng hậu sang sông, lại đẩy thuyền lại để chở các quan và quân sĩ. Những người tranh nhau xuống trước bị chặt gãy cả ngón tay kêu khóc rầm trời. Lúc sang được bên kia sông, tả hữu vua chỉ còn có hơn mười người. Dương Phụng tìm được một cái xe trâu, rước vua đến Ðại Dương. Hôm ấy phải nhịn đói. Ðến tối mới kiếm được ngôi nhà ngói vào ngủ. Các bô lão đem cơm dâng, để vua và hoàng hậu xơi, nhưng gạo xấu cơm hẩm, vua và hoàng hậu không sao nuốt được. Hôm sau vua hạ chiếu phong cho Lý Nhạc làm chinh bắc tướng quân, Hàn Tiêm làm chinh đông tướng quân, rồi lại lên xa giá đi. Lúc đi có hai đại thần tìm đến khóc và lạy ở trước xa giá. Hai người ấy là thái uý Dương Bưu và thái bộc Hàn Dung. Vua và hoàng hậu cũng khóc. Hàn Dung mới tâu rằng: - Lý Thôi, Quách Dĩ rất tin lời tôi, tôi nguyện liều thân sang dụ chúng bãi binh. Xin bệ hạ giữ lấy long thể. Hàn Dung đi rồi, Lý Nhạc mời vua vào trại Dương Phụng tạm nghỉ, Dương Bưu lại mời vua về huyện An Ấp. Vua đến An Ấp không có nhà nào cao sạch, vua và hoàng hậu phải vào trọ trong nhà tranh, bốn mặt của ngõ không có, chỉ có rào gai tre. Vua và các quan đại thần vào trong nhà tranh ấy bàn việc. Các tướng đóng quân ở bên ngoài hàng rào để bảo vệ. Bọn Lý Nhạc từ khi đến giúp vua, ra mặt chuyên quyền. Các quan hơi có ai nói chạm đến, chúng mắng liền ngay trước mặt vua. Chúng lại đưa cho vua ăn uống những rượu đục cơm thô. Vua cũng cứ phải cắn răng mà chịu. Lý Nhạc và Hàn Tiêm lại có hơn hai trăm đầy tớ bộ hạ, nào thầy cúng, nào thầy thuốc. Hai đứa tâu cho làm hiệu uý, ngự sử cả. Khắc ấn không kịp, lấy dùi vạch gỗ ra làm ấn, chẳng ra thể thống gì nữa. Hàn Dung sang nói với Lý Thôi, Quách Dĩ. Hai tên giặc ấy cũng nghe, tha cho các quan và những cung nhân được về. Năm ấy mất mùa to. Trăm họ phải ăn những rau cỏ và ăn táo trừ bữa, chết đói khắp cả thôn dã. Thái thú Hà Nội là Trương Dương dâng gạo thịt, thái thú Hà Ðông dâng lụa vải, vua cũng hơi được ung dung một chút. Ðổng Thừa, Dương Phụng bàn nhau rằng: - Ta nên sai người đi sửa lại các cung điện ở Lạc Dương để rước xa giá về Ðông Ðô. Lý Nhạc không nghe, Ðổng Thừa mới bảo Nhạc rằng: - Lạc Dương vốn là nơi thiên tử đóng đô. An Ấp là chỗ đất nhỏ, không sao để được xa giá ở đấy. Nay phụng giá về Lạc Dương là phải hơn. Lý Nhạc nói: - Có phải thế, các ông cứ việc phụng giá đi, ta cứ đóng ở đây. Dương Phụng, Ðổng Thừa cứ phụng giá đem đi. Nhạc ở lại, sai người kết liên với Lý Thôi, Quách Dĩ, bàn nhau cùng lại để cướp giá. Phụng, Thừa với Tiêm biết trước được mưu ấy, liền đêm hôm ấy dàn bày quân sĩ, để gìn giữ giá vua, đi vụt ngay đến Cơ Quan. Lý Nhạc nghe tin ấy, không đợi quân Thôi, Dĩ đến nữa, tự mình dẫn quân mã bản bộ mình đi đuổi xa giá. Ðến canh tư đuổi kịp đến dưới núi Cơ Sơn, thét to lên rằng: - Xa giá không được đi vội. Lý Thôi, Quách Dĩ ở đây! Vua Hiến đế sợ run không được. Thế rõ thực là: Khi xưa đôi giặc, đôi quân; Nay thì ba giặc hợp quần với nhau. Chưa biết vua Hiến đế phen này làm thế nào mà thoát được nạn. Xem đến hồi sau sẽ biết. [/spoil]
Tam Quốc diễn nghia - La Quán Trung Hồi 14 Tào Mạnh Đức rời giá đến Hứa Đô; Lã Phụng Tiên đang đêm cướp Từ Quận [spoil] Lý Nhạc đem quân đuổi theo xa giá, trá xưng là Lý Thôi, Quách Dĩ. Vua giật mình lo sợ, Dương Phụng nói: - Ðây là Lý Nhạc đấy. Phụng sai Từ Hoảng ra đánh, Lý Nhạc tự mình ra địch. Hai ngựa giao nhau, mới được một hiệp, Hoảng chém một nhát búa, Nhạc chết ngã dưới chân ngựa. Bọn giặc còn lại chạy tan tác cả. Phụng bảo vệ xa giá đi qua Cơ Quan, thái thú là Trương Dương đem thóc lúa ra đón ở cạnh đường, vua phong cho Dương làm đại tư mã. Dương từ tạ vua ra đóng đồn ở Giã Vương. Vua vào Lạc Dương trông thấy cửa nhà bị đốt cháy hết cả; đường sá rậm rạp; cỏ mọc cao lấp mắt; trong cung điện chỉ có tường đổ, vách nát. Vua sai Dương Phụng cất tạm một cái cung nhỏ để ở. Trăm quan triều hạ đều phải đứng trong đám gai góc. Vua hạ chiếu đổi niên hiệu Hưng Bình làm Kiến An năm đầu. Năm ấy mất mùa to. Dân Lạc Dương còn được vài trăm nóc nhà, cũng không có gì ăn, phải ra ngoài thành, bóc vỏ cây, đào rễ cỏ mà ăn. Còn các quan thì từ thượng thư trở xuống cũng phải ra thành hái rau. Có nhiều người bị đè chết ở những chỗ tường đổ vách nát. Khí vận đời nhà Hán lúc bấy giờ thực là suy đốn, không khi nào người ta từng thấy những cảnh khổ não nhường ấy. Ðời sau có thơ than rằng: Máu loang rắn trắng núi Mang Ðường Cờ đỏ tung hoành khắp bốn phương. Ðuổi xộc hươu Tần, gây xã tắc, Ðạp quay ngựa Sở, mở phong cương. Vua hèn nên để gian tà lắm; Nước loạn sinh ra giặc giã hoang. Trông thấy đôi kinh khi vận nạn, Dẫu rằng dạ sắt cũng sinh thương. Thái uý là Dương Bưu tâu với vua rằng: - Trước bệ hạ đã giáng chiếu, chưa kịp sai ai mang đi. Nay Tào Tháo ở Sơn Ðông, binh hùng tướng giỏi. Nên truyền gọi y vào chầu để giúp nhà vua. Vua nói: - Trước ta đã giáng chiếu rồi, ngươi không cần phải tâu nữa. Cứ sai người mang đi lập tức là xong. Bưu lĩnh chỉ, sai ngay người sang Sơn Ðông với Tào Tháo. Tào Tháo ở Sơn Ðông, nghe tin xa giá vua đã về đến Lạc Dương, họp những mưu sĩ để bàn. Tuân Úc nói: - Ngày xưa, Tấn Văn Công phụng Tương Vương vào làm vua, chư hầu ai cũng phục. Hán Cao Tổ để tang Nghĩa Ðế, ai cũng theo. Nay thiên tử mắc nạn, tướng quân nhân dịp này, cất nghĩa binh, phụng thiên tử để theo nguyện vọng của dân chúng, sách lược rất hay. Nếu ta không làm ngay, người khác sẽ làm trước ta. Tháo mừng rỡ, đang thu xếp để cất quân đi thì có sứ giả nhà vua đem chiếu đến. Tháo tiếp được tờ chiếu, cất quân đi liền. Vua ở Lạc Dương, trăm việc còn thiếu thốn cả. Thành quách đổ nát cũng chưa sửa sang được. Chợt lại có người báo rằng: - Lý Thôi, Quách Dĩ lại sắp kéo quân đến. Vua sợ hãi mới hỏi Dương Phụng: - Sứ Sơn Ðông chưa về, nay quân Lý, Quách lại đến, làm thế nào bây giờ? Dương Phụng, Hàn Tiêm đều nói: - Hai chúng tôi xin hết sức đánh để bảo vệ bệ hạ. Ðổng Thừa nói: - Thành quách không bền, binh lính lại ít, đánh ngộ thua thì làm thế nào? Sao bằng rước giá tránh sang Sơn Ðông có hơn không? Vua theo lời. Nay hôm ấy khởi giá sang Sơn Ðông. Trăm quan không người nào có ngựa cưỡi, đều đi bộ theo giá. Vừa ra khỏi Lạc Dương, chưa đi được một bước đường nào, đã thấy ở đằng xa xa, bụi bốc mù trời, chiêng trống vang rầm, không biết cơ man nào là quân mã kéo đến. Vua và hoàng hậu run sợ quá không nói được, chợt thấy một tên kị mã đến, tức là sứ giả đi Sơn Ðông trở về. Sứ giả đến trước giá lạy rồi tâu rằng: - Tào tướng quân khởi hết cả quân Sơn Ðông, vâng chiếu mệnh đến ngay và nghe thấy Lý Thôi, Quách Dĩ xâm phạm vào Lạc Dương, cho nên trước hết sai Hạ Hầu Ðôn làm tiên phong, dẫn mười viên tướng giỏi và năm vạn tinh binh lại đây trước để hộ giá. Vua nghe thấy thế, trong bụng mới hơi yên. Ðược một lát quả Hạ Hầu Ðôn dẫn Hứa Chử, Ðiển Vi lại lấy quân lễ yết kiến vua. Vua uý dụ vừa xong, lại có người báo: - Ở mặt đông có một toán quân kéo đến. Vua sai Hạ Hầu Ðôn ra xem ai. Ðôn trở về tâu rằng: - Ðó là một bộ quân của Tào Tháo đã đến. Ðược một hồi Tào Hồng, Nhạc Tiến, Lý Ðiển vào ra mắt. Ba người tâu xưng tên tuổi xong, Hồng tâu rằng: - Anh tôi thấy giặc sắp đến, sợ Hạ Hầu Ðôn không đánh nổi, nên sai chúng tôi đi gấp đường đến đây để giúp bệ hạ. Vua mừng phán rằng: - Tào tướng quân thế mới thực là bầy tôi xã tắc! Vua phán rồi sai hộ giá để đi. Giữa lúc ấy lại có thám mã báo rằng: - Lý Thôi, Quách Dĩ đem quân kéo tràn đến. Vua sai Hạ Hầu Ðôn chia quân làm hai cánh ra đón đánh. Một bên Ðôn, một bên Hồng, chia ra hai đường, quân kị đi trước, quân bộ đi sau, đánh nhau rất hăng với Lý Thôi, Quách Dĩ. Quân Thôi, Dĩ thua to. Ðôn, Hồng chém được hơn một vạn đầu giặc; vững thế rồi xin rước vua đi trở lại Lạc Dương. Vua trở về cung, Hạ Hầu Ðôn đóng quân ở ngoại thành. Hôm sau, Tào Tháo tự lĩnh đại đội binh mã kéo đến. Lập trại đâu vào đấy rồi vào ra mắt vua, lạy ở dưới thềm. Vua cho Tháo đứng dậy, tuyên dụ ôn tồn. Tháo tâu rằng: - Tôi được nhờ ơn nhà nước, lúc nào cũng lo việc báo đền. Nay Lý Thôi, Quách Dĩ hai đứa giặc đầy tội ác. Tôi có hai mươi vạn tinh binh, lấy chính nghĩa đánh gian tà, thế nào cũng thắng, đánh tất phải được. Xin bệ hạ giữ gìn long thể, lấy xã tắc làm trọng. Vua liền phong cho Tào Tháo lĩnh chức tư lệ hiệu uý, cho cờ tiết và lưỡi phủ việt, coi toà thượng thư. Lý Thôi, Quách Dĩ biết Tháo từ xa mới đến, bàn nhau muốn đánh ngay. Giả Hủ can rằng: - Không nên, Tào Tháo binh hùng, tướng dũng. Không bằng đầu hàng may ra thì khỏi phải tội. Lý Thôi giận mắng rằng: - Mày dám làm nhụt nhuệ khí của tao! Nói rồi rút kiếm toan chém Giả Hủ. Các tướng cố sức ngăn can, mới tha. Ðêm hôm ấy Giả Hủ lên ngựa một mình về thẳng quê nhà. Hôm sau, Lý Thôi đem quân mã đến đánh quân Tào Tháo. Tháo sai Hứa Chử, Tào Nhân, Ðiển Vi lĩnh ba trăm quân thiết kị đem ra diễu ở trước trận Lý Thôi ba vòng rồi mới bày trận. Ở bên giặc, cháu Lý Thôi là Lý Thiêm, Lý Biệt cưỡi ngựa ra trước. Chưa kịp nói điều nào, Hứa Chử đã tế ngựa xông vào, đưa một nhát đao, Lý Thiêm chết quay xuống đất. Lý Biệt trông thấy giật mình cũng ngã ngựa, rồi bị Hứa Chử chém nốt. Chử xách hai đầu chạy về. Tào Tháo mừng vỗ vào lưng Hứa Chử nói rằng: - Anh thực là Phàn Khoái[1] của ta. Liền sai Hạ Hầu Ðôn đem quân ra mặt tả, Tào Nhân lĩnh quân ra mặt hữu, Tháo tự lĩnh trung quân xông vào trận. Một tiếng trống nổi lên, ba đội quân cùng tiến. Quân giặc chống cự không nổi, thua chạy. Tháo cầm thanh bảo kiếm thúc quân vào, đuổi giết suốt đêm. Giặc chết nhiều lắm, xin hàng không biết bao nhiêu mà kể. Thôi, Dĩ chạy trốn về phía tây, hớt ha hớt hoảng, như chó lạc chủ; tự biết thân không còn nương tựa vào đâu được nữa, hai đứa cùng trốn vào nơi rừng rú làm giặc cỏ kiếm ăn. Tào Tháo đem binh về, đóng đồn ở ngoài thành Lạc Dương. Dương Phụng, Hàn Tiêm hai người bàn với nhau rằng: - Tào Tháo phen này có công to, tất sẽ nắm trọng quyền, sao còn dung bọn chúng ta? Bèn vào tâu với vua, rồi mượn tiếng xin đi đuổi Lý Thôi, Quách Dĩ, kéo quân bản bộ của mình sang đóng ở Ðại Lương. Một hôm vua sai sứ vào trại Tào Tháo, để vời Tháo vào cung bàn việc. Tháo nghe tin có sứ đến, mời vào dinh thì thấy người ấy mày cong mắt đẹp, tinh thần sảng khoái. Tháo nghĩ thầm rằng: - Nay ở Ðông Quận này trời làm đói kém, từ quân lính cho chí dân, ai ai cũng có vẻ đói, sao người này béo tốt được như thế này. Nhân mới hỏi ngay rằng: - Tôi trông mặt ngài đầy đặn lắm, xin dám hỏi điều dưỡng như thế nào mà được như vậy? Sứ thưa rằng: - Thưa tôi cũng không có phép gì lạ cho lắm, vốn chỉ ăn nhạt ba mươi năm nay! Tháo gật đầu hỏi rằng: - Ngài hiện làm chức gì? Sứ nói: - Tôi vốn đỗ khoa hiếu liêm, nguyên làm chức tùng sự theo Viên Thiệu và Trương Dương. Nay nghe tin thiên tử đã về đô, tôi đến chầu vua, được phong làm chánh nghị lang. Tên tôi là Ðổng Chiêu, biểu tự Côn Nhân, quê ở Tế Âm, xứ Ðịnh Ðào. Tháo đứng dậy nói rằng: - Tôi nghe tiếng ngài đã lâu, nay may được thừa tiếp ngài ở đây. Nói rồi Tháo đặt tiệc rượu ở trong trướng để khoản đãi rồi lại gọi Tuân Úc ra cùng hội kiến. Chợt tin báo có một đội quân đi sang phía đông, không biết quân nào. Tháo sai người ra thám xem ai. Đổng Chiêu nói: - Đấy là Dương Phụng, tướng cũ Lý Thôi, và Hàn Tiêm, tướng ở Bạch Ba. Nhân thấy minh công đến đây, nên họ kéo quân về Đại Lương. Tháo hỏi rằng: - Họ có bụng nghi tôi chăng? Ðổng Chiêu nói: - Chúng là lũ vô mưu. Minh công hà tất phải lo. Tháo lại hỏi: - Thế còn Lý, Quách chuyến này chúng kéo đi thì rồi ra thế nào? Chiêu thưa: - Hổ long vuốt, chim gãy cánh, chẳng mấy lúc sẽ bị minh công bắt được, can gì phải để ý. Tào Tháo thấy Ðổng Chiêu nói câu nào cũng lọt tai, bèn hỏi đến những việc lớn trong triều. Chiêu nói rằng: - Minh công cất quân nghĩa binh để trừ bạo loạn, vào triều giúp thiên tử, ấy là công nghiệp của ngũ bá. Nhưng các tướng mỗi người một bụng, vị tất họ đã theo phục cả. Nay minh công ở mãi đây, tôi e có điều bất tiện. Chỉ có cách rước vua về Hứa Ðô là hơn. Nhưng triều đình xiêu dạt mãi, mới về được kinh đô xa gần trông mong, ai cũng muốn được yên ổn một chút. Nay lại rời xa giá đi nơi khác, chắc lòng người cũng không phục. Nhưng ở đời có làm được việc phi thường mới có công phi thường. Xin minh công quyết kế đi. Tháo cầm lấy tay Chiêu cười nói rằng: - Ấy vẫn là bản chí tôi đó! Nhưng tôi còn e rằng Ðại Lương có Dương Phụng, ở trong triều có các đại thần, đã chắc đâu không sinh biến được! Chiêu nói: - Lo chi việc ấy! Minh công nên đưa thư sang cho Dương Phụng để cho nó yên tâm, rồi nói rõ cho các đại thần rằng kinh đô bây giờ không có lương. Rước xa giá sang Hứa Ðô để được gần Lỗ Dương, vận lương cho tiện, không đến nỗi xa xôi thiếu thốn như ở đây. Các đại thần nghe rõ, đều vui lòng nghe theo. Tháo nghe lời Chiêu nói, mừng rỡ quá chừng. Khi Chiêu từ biệt, Tháo lại nắm tay nói rằng: - Về sau tôi có làm việc gì xin ngài dạy bảo cho! Chiêu tạ rồi cáo về. Từ đó, Tào Tháo ngày ngày bàn với mưu sĩ về việc dời đô. Bấy giờ thái sử lệnh là Vương Lập, một bữa nói riêng với tôn chính là Lưu Ngải rằng: - Tôi có xem thiên văn từ mùa xuân năm ngoái đến giờ, sao Thái Bạch (sao Kim) phạm vào sao Trấn Tinh ở khoảng sao Ngưu và sao Ðẩu, rồi lại qua sông Ngân Hà; và sao Huỳnh Hoặc (sao Hoả) lại đi ngược cùng với sao Thái Bạch gặp nhau ở Thiên Quan. Kim với Hoả hội với nhau, tất nhiên có vua mới ra. Tôi xem khí vận nhà Hán đã hết, trong đất Tấn, Nguỵ tất có người nổi lên. Vương Lập lại mật tâu với vua rằng: - Mệnh trời lúc đến, lúc đi, ngũ hành thịnh suy bất thường. Thay Hoả là Thổ, thay nhà Hán có lẽ là ở đất Nguỵ. Tào Tháo nghe tin ấy, sai người bảo Lập rằng: - Tôi cũng biết ông trung với triều đình, nhưng thiên cơ huyền bí lắm, xin ông chớ nói nhiều. Tháo đem chuyện ấy thuật lại với Tuân Úc. Úc nói: - Nhà Hán vốn lấy đức Hoả làm vua. Mà minh công lại mình Thổ, Hứa Ðô cũng thuộc Thổ, đến đấy tất hay. Hoả sinh Thổ, mà Thổ thì vượng Mộc. Chính hợp với lời Ðổng Chiêu, Vương Lập. Minh công tất sau này phát lớn. Từ ấy Tào Tháo nhất quyết thiên đô. Hôm sau Tháo vào ra mắt vua tâu rằng: - Ðông Ðô bị tàn phá đã lâu, bấy giờ không sửa sang lại được, vả lại chuyển vận lương thực, vất vả khó nhọc lắm. Hứa Ðô gần Lỗ Dương; thành quách, cung thất, tiền lương, người, của cải gì cũng có đủ. Tôi xin rước xa giá về Hứa Ðô. Ngửa trông lượng thánh ưng cho. Vua phải nghe. Các quan ông nào cũng sợ Tào Tháo mạnh thế không ai dám ngăn điều gì, liền chọn ngày để khởi giá. Tháo tự dẫn quân đi trong nom. Các quan cũng đi theo cả. Ði chưa được vài dặm đến một chỗ gò cao, bỗng thấy tiếng reo ầm ầm, rồi thấy Dương Phụng, Hàn Tiêm kéo quân ra chẹn đường. Từ Hoảng đứng đầu kêu to lên rằng: - Tào Tháo cướp thánh giá đem đi đâu? Tháo phóng ngựa ra xem, trông thấy Từ Hoảng uy phong lẫm liệt, có lòng khen thầm, liền sai Hứa Chử ra trận. Hai người bên đao bên búa, đánh nhau hơn năm mươi hiệp chưa thấy bên nào được bên nào thua. Tháo sai gõ chiêng rút quân về, gọi các mưu sĩ lại bàn rằng: - Dương Phụng, Hàn Tiêm không đáng kể, chỉ có Từ Hoảng thực là tướng tài. Ta không nỡ lấy sức mạnh địch lại, muốn dùng kế chiêu dụ thì hơn. Hành quân tùng sự là Mãn Sủng nói: - Chúa công đừng lo. Tôi với Từ Hoảng, có quen biết nhau. Tối hôm nay để tôi giả làm tên lính, lẩn vào trại anh ta, tôi thuyết phục anh ta, anh ta sẽ sang hàng chúa công. Tào ưng ý lắm, cho Sủng đi. Ðêm hôm ấy Sủng ăn mặc giả làm tên lính, đi lộn vào đội quân bên kia, lẻn đến trước màn Tử Hoảng, thấy Hoảng thắp nến mặc áo giáp đang ngồi. Sủng đánh bạo xông đến tận trước mặt, vái rồi hỏi rằng: - Cố nhân lâu nay vẫn mạnh khoẻ? Hoảng giật mình đứng dậy, nhìn kĩ Sủng rồi hỏi rằng: - Anh có phải là Mãn Bá Minh ở Sơn Dương đó không? Có việc gì đến đây? Sủng nói: - Tôi hiện đang làm tùng sự ở dinh Tào tướng quân, hôm nay ở trước trận, trông thấy cố nhân, muốn dâng một câu nói, nên liều chết lại đây. Hoảng mời ngồi, hỏi ý làm sao. Sủng nói: - Ông là người dũng lược, đời nay hiếm có, sao lại phải khuất thân đi theo bọn Dương Phụng, Hàn Tiêm. Tào tướng quân là đấng anh hùng thời nay, biết yêu người hiền, kính kẻ sĩ, thiên hạ đều biết tiếng. Hôm nay ở trước trận, thấy ông khoẻ mạnh, trong bụng mười phần kính yêu, không nỡ sai tướng khoẻ ra để giết nhau. Bởi vậy Tào công sai tôi đến đây để mời ông. Xin ông bỏ chỗ tối, qua nơi sáng, để cùng Tào công làm nên nghiệp lớn. Từ Hoảng nghĩ ngợi một hồi, chép miệng than rằng: - Ta cũng biết Dương Phụng, Hàn Tiêm không phải là tay lập được nghiệp, nhưng theo đã lâu rồi, bây giờ không nỡ bỏ. Sủng lại nói: - Ông há lại không biết rằng: chim khôn tìm cây mà đậu, người hiền chọn chủ mà thờ. Nay ông đã gặp được chủ đáng thờ, bỏ lỡ mất cơ hội tốt sao gọi là người trượng phu? Hoảng đứng dậy tạ nói rằng: - Xin nghe lời ngài dạy! Sủng nói: - Ðã vậy, sao ông không giết ngay Dương Phụng, Hàn Tiêm để làm lễ yết kiến. Hoảng nói: - Làm bầy tôi mà giết chủ, điều ấy thực là bất nghĩa, tôi quyết không làm! Sủng nói: - Ông thực là người nghĩa sĩ! Từ Hoảng liền dẫn vài mươi tên kị mã, ngay đêm hôm ấy cùng với Mãn Sủng, chạy sang trại Tào Tháo. Có người báo với Dương Phụng, Phụng giận lắm đem ngay một nghìn kị mã đuổi theo, gọi to lên rằng: - Phản tặc Từ Hoảng đừng chạy nữa! Trong khi đang đuổi, chợt nghe thấy một tiếng pháo nổ, trên núi dưới đống lửa đuốc sáng choang, quân phục bốn mặt kéo ra. Tào Tháo tự dẫn quân đi trước, quát lên rằng: - Ta đợi đây đã lâu. Chớ để cho bọn chúng chạy thoát. Dương Phụng khiếp đảm, chực thu quân về nhưng đã bị quân Tào vây bọc. May đâu, giữa lúc ấy Hàn Tiêm kéo quân lại cứu. Hai bên đánh nhau, Phụng chạy được thoát; Tháo thừa thế đánh dấn, quân sĩ Phụng, Tiêm đầu hàng quá nửa. Hai người thế cô, nhặt nhạnh quân sót rồi sang với Viên Thuật. Tháo thu quân về dinh, bấy giờ Mãn Sủng dẫn Từ Hoảng vào ra mắt. Tháo mừng rỡ, đãi Từ Hoảng rất hậu, rồi rước loan giá về Hứa Ðô sửa sang nhà cửa, cung miếu, lập tôn miếu, xã tắc, cùng các toà, các dinh và các nha môn; lại xây thành quách, lập kho tàng. Lũ Ðổng Thừa cả thảy ba mươi người, đều được phong làm liệt hầu. Thưởng người có công, phạt kẻ có tội, các việc hết thảy đều do Tào Tháo coi xét. Tháo tự phong mình làm đại tướng quân, Vũ Bình hầu; Tuân Úc làm thị trung thượng thư lệnh; Tuân Du làm quân sư; Quách Gia làm tư mã tế tửu, Lưu Việp làm tư không duyện tào; Mao Giới, Nhiệm Tuấn làm điển nông trung lang tướng, coi về việc thúc đốc tiền lương; Trình Dục làm tướng ở quận Ðông Bình; Phạm Thành, Ðổng Chiêu làm quan lệnh ở Lạc Dương; Mãn Sủng làm quan lệnh ở Hứa Ðô; Hạ Hầu Ðôn, Tào Hồng, Tào Nhân đều làm tướng quân; Lã Kiền, Lý Ðiển, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Từ Hoảng đều làm hiệu uý; Hứa Chử, Ðiển Vi làm đô uý. Còn bao nhiêu tướng sĩ đều phong quan cả. Từ đấy quyền to trong nước đều vào tay Tào Tháo. Nội các việc lớn triều đình, trước trình Tào Tháo, sau mới tâu vua. Khi Tháo đã định xong việc lớn, mới mở một cuộc yến ở hậu đường, họp các mưu sĩ lại bàn rằng: - Lưu Bị đóng quân ở Từ Châu, tự lĩnh chức, coi việc ở đó. Mới rồi Lã Bố nhân ta đánh thua, cũng chạy về đấy, Bị cho ở Tiểu Bái. Nếu hai người ấy đồng tâm kéo đến xâm phạm vào Hứa Ðô, cũng là một điều nguy, ta vốn trong bụng vẫn lo việc ấy. Các ông có nghĩ được kế gì trừ được hai người ấy không? Hứa Chử nói: - Tôi xin lĩnh năm vạn tinh binh, đi chém được đầu Lưu Bị, Lã Bố đem vào dâng thừa tướng. Tuân Úc lại can Hứa Chử rằng: - Tướng quân khoẻ thì khoẻ thực, nhưng tướng quân không biết dùng mẹo. Nay Hứa Ðô mới dựng, chưa được vững vàng, chưa nên hấp tấp cất quân. Tôi xin hiến một kế, gọi là kế “Hai hổ tranh ăn”. Lưu Bị bây giờ lĩnh ở Từ Châu, nhưng chưa có chiếu mệnh. Vậy minh công nên tâu hoàng thượng giáng chiếu cho y được thực thụ làm chức mục Từ Châu; nhân thể đưa cho Lưu Bị một bức mật thư sai y giết Lã Bố. Nếu Lưu Bị tuân lệnh giết được Lã Bố thì y mất tay phù tá; bằng y không giết nổi thì Lã Bố giết y. Thế gọi là cái kế “Hai hổ tranh ăn”. Tào Tháo nghe kế ấy, liền tâu xin chiếu mệnh, rồi sai ngay sứ sang Từ Châu, phong cho Lưu Bị làm Chinh Đông tướng quân, Nghi Thành đình hầu, lĩnh Từ Châu mục, lại đưa thêm một phong mật thư. Lưu Bị ở Từ Châu, nghe tin vua dời đô sang Hứa Ðô, sắp sửa dâng biểu chúc mừng, chợt có người báo: có sứ nhà vua đến. Bị ra đón rước vào thành, lạy tạ ân mạng xong rồi, mở yến thiết đãi sứ giả. Sứ nói: - Ngài được ân mạng này, đều là nhờ có Tào thừa tướng hết sức tiến cử. Lưu Bị tạ ân. Sứ bấy giờ mới đưa mật thư ra, Lưu Bị xem xong thư nói rằng: - Việc này xin để thong thả cho tôi bàn luận. Tiệc tan, Bị mời sứ giả ra nghỉ ngoài quán khách, đêm hôm đó bàn với các tướng. Trương Phi nói: - Lã Bố là người vô nghĩa, giết hắn đi có ngại gì. Lưu Bị nói: - Người ta thế cùng về với ta. Nếu ta giết đi, thế là bất nghĩa. Trương Phi nói: - Làm người tốt khó lắm! Lưu Bị nhất định không nghe. Hôm sau, Lã Bố lại mừng. Lưu Bị cho ra mời vào, Bố nói: - Nghe ngài mới được ân mệnh triều đình, nên tôi đến mừng. Lưu Bị cám ơn. Trong khi ấy Trương Phi cầm kiếm đợi ở cổng đường, định Lã Bố ra thì giết. Lưu Bị trông thấy vội vàng ngăn lại. Lã Bố kinh hãi, nói rằng: - Dực Ðức chỉ lăm lăm giết ta, là cớ làm sao? Trương Phi thét lên rằng: - Tào Tháo bảo mày là đứa vô nghĩa, bảo anh tao giết mày. Lưu Bị vội vàng quát Trương Phi ra, mời Lã Bố vào hậu đường, nói rõ đầu đuôi, rồi đưa mật thư của Tào Tháo cho Lã Bố xem. Lã Bố xem xong thư, khóc nói rằng: - Ấy là tên giặc Tào hắn muốn cho hai chúng ta không được hoà với nhau đó. Lưu Bị nói: - Xin anh đừng lo. Tôi quyết không bao giờ làm điều bất nghĩa ấy. Lã Bố hai ba lần bái tạ. Bị giữ Bố lại uống rượu mãi đến chiều mới về. Lã Bố về, Quan, Trương mới hỏi Lưu Bị rằng: - Huynh trưởng làm sao không giết Lã Bố? Lưu Bị nói: - Ðó là Tào Tháo hắn sợ ta cùng với Lã Bố đồng mưu đánh hắn, cho nên hắn dùng kế ấy, để cho hai bên giết lẫn nhau. Sao mình lại có thể để cho hắn lợi dụng được. Quan Công gật đầu bảo: - Phải! Trương Phi nói: - Tôi chỉ muốn giết tên giặc ấy để khỏi phải lo về sau. Lưu Bị nói: - Làm thế sao gọi là trượng phu? Hôm sau Lưu Bị tiễn sứ giả về kinh; dâng biểu tạ ân và đưa thư trả lời Tào Tháo, nói xin để thong thả sẽ làm. Sứ về kinh vào ra mắt Tào Tháo, thuật chuyện Huyền Ðức không giết Lã Bố. Tào Tháo mới hỏi Tuân Úc: - Kế ấy không xong làm thế nào? Úc nói: - Tôi lại có một kế nữa, gọi là kế “Xua hổ nuốt sói”. Tháo nói: - Kế ấy thế nào? Úc nói: - Tướng quân nên sai người đi hỏi thăm Viên Thuật, rồi mật bảo Thuật rằng: Lưu Bị dâng mật biểu muốn lấy Nam Quận, Thuật tất giận đánh Lưu Bị. Minh công lại đưa chiếu rõ ràng sai Lưu Bị đánh Viên Thuật. Hai bên đánh nhau, Lã Bố tất sinh bụng khác, thế gọi là: xua hổ cho nó nuốt sói. Tháo ưng ý lắm, một mặt sai ngay người đến Viên Thuật, một mặt lấy chiếu vua, sai đem đến Từ Châu. Lưu Bị ở Từ Châu nghe có sứ đến, ra thành mời đón vào. Bị mở chiếu ra đọc, chiếu sai Lưu Bị khởi binh đánh Viên Thuật. Lưu Bị vâng lệnh, tiễn sứ về trước. My Chúc nói: - Ðây lại là kế Tào Tháo! Lưu Bị nói: - Ðành là kế của Tào Tháo, nhưng có mệnh vua thì phải vâng theo. Nói rồi lập tức điểm quân mã, ngay hôm ấy kéo đi. Tôn Càn nói: - Trước hết hãy nên cử người giữ lấy thành. Quan Công thưa: - Em xin giữ. Lưu Bị nói: - Ta sớm tối lúc nào cũng cần đến em bàn các việc, rời nhau ra làm sao được? Trương Phi nói: - Em xin giữ. Lưu Bị bảo Phi rằng: - Em thì giữ làm sao được! Một là em rượu vào hung hăng lên, đánh lính tráng, hai là em làm việc gì cũng coi thường, không chịu nghe ai can gián. Ta không đành lòng. Phi nói: - Từ giờ trở đi, em xin không uống rượu. Không đánh lính tráng, ai can bảo gì em cũng xin nghe. My Chúc nói: - Tôi e rằng bụng nghĩ không được như miệng nói. Phi giận mắng My Chúc rằng: - Tao theo anh tao đã lâu năm, chưa từng có thất tín câu nào, sao mày dám khinh tao như thế? Lưu Bị nói rằng: - Ðã đành như thế, nhưng ta vẫn chưa yên tâm. Em nên mời Trần Nguyên Long lại đây để giúp; sớm chiều từ nay em phải bớt uống rượu, đừng để hỏng sự mới được. Trần Ðăng vâng lĩnh lời. Lưu Bị dặn dò đâu đấy cả rồi, dẫn ba vạn quân mã bộ, rời Từ Châu sang Nam Dương. Viên Thuật nghe thấy tin Lưu Bị dâng biểu muốn lấy châu huyện, giận lắm nói rằng: - Hắn là đứa dệt chiếu, đóng dép, nay chiếm giữ được quận to, đứng ngang với chư hầu. Ta định đánh hắn, hắn nay lại định sửa ta à? Thực là tức quá! Thuật nói rồi, liền sai thượng tướng là Kỷ Linh dẫn mười vạn quân kéo sang Từ Châu. Hai bên gặp nhau ở Vu Thai. Lưu Bị ít binh, dựa vào cạnh núi, men sông đóng trại. Kỷ Linh là người ở Sơn Ðông, sử dụng một thanh đao ba mũi, nặng năm mươi cân, hôm ấy kéo quân ra trận, quát mắng rằng: - Lưu Bị là một đứa thôn phu. Sao dám xâm phạm vào đất ta? Lưu Bị nói: - Ta nay phụng chiếu của vua sang đây đánh kẻ nghịch thần. Sao ngươi dám kháng cự. Tội ngươi đáng chết! Kỷ Linh giận lắm, múa đao xông vào đánh. Quan Vũ quát rằng: - Thằng thất phu kia, chớ được cậy khoẻ! Nói rồi tế ngựa ra đánh nhau với Kỷ Linh. Ðánh được hơn ba mươi hiệp, chưa phân bên nào được bên nào thua, Kỷ Linh kêu to lên: “Hãy nghỉ!” Quan Công quay ngựa về đứng đợi ở cửa trận. Kỷ Linh sai phó tướng là Tuân Chính ra. Quan Công không thèm đánh, bảo rằng: - Mày về gọi Kỷ Linh ra đây! Chính nói: - Mày là vô danh hạ tướng, không xứng đánh nhau với Kỷ tướng quân. Quan Công điên ruột, xông vào chém Tuân Chính, chỉ một nhát chết ngay. Lưu Bị thúc quân đánh tràn vào trận. Kỷ Linh thua to, lui về giữ ở cửa sông Hoài Âm không dám ra đánh nữa, chỉ sai quân sĩ cướp dinh rình trại, nhưng hễ tên nào ra thì quân Từ Châu đánh giết phải thua chạy. Nay ta hãy để hai bên chống cự nhau, mà nói chuyện Trương Phi ở nhà giữ việc Từ Châu. Từ khi Lưu Bị đi, bao nhiêu việc tạp vụ, Trương Phi giao mặc Trần Ðăng coi sóc, còn việc quân cơ lớn thì tự mình suy xét làm lấy. Một hôm Phi mở một tiệc yến, mời các quan đến ăn. Các quan ngồi đâu đó rồi, Trương Phi mời nói rằng: - Khi anh tôi đi, có dặn nên bớt uống rượu, sợ rằng say sưa rồi hỏng việc, vậy tôi xin mời các quan hôm nay uống một bữa thực say, rồi từ mai trở đi, cấm hẳn, không ai được uống nữa, phải giúp tôi để giữ thành trì. Hôm nay phải uống cho thực say mới được! Trương Phi nói xong, đứng dậy cầm chén mời các quan. Khi cầm chén đến trước mặt Tào Báo, Báo từ chối rằng: - Tôi theo thiên giới không uống rượu. Phi nói: - Những hảo hán đánh nhau giết người, sao lại không uống rượu. Hôm nay, ta muốn mày uống một chén. Tào Báo sợ quá cố uống một chén. Trương Phi cầm chén mời tất cả các quan, rồi rót một cốc thực to cho mình, hớp một hớp hết nhẵn, lại rót cốc nữa, làm một chập đủ mười cốc rượu đầy. Lúc bấy giờ ý chừng say quá, Trương Phi lại đứng dậy cầm chén đi vòng mời các quan, khi đi đến trước Tào Báo, Báo nói: - Tôi thực không sao uống được nữa. Phi hỏi: - Mày vừa uống được sao bây giờ lại từ chối. Báo nhất định không uống. Trương Phi bấy giờ say rượu nóng tính, nổi giận mắng rằng: - Mày dám trái tướng lệnh tao, đáng đánh một trăm roi. Trần Ðăng can rằng: - Khi ông Huyền Ðức đi dặn ông như thế nào? Phi nói: - Mày là quan văn, chỉ coi việc văn thôi, đừng có cai quản tao ở đây! Tào Báo không làm sao được, kêu rằng: - Xin Dực Ðức nể mặt con rể tôi mà tha lỗi cho tôi! Phi hỏi: - Rể mày là ai? Báo thưa: - Lã Bố! Phi giận lắm quát rằng: - Tao vốn không muốn đánh mày, nay mày lại đem Lã Bố doạ tao, thì tao đánh, tao đánh mày cũng như đánh thằng Lã Bố. Các quan xô cả lại can cũng không được. Quân lính lôi Tào Báo ra đánh đến năm mươi roi, các quan nằn nì ngăn can mãi mới thôi. Tiệc tan. Tào Báo trở về, giận quá, ngay đêm hôm ấy sai người cầm phong thư, đi tắt đến Tiểu Bái, vào ra mắt Bố, kể hết đầu đuôi chuyện Trương Phi vô lễ. Trong thư lại nói rằng: “Lưu Bị đã sang Hoài Nam, đêm hôm nay nhân Trương Phi say rượu, kéo quân đến đánh úp lấy Từ Châu, là một dịp ít có, không nên để lỡ”. Lã Bố xem xong thư, cho mời Trần Cung đến bàn, Cung nói: - Tiểu Bái không phải là nơi ở lâu được. Nay Từ Châu đã có cơ lấy được, không lấy ngay đi, sau hối không kịp. Bố nghe lời, lập tức mặc áo giáp lên ngựa, dẫn năm trăm kị mã đi trước, sai Trần Cung dẫn đại quân đi sau. Cao Thuận cũng kéo quân đến theo. Tiểu Bái cách Từ Châu có bốn mươi dặm, đi một thôi ngựa thì đến. Lã Bố đến dưới thành, lúc đầu canh tư trăng sáng vằng vặc, trên thành không ai biết. Lã Bố đến tận bên thành gọi rằng: - Lưu sứ quân có việc cơ mật sai người đến. Trên thành có quân báo với Tào Báo, Báo lên thành xem rồi sai quân sĩ mở cửa ra. Bấy giờ Lã Bố mới nổi một tiếng hiệu, quân sĩ đều kéo ùa vào thành, tiếng reo kinh động. Trương Phi say rượu đang ngủ ở trong nhà. Tả hữu vội vàng lay tỉnh dậy bảo rằng: - Lã Bố đã lừa mở được cửa thành, quân hắn kéo cả vào rồi. Trương Phi giận quá, vội vàng mặc áo giáp, vác ngọn bát xà mâu, vừa ra được cửa phủ lên được mình ngựa, thì quân Lã Bố đến nơi. Bấy giờ Phi hãy còn say rượu, không đánh được khoẻ. Lã Bố cũng biết sức mạnh của Trương Phi, không dám đánh ráo riết quá. Mười tám tướng kị mã nước Yên bảo vệ Trương Phi, chạy ra cửa Ðông. Vợ con Lưu Bị ở trong phủ, Trương Phi cũng không kịp nhìn đến. Tào Báo thấy Trương Phi chỉ còn vài mươi người đi theo, lại khinh y còn say, đem hơn một trăm người ra đuổi. Phi trông thấy Báo, giận lắm, tế ngựa lại đánh, chỉ ba hiệp, Tào Báo thua chạy. Trương Phi đuổi đến bờ sông, cầm ngọn mâu từ đằng xa phóng lại, trúng giữa lưng Tào Báo, cả người lẫn ngựa chết lăn xuống sông. Trương Phi đứng ngoài thành, hô gọi quân sĩ. Người nào ra được đều theo y đi sang Hoài Nam. Lã Bố vào được thành, phủ dụ dân rồi sai một trăm quân giữ cửa nhà Lưu Bị, không cho ai được vào. Trương Phi dẫn vài mươi tên kị mã đi thẳng đến Vu Thai vào hầu Lưu Bị, nói hết cả chuyện Tào Báo cùng Lã Bố, trong ứng ngoài hợp, đang đem đánh úp lấy Từ Châu. Các quan nghe chuyện ai cũng mất máu mặt, duy Lưu Bị chỉ than có một câu: - Ðược cũng chẳng nên mừng, mất cũng chẳng nên lo! Quan Vũ hỏi: - Thế còn chị đâu? Trương Phi nói: - Hãm cả ở trong thành. Lưu Bị nín lặng chẳng nói câu gì. Quan Công dẫm chân mắng rằng: - Khi trước mày đòi giữ thành, nói những câu gì? Anh dặn mày như thế nào? Bây giờ thành trì thì mất, chị lại bị hãm, thế ra làm sao? Phi nghe anh mắng, sợ hãi không biết đường nào, rút ngay kiếm ra định tự vẫn. Thế thực là: Nghiêng bầu nốc rượu sao vui? Rút kiếm tự vẫn sự thôi đã rồi! Chưa biết tính mạng Trương Phi ra sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.[/spoil]
Nhà Điên thích tile gì thì bảo để set nhé! Cố lên, thanks ông! Add thêm ảnh evnt và items vào luôn. Dạo này đóng góp cho box ít người quá!