Trường Sa 1988 - Hồ sơ một sự kiện lịch sử: Đêm trước cuộc động binh Lời tòa soạn: Sau gần 35 năm, câu chuyện về cuộc thảm sát Gạc Ma năm 1988 vẫn còn nhiều lý do, chưa được kể lại một cách đầy đủ. Cuốn sách Trường Sa 1988 - Hồ sơ một sự kiện lịch sử do Võ Hà sưu tầm, biên soạn (Phanbook & NXB Đà Nẵng, 2021), dày gần 500 trang, là một hướng tiếp cận sự kiện mới mẻ. Tác phẩm tập hợp 159 bài báo, bản tin, xã luận, công hàm ngoại giao và tài liệu lịch sử, pháp lý xoay quanh sự kiện lịch sử này được đăng trên báo Nhân Dân và Quân đội nhân dân từ khoảng giữa tháng 2.1988 đến cuối tháng 6.1988 - trước, trong và sau sự kiện Gạc Ma ngày 14.3.1988. Thanh Niên xin giới thiệu đến bạn đọc loạt bài nhân kỷ niệm sự kiện lịch sử mà mỗi người Việt Nam không được phép lãng quên. Sau sự kiện đất nước Việt Nam thống nhất vào mùa xuân năm 1975, Trung Quốc lợi dụng tình thế “tranh tối tranh sáng” để theo đuổi ý định xâm chiếm quần đảo Trường Sa. Đây là những bước đi tiếp theo, bộc lộ rõ tham vọng của một nước láng giềng; nhất quán với hành động dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa (1974) và cuộc chiến tranh biên giới phía bắc (17.2.1979) mà Trung Quốc từng tiến hành. Nhưng với Trường Sa, mọi thứ đã bắt đầu từ trên mặt trận truyền thông, tuyên truyền khá ồn ào và phi lý. Một bức tranh tuyên truyền hình tượng “anh hùng” của Hải quân Trung Quốc trong vụ cưỡng chiếm Hoàng Sa ngày 19 và 20.1.1974 Từ bức tranh giả “Tây Sa” Một quang cảnh những đoàn thuyền đưa dân nô nức tiến ra “Tây Sa” (Hoàng Sa của Việt Nam) sinh sống, ở đó nông dân thì trồng cao lương, công nhân thì tích cực lao động xây dựng công trường, ngư dân thì hăng say đánh bắt, dân quân thì ngày đêm canh gác tuần tra bảo vệ đảo... Đó là những gì xuất hiện trên các báo chí của Trung Quốc từ đầu tháng 2.1974, sau khi quân đội nước này dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa do chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý (19.1.1974). Quyết tâm bảo vệ “Tây Sa” được Trung Quốc tô đậm trên báo chí truyền thông với đủ thể loại, ngôn ngữ. Tiêu biểu là cuốn tiểu thuyết Người con Tây Sa của Hạo Nhiên được xuất bản và được giới phê bình Trung Quốc nhảy vào thổi phồng, ca ngợi. Cuộc triển lãm Quần đảo Tây Sa, một trong các đảo ở Nam Hải nhân kỷ niệm 25 năm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã mang đến công chúng 100 bức ảnh màu chụp cảnh “quân dân Tây Sa”. Ngoài ra, nhiều chương trình văn nghệ lấy Tây Sa làm nguồn cảm hứng đã diễn ra ở Bắc Kinh nhằm mang đến cho người dân Trung Quốc một cái nhìn về “Tây Sa” thật gần gũi, hợp thức và củng cố niềm tin rằng đó là một phần lãnh thổ đất nước. Tác giả Văn Trọng, trong cuốn Hoàng Sa - Quần đảo Việt Nam (NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 1979) đã viết về cuộc tuyên truyền “Tây Sa” của Trung Quốc trong thời gian này: “Năm 1975, nổi bật là các tin tức, tàu hải quân đi tuần tiễu, tàu đánh cá của Công ty thủy sản Nam Hải, nhà ba tầng, trụ sở cơ quan, trạm khí tượng... ở “Tây Sa”. Năm 1976, người ta lại được đọc thơ Hạt giống Đại Trại gieo khắp Tây Sa, xem ảnh Tây Sa thu hoạch cá, đọc bài Tây Sa đáng yêu, xem tranh khắc gỗ Tây Sa gắn liền với Thiên An Môn, xem phim Nam Hải phong vân với lời bình trắng đen đảo lộn hiếm thấy rằng: “Nam Việt Nam ngang nhiên huy động máy bay, tàu chiến xâm phạm vùng trời vùng biển các đảo Nam Hải, cưỡng chiếm các đảo của chúng ta, nổ súng bắn vào ngư dân ta đang sản xuất và tàu chiến hải quân ta đang làm nhiệm vụ tuần tra...”. Cũng theo tác giả Văn Trọng trong cuốn sách nói trên, tại Trung Quốc, việc tuyên truyền về “Tây Sa” như một chính sách đối nội mị dân được tiến hành liên tục trong giai đoạn từ năm 1977 - 1979. Có thể kể đến bản hợp xướng Ánh đèn Tây Sa được phát hành dưới dạng đĩa hát, các phim ảnh ca ngợi “Tây Sa” được phát trên vô tuyến truyền hình và cuộc triển lãm Thủ công mỹ nghệ của Tây Sa diễn ra tại công viên Trung Sơn (Bắc Kinh). ... đến tầm ngắm “Nam Sa” Sau khi tự củng cố niềm tin chủ quyền trong dân chúng với “Tây Sa”, những bước tiến với ý định chiếm hữu “Nam Sa” (tức Trường Sa của Việt Nam) được Trung Quốc thực hiện ban đầu cũng trên phương diện ngoại giao. Đối với tài liệu bản đồ, ngày 30.1.1980, ít lâu sau khi bị quân đội Việt Nam đẩy lùi ở biên giới phía bắc, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra một văn kiện, theo đó công bố bản đồ thời nhà Thanh để chứng minh chủ quyền ở “Nam Sa và Tây Sa”. Đó là hai bản đồ: “Hoàng triều nhất thống dư địa tổng đồ” trong cuốn Hoàng Thanh nhất thống dư địa đồ, xuất bản năm Quang Tự thứ 20 (1894) và “Đại Thanh đế quốc” trong tập Đại Thanh đế quốc toàn đồ do Thương vụ ấn thư quán Thượng Hải xuất bản năm Quang Tự thứ 31 (1905), tái bản năm Tuyên Thống thứ 2 (1910). Tuy nhiên, điều đáng nói là trong văn kiện ngoại giao trên, phía Trung Quốc chỉ nêu tên mà không đính kèm bản đồ để làm bằng chứng. Trong khi đó, thực tế thì các bản đồ Trung Quốc cho đến thời điểm thời kỳ đầu của Trung Hoa dân quốc (kể cả hai bản đồ thời nhà Thanh đã được nêu) đều không vẽ “Tây Sa” và “Nam Sa” như phía Trung Quốc nói, mà lãnh hải Trung Quốc chỉ có ranh giới đến đảo Hải Nam. Về phía Việt Nam, cuộc chiến giành chủ quyền Trường Sa và Hoàng Sa trong khoảng 1975 đến 1988 diễn ra thực sự căng thẳng về truyền thông, nghiên cứu và ngoại giao trước khi Trung Quốc tiến hành cuộc xâm nhập trên thực địa. (còn tiếp) Võ Hà Nguyễn An Nam Link: https://thanhnien.vn/truong-sa-1988...-su-dem-truoc-cuoc-dong-binh-post1436905.html Spoiler: Trên bàn ngoại giao và thực địa Phía Trung Quốc, những chiến dịch tuyên truyền về chủ quyền Tây Sa và Nam Sa trong nước đã cho thấy một sự dàn xếp cho kế hoạch bành trướng trên thực địa. Với Việt nam thời điểm những năm sau chiến tranh, kinh tế và tổ chức xã hội còn nhiều khó khăn, việc đảm bảo giữ vững lập trường chủ quyền biển đảo bằng truyền thông, nghiên cứu và ngoại giao nhất quán với thực địa là một nhiệm vụ lớn lao. Bộ đội đặc công hải quân Đoàn 126 tiếp quản đảo An Bang thuộc quần đảo Trường Sa, ngày 28.4.1975 Sách trắng “gọi đúng bản chất” Trước những tuyên truyền thiếu căn cứ của Trung Quốc năm 1979, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt nam ra cuốn Sách trắng Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nêu rõ: “Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đời khi mà các quần đảo đó chưa hề thuộc chủ quyền một quốc gia nào. Từ đó đến nay, Việt Nam liên tục thực hiện chủ quyền của mình đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. Tháng 1.1982, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam tiếp tục công bố cuốn Sách trắng Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa - Lãnh thổ Việt Nam, bổ sung các tài liệu nghiên cứu giá trị khoa học về mặt lịch sử, pháp lý. Tháng 3.1982, NXB Sự thật xuất bản tập sách Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa - Bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. Tập sách ngoài việc giới thiệu một số nét khái quát về địa lý, cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên của quần đảo Hoàng Sa và các chứng cứ lịch sử (tài liệu trong nước và phương Tây), còn nhấn mạnh thời kỳ 1954 - 1975 khi quần đảo Hoàng Sa đặt dưới sự quản lý trực tiếp của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sau khi trích lại các tuyên bố của chính quyền Việt Nam Cộng hòa phản bác các tuyên bố của chính quyền Trung Quốc khi đưa quân xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa tháng 1.1974, tập sách Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa - Bộ phận lãnh thổ của Việt Nam chỉ ra: “Sau khi miền Nam được giải phóng đồng thời cũng từ đó, âm mưu thôn tính, bành trướng của Bắc Kinh đối với Việt Nam bộc lộ trắng trợn, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã nhiều lần thông qua các hoạt động đối ngoại của mình, khẳng định dứt khoát vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (tr.22, 23). Đồng thời, cuốn sách nói trên cũng khẳng định lại cả một tiến trình lợi dụng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc: “Cũng cần phải nói rằng, trong thời kỳ Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, phía Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đó để lấn chiếm và thôn tính từng phần lãnh thổ của Việt Nam. Ngay từ năm 1956, Bắc Kinh đã đưa quân ra chiếm đóng đảo Phú Lâm rồi mở rộng việc chiếm đóng ra các đảo phía đông trong quần đảo Hoàng Sa. Hành động này của Bắc Kinh chẳng những là một hành động xâm lược mà còn tệ hại ở chỗ họ đã phản bội nhân dân Việt Nam, những người mà họ thường lớn tiếng gọi là “bạn bè, anh em” (tr.27, 28). Năm 1984, đúng dịp 10 năm Trung Quốc chiếm đóng trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (1974 - 1984), Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam và NXB Khoa học xã hội đã hợp tác tái bản có bổ sung cuốn Sách trắng năm 1982. Trong lần tái bản này, cuốn Sách trắng đã được bổ sung nhiều sử liệu chứng minh chủ quyền hợp pháp của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt, các học giả Việt Nam cũng cho in lại hai bản đồ thời nhà Thanh (mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố ngày 30.1.1980), chứng minh bản đồ thời nhà Thanh đã được chính phủ Trung Quốc “bóp méo” để thể hiện tham vọng độc chiếm “Tây Sa” và “Nam Sa” như thế nào. Vấn đề chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam không chỉ là trên bàn ngoại giao, trong sách sử hay truyền thông, mà còn được nhất quán trên thực tế. Nhất quán với quản lý thực địa Tháng 4.1975, các lực lượng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, triển khai lực lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, nhà nước CHXHCN Việt Nam đã tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa bằng nhiều hoạt động, vừa đảm bảo đầy đủ và đúng thủ tục trên phương diện đấu tranh pháp lý, vừa đảm bảo củng cố và duy trì sự hiện diện của quân và dân trên các thực thể địa lý hiện đang đặt dưới sự quản lý của nhà nước Việt Nam. Trong năm 1982, để tăng cường thực thi và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, ngày 9.12.1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 194-HĐBT về việc thành lập H.Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nêu rõ: “Thành lập H.Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng bao gồm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trước đây thuộc H.Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng”. Lần đầu tiên trong lịch sử quản lý hành chính quần đảo Hoàng Sa, Hội đồng Bộ trưởng nước CHXHCN Việt Nam xác lập một mô hình quản lý mới: Nâng quần đảo Hoàng Sa lên cấp huyện, là “H.Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng”. Cũng năm 1982, Việt Nam đã thành lập H.Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa. H.Trường Sa gồm có 3 đơn vị hành chính cấp xã: TT.Trường Sa (bao gồm đảo Trường Sa lớn và phụ cận), xã Song Tử (đảo Song Tử Tây và phụ cận) và xã Sinh Tồn (đảo Sinh Tồn và phụ cận). (còn tiếp) (Lược trích: Trường Sa 1988 - Hồ sơ một sự kiện lịch sử, tác giả Võ Hà, Phanbook & NXB Đà Nẵng, 2021) Link: https://thanhnien.vn/truong-sa-1988...n-ban-ngoai-giao-va-thuc-dia-post1437422.html Spoiler: Những bước xâm lấn thực địa Chuẩn bị tiến hành chiến dịch xâm lấn quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc thành lập một bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải, gồm 40 tàu với khoảng 1.000 quân thay nhau hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa. Mang vũ khí đi “khảo sát khoa học” Trong các khí tài quân sự mà Trung Quốc “đầu tư” cho cuộc xâm nhập, có thể kể đến: có 20 tàu mà Trung Quốc thường xuyên duy trì hoạt động (10 tàu chiến và 10 tàu hỗ trợ) quanh quần đảo Trường Sa là: Tàu khu trục tên lửa lớp Lữ Đại mang số hiệu 164; các tàu hộ vệ tên lửa lớp Giang Hộ mang số hiệu 510, 511, 513, 551, 552, 556; tàu hộ vệ tên lửa lớp Thành Đô mang số hiệu 506; tàu hộ vệ lớp Giang Đông mang số hiệu 531; tàu hộ vệ lớp Giang Nam mang số hiệu 503; 10 tàu bổ trợ (tàu đổ bộ số 929, 3 tàu vận tải số 615, 463, 937, tàu đo đạc số 833, tàu kéo số 147; các tàu đánh cá có vũ trang số 427, 811, 813, 812); ngoài ra còn một số pông tông và sà lan tự hành. Từ giữa năm 1987, Trung Quốc có nhiều hoạt động xâm phạm lãnh thổ Việt Nam ở khu vực quần đảo Trường Sa như trinh sát, khảo sát, tập trận, cắm bia… nhằm biến các bãi cạn này thành căn cứ quân sự, các điểm đóng quân, để “đặt chân vào” khu vực Trường Sa của Việt Nam. Trung Quốc chiếm đóng và xây dựng trên bãi đá Chữ Thập vào đầu tháng 2.1988 Cụ thể, “từ ngày 16.5 - 16.6.1987, Trung Quốc tiến hành diễn tập ở quần đảo Trường Sa có sự tham gia của nhiều tàu thuộc hạm đội Nam Hải” (Theo Nguyễn Hữu Đạo trong bài nghiên cứu: “Trung Quốc xâm lấn quần đảo Trường Sa năm 1988”, Thông tin đối ngoại, 8.2014, tr. 52). Cùng với đó, dưới danh nghĩa khảo sát khoa học, Trung Quốc cho nhiều tàu đi thu thập tin tức tình báo ở các đảo phía nam quần đảo Trường Sa. Đầu năm 1988, tình hình trên quần đảo Trường Sa rất phức tạp, Trung Quốc đơn phương đưa tàu chiến hoạt động ở vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam và đổ quân chiếm các bãi đá. Cụ thể: Ngày 31.1.1988, chiếm bãi đá ngầm Chữ Thập; ngày 18.2.1988, chiếm bãi đá ngầm Châu Viên; ngày 26.2.1988, chiếm bãi đá Ga Ven; ngày 28.2.1988, chiếm bãi đá Huy Gơ. Đồng thời phía Trung Quốc cũng cho tàu chiến ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải của Việt Nam đang làm nhiệm vụ hậu cần, tiếp tế cho các đảo. Trung Quốc cho xây dựng một số đường băng trên một vài đảo san hô làm đầu cầu tới các đảo khác, nhằm đe dọa các nhóm đảo của Việt Nam. Tại các bãi Chữ Thập, Châu Viên… đã có sự gây hấn căng thẳng, quyết liệt giữa tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc, có lúc nòng súng hai bên chĩa thẳng vào nhau, sẵn sàng khai hỏa. Tạo cớ xung đột vũ trang Trong tình thế hết sức khó khăn, Việt Nam cố gắng tìm mọi cách xây dựng, củng cố các khu vực, các vị trí của quần đảo Trường Sa mà Việt Nam đang quản lý, bằng việc đưa tàu vận tải chở vật liệu ra củng cố các đảo chìm, bãi đá theo một kế hoạch mang tên CQ-88 (Chủ quyền 88). Bộ Tư lệnh hải quân Quân đội nhân dân Việt Nam lệnh cho lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và các tàu của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, nhưng tránh âm mưu khiêu khích của tàu Trung Quốc; chỉ thị Lữ đoàn 125 chuẩn bị tàu, pông tông sẵn sàng đưa lực lượng ra đóng giữ thêm các bãi đá san hô (đảo chìm) ở Trường Sa; Trung đoàn 83 công binh chuẩn bị lực lượng và phương tiện sẵn sàng cơ động xây dựng trên đảo. Ngày 2.12.1987, tàu HQ-604 thuộc Lữ đoàn 125 hải quân đưa bộ đội ra đóng giữ, xây dựng trên đảo chìm Đá Tây; ngày 26.1.1988, quân ta đóng giữ, xây dựng trên đảo chìm Tiên Nữ. Sau đó, hải quân Việt Nam liên tiếp đóng giữ, xây dựng trên các đảo chìm: đảo Đá Lát (5.2.1988), đảo Đá Lớn (6.2.1988), đảo Đá Đông (18.2.1988), đảo Tốc Tan (27.2.1988), cắm chốt đảo Núi Le (2.3.1988). Khi Trung Quốc chiếm đóng bãi Chữ Thập và bãi Châu Viên, ngày 20.2.1988, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố: “Ngày 31.1.1988, trong khi 2 tàu vận tải của Việt Nam làm nhiệm vụ bình thường ở vùng biển quần đảo Trường Sa của Việt Nam thì 4 tàu chiến của hải quân Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam đã tiến hành khiêu khích và cản trở. Bốn tàu chiến này đến nay vẫn còn ở trong vùng biển Việt Nam. Mấy ngày gần đây, phía Trung Quốc còn điều thêm nhiều tàu chiến đến khu vực này. Tiếp theo nhiều hoạt động của hải quân Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam ở vùng quần đảo Trường Sa trong những năm qua như trinh sát, khảo sát, tập trận, cắm bia... những hành động phi pháp trên đây bộc lộ rõ ý đồ của nhà cầm quyền Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng an ninh của nước Việt Nam và của các nước ven Biển Đông, gây tình hình căng thẳng và mất ổn định ở Đông Nam Á”. Mặc cho những phản ứng ngoại giao nêu rõ và chỉ đích danh hành vi xâm lược, Trung Quốc vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc xâm chiếm trên thực địa. Những ngày cuối tháng 2.1988, Trung Quốc cho quân xâm lấn và đóng quân thêm ở các bãi Ga Ven, Ke Nan và khống chế bãi Gạc Ma nằm trong cụm đảo Sinh Tồn thuộc quần đảo Trường Sa. Quân đội Trung Quốc ngày càng đẩy mạnh các hoạt động ngăn cản, phong tỏa và dùng vũ lực khiêu chiến các tàu vận tải của Việt Nam nhằm tạo cớ gây xung đột vũ trang. Đầu tháng 3.1988, Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, “tăng số tàu hoạt động thường xuyên ở đây lên 9 đến 12 tàu chiến gồm 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn”. Tư lệnh Quân chủng Hải quân Việt Nam điều quân đóng giữ các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao, giao cho Lữ đoàn vận tải 125 cử lực lượng thực hiện nhiệm vụ này bởi Gạc Ma có vị trí quan trọng, nếu để hải quân Trung Quốc chiếm giữ thì họ sẽ khống chế đường tiếp tế cho các căn cứ khác tại quần đảo Trường Sa. (còn tiếp) (Lược trích: Trường Sa 1988 - Hồ sơ một sự kiện lịch sử, Võ Hà sưu tầm, biên soạn, Phanbook & NXB Đà Nẵng, 2021) Link: https://thanhnien.vn/truong-sa-1988...-nhung-buoc-xam-lan-thuc-dia-post1437615.html Spoiler: Mở màn cuộc thảm sát Gạc Ma Tối ngày 11.3.1988, tàu vận tải HQ-604 nhổ neo rời cảng Cam Ranh chở theo chiến sĩ công binh Trung đoàn 83 và lực lượng giữ đảo của Lữ đoàn 146 ra bãi đá Gạc Ma để xây dựng tại cụm đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Đó là chuyến ra khơi cuối cùng của con tàu này và là chuyến đi định mệnh của nhiều chiến sĩ trên tàu... Tàu HQ - 604 rời đất liền ra Trường Sa làm nhiệm vụ xây dựng đảo ba ngày trước khi xảy ra vụ thảm sát Gạc Ma (14.3.1988) Lấy chiến hạm tấn công tàu vận tải Thời điểm căng thẳng Trung Quốc đe đọa dùng vũ lực, phía Việt Nam cũng chỉ có ba tàu vận tải, chủ yếu là lực lượng công binh hải quân ra làm nhiệm vụ xây dựng tại đảo, đá với 2 phân đội công binh gồm 70 người và 4 tổ chiến đấu. Các tàu vận tải của Việt Nam gồm: HQ-604, HQ-505, HQ-605, đều là những tàu vận tải không trang bị vũ khí, ngoài các khẩu AK của các chiến sĩ công binh để tự vệ khi cần thiết. Trong khi đó, phía Trung Quốc đã tổ chức một chiến dịch quân sự rất rõ ràng nhằm tiến hành xâm chiếm lãnh thổ thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tối ngày 11.3.1988, tàu HQ-604 nhổ neo từ Cam Ranh ra khơi, thực hiện nhiệm vụ tại cụm đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Hai giờ sáng ngày 12.3.1988, nhận thấy nhiều diễn biến bất thường, Tư lệnh Quân chủng Hải quân lệnh cho tàu HQ-605 thuộc Lữ đoàn 125 từ đá Đông đến đóng giữ đá Len Đao trước 6 giờ ngày 14.3.1988. Sau 29 tiếng vượt sóng, tàu HQ-605 đến Len Đao lúc 5 giờ sáng ngày 14.3.1988 và cắm cờ Tổ quốc trên bãi đá này. Tàu HQ-505 đang làm nhiệm vụ trực tại Trường Sa cũng nhận lệnh đến Cô Lin. Phối hợp với hai tàu HQ-505 và HQ-604 có hai phân đội công binh (70 người) thuộc Trung đoàn Công binh 83, bốn tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 do trung tá, Lữ đoàn phó Trần Đức Thông chỉ huy và 4 chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo đạc, biên vẽ bản đồ (thuộc Bộ Tổng tham mưu). Sau khi tàu HQ-604 và HQ-605 có mặt tại Gạc Ma vào chiều tối 13.3.1988, tàu Trung Quốc áp sát tàu HQ-604 và dùng loa gọi sang uy hiếp. Chiến hạm của Trung Quốc cùng một tàu hộ vệ, hai tàu vận tải thay nhau chạy quanh đảo Gạc Ma. Đêm 13.3.1988, Sở Chỉ huy Quân chủng Hải quân lệnh cho bộ phận giữ đảo quyết tâm phải giữ vững các mục tiêu đã xác định và ngay trong đêm, xuồng vận tải chở vật liệu xây dựng được chuyển xuống đảo. Một nhóm chiến sĩ gồm thiếu úy Trần Văn Phương và 4 đồng chí khác nhận lệnh vào đảo cắm cờ Tổ quốc khẳng định chủ quyền. Về diễn biến của thảm sát Gạc Ma ngày 14.3.1988, trong bài viết: “Sự thật ở Trường Sa: cuộc tiến công bằng tàu khu trục tên lửa của Trung Quốc vào ba tàu vận tải không có vũ khí tiến công của ta ở vùng đảo Sinh Tồn”, tác giả Ngọc Đản thuật lại trên Báo Nhân Dân số ngày 24.3.1988: “Ba chiếc tàu chiến mang số 556, 653 và 552 áp sát các tàu vận tải của ta. Có lúc tàu 505, 502 của chúng mở hết tốc độ như muốn lao thẳng vào các tàu HQ-604 và HQ-605 của ta ở Gạc Ma và Cô Lin. Lúc đó, trên đảo Gạc Ma, các chiến sĩ ta đã giương cao lá cờ đỏ sao vàng ra hiệu cho các tàu chiến Trung Quốc biết đây là vùng đảo thuộc chủ quyền Việt Nam. Trên tàu HQ-604, loại tàu “Đại Khánh” do Trung Quốc sản xuất trọng tải 50 tấn, ta đã sử dụng hàng chục năm nay, đồng chí Thông (Trần Đức Thông) - cán bộ chỉ huy đứng trước mũi tàu nhắc nhở chiến sĩ tỉnh táo không để mắc mưu khiêu khích của địch. Đồng chí ra lệnh giọng vang át cả sóng biển: “Tất cả không được nổ súng khi tôi chưa ra lệnh!”. Máu đã nhuộm biển quê hương Sự khiêu khích, đe dọa của quân đội Trung Quốc không làm cho các công binh phía Việt Nam nhụt chí, nhất là không mắc mưu trong việc “ai nổ súng trước”. Theo Báo Nhân Dân ngày 24.3.1988, ngay sau khi nhận thấy những màn khiêu khích không có tác dụng, thì: “Tàu chiến số 502 của Trung Quốc liền lao vào tàu vận tải HQ-604 của ta. Còn tàu HQ-604 vẫn hiên ngang không nhổ neo. Ngay phía sau tàu HQ-604, một số cán bộ, chiến sĩ do thiếu úy Trần Văn Phương - Trung đội trưởng thuộc đoàn Trường Sa trực tiếp chỉ huy đang làm nhiệm vụ trên đảo có cắm lá cờ Tổ quốc. Chủ quyền vùng đảo của chúng ta được khẳng định bằng chiếc tàu đang neo tại bến và các chiến sĩ trên đảo. Một phân đội nhỏ được lệnh xuống chiếc ghe nhỏ, chở hàng hóa lương thực, thực phẩm vào bờ, không mang theo vũ khí. Điên cuồng trước thất bại uy hiếp tàu vận tải HQ-604 của ta, từ trên chiếc tàu chiến số 502, bọn chỉ huy Trung Quốc ra lệnh cho bọn lính chuyển xuống xuồng máy tiến công vào đảo Gạc Ma. Có 71 tên do một tên cầm súng ngắn chỉ huy, đứa nào cũng cắt tóc ngắn, lăm lăm súng AK đeo dây băng đạn trước ngực, súng đã giương lê… Tên chỉ huy lăm lăm khẩu súng ngắn cùng hàng chục tên tràn lên bãi đảo của ta, nơi đã có lá cờ Tổ quốc Việt Nam và các chiến sĩ Trường Sa. Lúc này, lính Trung Quốc chĩa mũi súng vào thiếu úy Trần Văn Phương. Một số tên nói tiếng Việt trắng trợn gào thét: “Đây vùng đảo của Trung Quốc”. Thiếu úy Trần Văn Phương và các chiến sĩ lên tiếng trả lời: “Hãy bỏ súng xuống! Không nên gây đổ máu!”. Câu nói của thiếu úy Trần Văn Phương chưa dứt, một tên đã nhào vô hòng nhổ lá cờ đỏ sao vàng. Thiếu úy Trần Văn Phương nhanh tay giằng lấy, Nguyễn Văn Lanh, binh nhất 22 tuổi lao lên giữ cờ. Một tên lính Trung Quốc cao to, giữ chiếc máy bộ đàm nhỏ trên tay nắm ngay chiếc xà beng của chiến sĩ ta để trên đảo từ phía sau lao xả vào lưng anh. Anh kịp tránh: Thiếu úy Trần Văn Phương giữ chặt lá cờ Tổ quốc thì bị một trên khác bắn xả vào anh một loạt đạn AK. Trần Văn Phương ngã xuống, Nguyễn Văn Lanh vừa đánh bật khẩu súng ngắn trên tay tên chỉ huy thì một tên lính khác dùng lưỡi lê đâm thẳng vào phía sau lưng Lanh chệch vào bả vai bên trái. Nó bắn tiếp viên đạn AK vào Lanh trúng sát vết lê đâm. Anh gục xuống trong dòng máu đỏ”. (còn tiếp) (Lược trích: Trường Sa 1988 - Hồ sơ một sự kiện lịch sử, Võ Hà sưu tầm, biên soạn, Phanbook & NXB Đà Nẵng, 2021) Link: https://thanhnien.vn/truong-sa-1988...-mo-man-cuoc-tham-sat-gac-ma-post1438061.html
Càng ngày càng nhiều người “quỳ”, như cái con ếch trên gvn này, nên phải tung hàng ra cho bớt quỳ hả ta
Chiến tranh Nga-Ukraina mà Tàu thấy bị nói hơi nhiều, là thằng chém gió hơi nhiều với bọn Tàu thì mình trình bày các quan điểm và thái độ của Trung Quốc với Việt Nam. Họ sẽ hỗ trợ khi cảm thấy có lợi, chống phá và là tiến đánh khi cảm thấy bị uy hiếp dưới góc nhìn của Trung Quốc. Việc Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vì điều này có lợi cho Trung Quốc, đảm bảo một vùng đệm an toàn giữa Trung Quốc với thuộc địa, chư hầu của phương Tây. Mặt khác, Trung Quốc không muốn Việt Nam thống nhất, một Việt Nam bị chia cắt thì Hà Nội phải xoay quanh trục của Bắc Kinh như Bình Nhưỡng. Chúng ta lựa chọn và quyết tâm thống nhất và gia tăng hợp tác với Liên Xô, đỉnh điểm là Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Liên Xô - Việt Nam thể hiện quan hệ hợp tác cao nhất giữa 2 quốc gia. Lúc này Trung-Xô đã ở trạng thái thù địch nghiêm trọng, Trung Quốc tìm kiếm sự hòa giải với Mỹ để gia nhập vào chuỗi bao vây Liên Xô với phương Tây. Trung Quốc ở thế yếu hơn nhiều Liên Xô, luôn căng thẳng trước sức ép quân sự khổng lồ của Liên Xô ở phía bắc. Việt Nam với uy thế chính trị, quân sự vô song năm 1975 được Trung Quốc nhận định là mối uy hiếp to lớn ở phương nam, đồng thời cho rằng cộng sản Việt Nam sẽ tìm hợp nhất Đông Dương thành 1 quốc gia to lớn hùng mạnh. Trung Quốc cần tìm mọi cách để uy hiếp, suy giảm sức mạnh của Việt Nam. Đầu tiên chính là hỗ trợ Pol Pot khơ me đỏ, việc Pol pot giết bao nhiều người Cam pu chia không quan trọng đối với Trung Quốc, quan trọng nhất là Trung Quốc cần một đồng minh sẵn sàng chiến đấu chống lại Việt Nam, bất kỳ ai ở Campuchia sẵn sàng chống lại Việt Nam khi đó sẽ được Trung Quốc hỗ trợ. Hiện tại có 1 tính huống khá tương tự ở Nam Á, Trung Quốc hỗ trợ hết mực Pakistan vì quốc gia này sẵn sàng chiến đấu với Ấn Độ. Một khi Pakistan còn ý chí chống lại Ấn Độ, Trung Quốc sẽ đổ vô số tiền bạc, vũ khí cho Pakistan kìm chân Ấn Độ. Khơ me đỏ đã làm tốt nhiệm vụ của mình quấy rối tây nam Việt Nam thậm chí tấn công lớn vào Việt Nam. Tình huống bắt buộc Việt Nam phải tấn công vào Campuchia và Trung Quốc có cơ hội quy tội "bành trướng" cho Việt Nam. Trước thái độ "bành trướng" của Việt Nam, Trung Quốc cần "tự vệ phản kích" bằng cách đưa quân tiến đánh. Phía chúng ta xác định 5 mục tiêu của TQ khi tấn công Việt Nam năm 1979 như sau: Bảo vệ chế độ Khmer Đỏ. Tranh thủ Mỹ và phương Tây giúp họ xây dựng “bốn hiện đại hóa” Làm suy yếu tiềm lực kinh tế, quân sự Việt Nam. Uy hiếp Lào từ phía Bắc, làm suy yếu liên minh chiến đấu Việt - Lào, buộc Lào “trung lập” và thị uy với các nước Đông Nam Á. Thăm dò phản ứng của Liên Xô và dự luận thế giới. Việc bảo vệ chế độ Khơ me đỏ thường đường xếp nhất, tuy nhiên mục đích bảo vệ chế độ này là để nó quấy phá gây áp lực lên Việt Nam ở tây nam, các mục tiêu 1/3/4 chung lại chỉ nhằm để Việt nam yếu đi, không còn có thể "uy hiếp" được Trung Quốc. Sau đó xung đột kéo dài ở biên giới phía bắc từ 81-91, mục tiêu chủ yếu vẫn là làm Việt Nam trở nên yếu đi, phải tập trung sức lực vào quốc phòng không có cơ hội phát triển. Năm 1991, sự kiện chấn động thế giới là Liên Xô sụp đổ, nguy cơ lớn nhất của Trung Quốc biến mất và Việt Nam bỗng dưng không còn là "mối uy hiếp", quan hệ Việt -Trung được bình thường hóa. Lúc này nguy cơ lớn nhất với Trung Quốc trở lại là Mỹ, siêu cường duy nhất của thế giới lúc đó, đỉnh điểm là khủng hoảng eo biển Đài Loan 1996, tuy nhiên Mỹ lúc này quá mạnh buộc Trung Quốc phải giấu mình chờ thời để phát triển. Quan hệ Trung-Việt cơ bản bình ổn được 20 năm, bắt đầu quay trở lại căng thẳng sau khi Trung Quốc tăng cường các yêu sách trên biển Đông với đường 9 đoạn, HD-981 là sự kiện dấu mốc đánh dấu sự thù địch quay trở lại, Việt Nam có thể không muốn nhưng Trung Quốc muốn gây hấn trong giới hạn để phục vụ mục đích của mình. Hiện tại Việt Nam không phải là "mối uy hiếp" của Trung Quốc, nhưng họ hiện tại không cần một Việt Nam trung lập, Trung Quốc muốn Việt Nam quay lại quỹ đạo của Trung Quốc, họ không cần xâm chiếm lãnh thổ hay cai trị người Việt Nam, mà cần Việt Nam thần phục thành chư hầu, vệ tinh dưới lãnh đạo của Trung Quốc. Về cơ bản nguy cơ Trung Quốc đưa quân tiến đánh Việt Nam gần như không thể xảy ra, trừ khi có một Zelensky in Hanoi tìm cách ký US-Vietnam Security Treaty để đưa quân Mỹ vào lãnh thổ Việt Nam thì xác định Trung Quốc sẽ bỏ bom Hà Nội trước khi quân Mỹ vào. Hiện tại Trung Quốc sẽ tiếp tức gây sức ép với Việt Nam bằng các công cụ mềm như xung đột có mức độ ở biển Đông, gây áp lực bằng kinh tế, phá thế liên minh Việt-Lào, đưa Lào-Cam vào quỹ đạo của Trung Quốc thì sẽ bao vây được Việt Nam từ cả đông và tây, chèn ép liên tục và từ từ tới khi Việt Nam phải thần phục. -Khoai- https://www.facebook.com/groups/465432187641013/posts/1094907464693479/