Việt Nam Đại Chí Truyện

Thảo luận trong 'RTK và others' bắt đầu bởi trinh phuc tuan, 17/11/10.

  1. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Tác giả: Mộ Dung Sinh - TPT
    Thừa Thiên Năm 2010

    Bản sơ khảo, còn tiếp tục chỉnh lý


    Phi Lộ:

    Khi xưa ta xem Bắc sử, đọc Đông Chu Liệt Quốc đến đoạn Ngũ Tử Tư bị giết, đầu treo nơi Bắc môn thì giận tím cả mặt, xem Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa đến đoạn Quan Vân Trường chết nơi Đông Ngô thì lệ đẫm cả sách, xem Tống Thư đến đoạn Văn Thiên Tường viết Chính Khí Ca thì cảm khái thay cho kẻ hào kiệt.

    Tần Quỳnh, Uất Trì Cung lao động đường phố Lý Thế Dân mà nổi danh thiên hạ, Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật giúp Lý Hanh mà công danh đầy sử sách. Nhạc Phi công lao hãn mã mà oan khuất ở Phong Ba Đình, Hàn Thế Trung chán nãn mà ngao du sơn thủy.

    Gia Cát Lượng ôm hận nơi Ngũ Trượng khiến Tây Thục bị nuốt, Vương Mãnh yểu mệnh mà Tiền Tần bị giệt vong. Thế mới biết thế cuộc không lường mà kẻ sĩ hào kiệt danh lưu muôn thở.

    Lần xem Nam sử, thấy Triệu Đà lập quốc một cõi mà người đời sau vẫn còn chưa biết tính vào một kỷ hay không?. Lê Long Đĩnh nắm ngôi bốn năm, chết vẫn mang tiếng hôn quân Ngọa Triều!. Đến những lúc đọc Tiền Ngô Vương thắng quân Nam Hán, Lê Đại Hành phá Tống thì vổ tay khen. Đến khi đọc Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi thì thấy huyết quản sôi lên, máu Lạc Hồng cuộn chảy.

    Đến Nam - Bắc Triều, rồi Trịnh - Nguyễn phân tranh, sử đã xem qua, ký cũng đã đọc. Anh hùng, hào kiệt, mưu thần, kẻ sĩ đủ cả. Văn phong chưa phải quá hay nhưng cũng đã thoát thai phần nào cái hồn của người trong cuộc. Đến hồi Tây Sơn - Phụ Nguyễn tranh hùng, kẻ sĩ đầy rẫy, chiến tích dày đặc, mưu lạ vô biên. Thấy thế cuộc xoay vần, không ai có thể tiên liệu được.

    Khi Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm đem quân vào nam lấy Phú Xuân, cứ nghĩ An Nam đã thu về một mối. Nhưng vận khí nước Nam vẫn chưa đạt khiến cho Hoàng Ngũ Phúc mạng vong và quân Bắc Hà dịch bệnh chết hơn phân nữa. Nguyễn Nhạc cơ mưu, trước dựng Hoàng Tôn Dương, sau trá hàng quân bắc, mấy lần vào nam đánh Gia Định, cứ nghĩ đã nắm yên được Nam Hà.

    Nguyễn Huệ dùng Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân lấy Phú Xuân, rồi đem quân hổ báo mà đánh giết đàn dê Bắc Hà khiến họ Trịnh mất vía, ngỡ cũng làm thêm một chúa Nguyễn ở phía Bắc. Thế mà đang đêm rút quân khiến cho Bắc Hà tiếng là có Lê Đế mà bơ vơ vô chủ. Thế rồi huynh trưởng xưng đế, hai đệ phong vương, rồi huynh đệ tương tranh, Phú Xuân - Quy Nhơn ly tán, Thăng Long - Gia Định đều rồi loạn.

    Họ Nguyễn ở Nam Hà đã chết hai chúa, Họ Trịnh ở Bắc Hà cũng chẳng hơn gì. Tân Chính Vương, Thái Thượng Vương họ Nguyễn thua trận bị giết, Thụy Quận Công, Quế Quận Công họ Trịnh dấy binh bất lực rồi cũng bỏ đi ẩn tích. Nguyễn Hữu Chỉnh quyền mưu, nổi danh Hữu quân rồi cũng chết vì một tay Tả quân Vũ Văn Nhậm. Ve sầu bọ ngựa , Tả quân kia lại chết vì tay thuộc hạ bất phục.

    Cái lúc Bắc Bình Vương lên ngôi Đế ở Bân Sơn, xua quân tỳ hổ mà đánh đàn ưng khuyển nước Thanh phương Bắc do Chiêu Thống rước về, cứ nghĩ nước Nam giờ đã phục hưng mà ngôi Cửu ngũ tức vị kia cũng là chính đáng. Thế mà trời chả chiều lòng người khiến cho kẻ anh hùng yểu mệnh. Con côi, vợ dại, đám đại thần toàn là kẻ hào kiệt nhưng chẳng ai làm nổi cái việc như Vũ Hương Hầu Gia Cát Lượng nhà Hán, Thái sư Lý Đạo Thành nhà Lý. Bùi Đắc Tuyên dã tâm có thừa mà quyền biến thì còn thua xa Trần Thủ Độ. Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Lê Văn Hưng, Lê Trung há phải kẻ tầm thường mà thế cuộc lại tranh giành chả kém gì bọn Trịnh Tuy, Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trần Chân đời Hậu Lê. Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ có tài mà không kịp dùng. Hết vụ biến Thiền Lâm đến binh loạn Hương Giang thì cái công giãy bày biết mấy cho đủ. Thế cho nên cơ đồ mới gây dựng đã đổ mất rồi.

    Trước là Đại Nguyên Soái rồi lên Nhiếp Chính Quốc sau làm Nguyễn Vương. Khi bơ vơ nơi Cổ Cốt, đói khát nơi Vọng Cát mà đêm ngày vẫn mong về Gia Định. Thù nhà nợ nước, hai vai nặng gánh giang sơn. Một lần nhờ cậy quân Xiêm mà hậu thế còn mãi mĩa mai giễu sự. Thế rồi mưu thần kẻ sĩ hội ngộ, anh hùng hào kiệt theo về. Đặng Dĩnh Siêu từ cựu đô tìm đến, Đặng Trần Thường từ đất bắc theo về. Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành bền gan giúp chúa. Gia Định tam kiệt theo lao động đường phố, tam hùng trợ giúp. Hễ kẻ này ngã xuống, kẻ khác lại tiếp thay. Một đất Gia Định mở rộng, bảo hộ Chân Lạp, giao hữu Xiêm La, kết giao Vạn Tượng.

    Đám cựu thù kia người thì đã đuối sức mà chết, kẻ thì bất lực chết già nơi đất Quy Nhơn, người lại yểu mệnh trời để so gươm đọ giáo. Đành hết sức mà đánh báo thù nơi đám con cháu và bọn đồ đảng. Trước lấy Diên Khánh, sau lấy Quy Nhơn. Dốc binh lực mà lấy Phú Xuân, lên ngôi đế để thu phục Bắc Hà. Đem giang sơn thu về một cõi.

    Công danh là thế, sự nghiệp là thế. Từ xưa đến nay quả chưa từng có. Thế mà một lễ Hiến Phù cũng khiến cho bảo kẻ ngoại quốc kinh ngạc, hậu thế dèm chê. Ta có phải là người trong cuộc không? làm sao dám xét?

    Tây Sơn kia có tài đức gì? Nếu không: sao từ cái đất hoang sơ cùng khổ dấy lên, hô một tiếng mà vạn người theo về. Đánh nam dẹp bắc, trong mấy năm mà thành đế nghiệp. Nội một nhà mà Nhị Đế, Nhất Vương. Nếu có: sao kết cục lại bi thương quá vậy, khiến hậu thế bao kẻ xót xa.

    Phụ Nguyễn kia có tài đức gì? Nếu có: sao từ nơi vương nghiệp mà thảm bại đến vậy. Nhị chúa đều chết, kẻ cô cùng lang thang khắp đất khách quê người. Nếu không: sao từ đám cô quân, một chốc bỗng phục hồi đế nghiệp, mở ra kỷ mới.

    Vậy nên biết Nam sử đâu có kém gì Bắc sử. Anh hùng hào kiệt cứ theo sự tích mà ghi về. Đâu thể một yêu một ghét, một sớm một chiều mà phai bạt.


    Hồi 1:

    Lê Hiển Tông cầu an nơi điện ngọc
    Tĩnh Đô Vương mưu lược định sơn hà


    Phàm vận nước có lúc suy lúc hưng, bậc hùng anh có lúc tiến lúc thoái. Hể thuận lòng trời, được lòng người thì dẫu có trãi qua bao nguy hiểm, gian khó cũng có lúc kiến thành đại nghiệp, để lại công đức hậu thế muôn đời ca tụng. Nhược bằng trái lòng trời, nghịch lòng người thì dẫu hùng binh muôn vạn, tướng soái ngàn viên cũng có lúc sa cơ, đầu lìa khỏi cổ mà còn bị người đời nguyền rủa. Cho nên những bậc anh hùng cái thế đều lấy nhân nghĩa làm đầu, mưu cầu hạnh phúc cho trăm họ để tiếng thơm còn lưu truyền đến ngàn sau.

    Nước Nam từ khi Ngô Quyền mở cõi định ranh giới nam bắc, kế tiếp các triều Đinh, Lê, Lý, Trần thay nhau hùng cứ phương nam khiến cho trăm họ được cậy nhờ. Sau vì Hồ Quý Ly làm chuyện thoán nghịch bất đạo khiến dân chúng bất bình mà nhà Minh ở phương Bắc thừa cơ xâm lấn khiến cho nước nam phải lầm than, người người phải sống trong cảnh nước mất nhà tan, lầm than không sao kể xiết.

    May thay, trời vẫn tựa nước Nam. Lúc ấy Thái Tổ Lê Lợi chỉ là một kẻ áo vải nơi mạn ngược Lam Sơn - Thanh Hoa, thuận theo lòng trời, ứng với lòng người mà phất cờ dấy binh khởi nghĩa. Kẻ sĩ bốn phương theo về, trăm họ tám hướng hưởng ứng nên qua mười năm đánh dẹp gian khó cuối cùng đã khôi phục được Nam Việt, lập nên triều đại Hậu Lê lững lẫy hơn 300 năm. Các vị vua nối tiếp như Thái Tông, Thánh Tông đều ơn khắp lê dân khiến con dân chúng nước nam đều đội ơn sâu.
    Nhưng rồi vận nước hưng thịnh dần đến bước suy vong, bắt đầu từ các vị vua Tương Dực, Uy Mục đam mê tửu sắc, cai trị bạo ngược khiến trăm họ lầm than, quyền lực rơi dần vào tay ngoại thích họ Mạc. Mạc Đăng Dung tài hùng trí hiểm, phế nhà Hậu Lê lập nên triều Ngụy Mạc. Nhưng trăm họ nước Nam vẫn còn ghi nhớ ơn sâu của Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông nhà Hậu Lê, những kẻ tôi thần nghĩa sĩ nhà Hậu Lê như Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thạch Hầu Nguyễn Kim, Đại Tướng quân Dực Quận Công Trịnh Kiểm nhân đó mới đón người tôn thất nhà Lê là Lê Duy Ninh ở Ai Lao về lập làm vua hiệu là Lê Trang Tông, bắt đầu giai đoạn Trung Hưng của nhà Hậu Lê.

    Năm 1592, Bình An Vương Trịnh Tùng thống lĩnh chư quân thủy bộ, tấn công Thăng Long phế nhà Mạc, chính thức lập lại nhà Hậu Lê hay còn gọi là Lê Trung Hưng. Vua Lê Thế Tông phong Bình An Vương Trịnh Tùng làm Đô Tướng Tiết Chế các xứ thủy bộ chủ dinh kiêm Quản Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự. Từ đấy Bắc Hà do Lê Đế - Trịnh Vương cai quản từ Lạng Giang cho đến Hà Trung.

    Người con thứ hai của Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thạch Hầu Nguyễn Kim là Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng vượt ải Trấn Ninh vào phương nam lập nghiệp được ấn phong làm ,,,,. Nguyễn Hoàng ra sức vổ về dân chúng, khai khẩn đồi điền, mở màng bờ cõi, tích cực phòng bị làm chúa Nam Hà từ Bố Chánh – Gia Định. Cả hai vương vị Trịnh – Nguyễn đều ngoài mặt tồn phù Lê Đế, trong lại tranh gianh thôn tính lẫn nhau gây nên bảy cuộc chiến tranh Nam – Bắc khiến cho xương trắng đầy sông Linh Giang và vận nước vẫn còn chia cắt.

    Bắc Hà thời Trung hưng đến nay là trãi 13 đời đế. Vị vua thứ 13 là Lê Hiển Tổng vốn là con trưởng của vua Lê Thuần Tông lên ngôi lấy niên hiệu là Cảnh Hưng. Vua vốn bản tính thật thà chất phác, mọi sự chỉ mong muốn được yên ổn cho vương triều và trăm họ. Mọi sự triều chính đều do bên Liêu phủ của Trịnh Vương quyết định. Thậm chí cả đồ ngự dụng trong cung cũng do bên Liêu phủ chu cấp, nếu họ có lỡ chu cấp muộn thì vua cũng không lấy làm buồn phiền mà mở tiếng chê trách, ta thán.

    Nhà vua có ba vị hoàng tử là Lê Duy Vĩ, Lê Duy Chi và Lê Duy Cận ??. Thái tử Lê Duy Vĩ có dung mạo tuấn tú, tính khí can trường rất được vua thương yêu mà cả Trịnh Vương bên Liêu phủ là Minh Đô Vương Trịnh Doanh quý mến. Bởi thế vua Lê Hiển Tông mới sai người mai mối cho Thái tử Lê Duy Vĩ với Quận chúa Tiên Dung là con gái của Minh Đô Vương. Thái tử do vậy thi thoảng qua bên Liêu phủ cùng dùng cơm với nhà chúa cho phải phép ???.

    Một hôm, Thái tử đang ngồi dùng cơm với Quận chúa thì Thế tử của Minh Đô Vương là Trịnh Sâm cũng đến Liêu phủ. Thái tử liền mời Thế tử cùng ngồi dùng cơm nhưng Hoa Dung Thái Phi Nguyễn Thị gạt đi mắng Trịnh Sâm:
    - Nước có quốc pháp, nhà có gia quy. Thế tử tuy sẽ là người tập tước nay mai nhưng vừa là phận tôi, vừa là phận em sao có thể cùng ngồi dùng cơm.

    Trịnh Sâm đưa mắt nhìn Thái tử nhưng Thái tử chỉ cúi đầu im lặng không nói. Trịnh Sâm nín giận lui ra ngoài bảo với đám thân tùy:
    - Ta với hắn tất khổng thể đội trời chung.

    Nguyên Trịnh Sâm là con của Minh Đô Vương và Hoa Dung Thái Phi. Trịnh Sâm từ nhỏ đã hiếu thắng lại được cưng chiều trong Liêu phủ nên trước nay chẳng chịu nhịn ai bao giờ. Trịnh Sâm có người em là Thụy Quận Công Trịnh Lệ, hai anh em hay cùng chơi với nhau, nhiều khi bày trò đánh trận. Có nhiều hôm Trịnh Sâm đánh cho Trịnh Lệ thâm tím mặt mày bởi thế Hoa Dung không thích, thường hay quở trách. Minh Đô Vương Trịnh Doanh trái lại còn khen Trịnh Sâm xứng đáng là con nhà chúa, có thể nối nghiệp.

    Trịnh Sâm từ nhỏ đỏ nổi tiếng thông minh, lại lắm mưu mẹo nên rất được Minh Đô Vương yêu quý. Minh Đô Vương sai người lập Lượng phủ cho Thế tử Trịnh Sâm ở, lại sai hai viên tiến sĩ đầu triều là Dương Công Chú và Nguyễn Hoàn làm Tả - Hữu Tư giản để dạy bảo và giúp việc cho Thế tử.

    Mùa xuân Đinh Hợi (1767) Minh Đô Vương Trịnh Doanh lâm bệnh nặng Các quan nơi Liêu phủ theo di chỉ lập Thế tử Trịnh Sâm lên ngôi vương nối nghiệp chúa rồi báo tin cho vua Hiển Tông. Lê Hiển Tông sai cần thần mang sắc chỉ qua Liêu phủ phong cho Trịnh Sâm nối nhậm chức Nguyên Soái Tổng Quốc Chính tước Tĩnh Đô Vương. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm liền phát tang ra toàn nước và truy tôn cha là Minh Đô Vương Trịnh Doanh làm Nghị Tổ Ân Vương.

    Tháng hai, kinh đô Thăng Long bị động đất, nhiều nhà dân bị hư hại. Quan Thiêm sư đô ngự sử Đoàn Nguyễn Thục tâu với Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm đấy là điềm bốn phương có loạn lớn và trong chốn thân thích có người phản nghịch. Tĩnh Đô Vương rất lấy làm lo bèn truyền cho các trấn gia tăng phòng bị và vời các viên trọng thần vào Liêu phủ thương nghị.

    Bấy giờ trọng thần triều trước thì có Trịnh Đạc, Vũ Tất Thận, Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Đình Hoàn, Giáp Nguyễn Khoa, Vũ Đình Trác, Trương Khuông, Trịnh Trụ, Đinh Văn Giai và Nguyễn Công Thái, Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt, Phạm Đình Trọng, Phạm Tôn Lân… Tĩnh Đô Vương thấy các quan triều trước đa phần xuất thân từ ban võ và hoạn quan trong Liêu phủ mà thiếu về đường văn học nên trọng dụng các quan văn ban Nguyễn Bá Lân, Lê Quý Đôn và Ngô Thì Sĩ

    Bấy giờ quân Trấn Ninh đánh ra đất Hương Sơn. Quan quân chống đỡ không nổi liền cấp báo về triều xin cứu viện. Ở mạn Tây Bắc thì Hoàng Công Chất cướp phá liên tục. Ở Kinh Bắc có bọn giặc cướp nổi lên cướp phá các thôn trấn. Lòng người các nơi đều hoảng sợ. Bọn Đinh Thế Giai, Vũ Tất Thận, Nguyễn Công Thái mới xin Tĩnh Đô Vương điều quân đi đánh dẹp.

    Nguyên Lê Duy Mật là hoàng thúc của vua Lê Hiển Tông. Thời Uy Nam Vương Trịnh Giang hay làm việc thoán đoạt, phế lập các vua Thuần Tông, Ý Tông, Lê Duy Mật cùng với chú là Lê Duy Chúc và em là Lê Duy Quý làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ Liêu phủ. Chẳng may việc bị bại lộ, ba người phải bỏ trốn ra ngoại trấn. Sau Lê Duy Chúc, Lê Duy Quý bị bệnh mất, Lê Duy Mật dời vào Thanh Hóa là đất bản triều của nhà Lê để mưu khởi sự lâu dài. Lê Duy Mật đặt hành cung tại phủ Trấn Ninh nên tục thường gọi là quân Trấn Ninh.

    Hoàng thân Lê Duy Mật dựa vào viên thổ hào đất Nghi Dương là Ngô Hưng Tạo phát triển lực lượng, tự xưng là Thiên Nam Đế Tử, phát hịch ra bốn phương kêu gọi dân chúng hưởng ứng phù Lê giệt Trịnh. Bấy giờ các thổ hào và hào kiệt bốn phương nhân dân chúng đang oán hận về sưu cao thuế nặng nên đều mộ nghĩa hưởng ứng. Hiệt kiệt hơn cả có Vũ Đình Trác, Vũ Ngọc Oánh, Nguyễn Tuyển, Nguyển Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương và Hoàng Công Chất. Thế là bốn phương nổi sóng binh đao, từ kinh kỳ cho đến nội ngoại trấn đâu đâu cũng thấy gươm giáo, khói lửa. Dân chúng ly tán mà lòng người đều hoảng sợ.

    Các đại thần nơi Liêu phủ là ???? bèn mượn danh nghĩa của Thái phi Vũ thị mà phế truất Uy Nam Vương Trịnh Giang lập người em là Minh Đô Vương Trịnh Doanh (tức Nghị Tổ Trịnh Doanh cha của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm) làm chúa Liêu phủ. Minh Đô Vương Trịnh Doanh trọng dụng các viên đại tướng Phạm Đình Trọng, Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt, Trương Khuông, Trịnh Đạc, Trịnh Trụ. … lần lược đánh dẹp quân khởi nghĩa bốn phương là Vũ Đình Trác, Vũ Ngọc Oánh, Nguyễn Tuyển, Nguyển Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương. Thế là bốn phương tạm yên chỉ còn Hoàng Công Chất chiếm nơi hiểm trở mạn Tây Bắc và Lê Duy Mật giữ mạn ngược Thanh Hoa được các tù trưởng và dân chúng ủng hộ là chưa dẹp được.

    Thiên Nam Đế Tử Lê Duy Mật thấy Liêu phủ đang có tang bèn nhân cơ hội phát binh đánh Thanh Chương (Nghệ An) và Hương Sơn (Hà Tĩnh), lại sai người đi Tây Bắc kết thân với Hoàng Công Chất để thanh viện và sai người vào Nam Hà gặp Sãi vương Nguyễn Phúc Chu kết làm ngoại viện. Trấn thủ Nghệ An là Bùi Thế Đạt thấy nguy liền cáo cấp về Thăng Long.

    Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm liền bàn với các quan nội giám tâm phúc nơi Liêu phủ là Đổ Thế Giai và Hoàng Ngũ Phúc sai Đại Tư đồ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm đem một vạn quân vào Nghệ An vào tăng viện cho Trấn thủ Bùi Thế Đạt. Lê Duy Mật thấy quân Bắc Hà đã đến mà mặt Tây Bắc chưa có động tĩnh, người đi Nam Hà chưa có tin báo về bèn kéo quân lùi về cố thủ Trấn Ninh.

    Bấy giờ Thụy Quận công Trịnh Lệ là em cùng cha khác mẹ với Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có ý thoán nghịch. Thời Nghị tổ Trịnh Doanh còn sống, Trịnh Lệ đã có ý oán do không được lập làm Thế tử nhưng sợ mà không dám hành động. Nay thấy trong nước có loạn bèn nghĩ là thời cơ để đoạt ngôi chúa đã đến. Thụy quận công đem việc ấy bàn với thầy học là Phạm Huy Cơ để mưu tính. Phạm Huy Cơ hiềm vì mình là thầy học của Trịnh Lệ, không được Tĩnh Đô Vương tin dùng còn bị truất quan tống giam bèn quyết ý khuyên Trịnh Lệ làm chuyện thoán nghịch. Thụy Quận công Trịnh Lệ bèn tuyền bọn tráng sĩ, ngầm thu mua binh khí cất riêng nơi phủ đệ phòng dùng khi hữu sự, lại cho vời bọn gia khách là Dương Trọng Khiêm và Nguyễn Huy Bá đến để bàn tính.

    Dương Trọng Khiêm vốn người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm đổ Tiến sĩ khoa Giáp Tuất. Nguyễn Huy Bá người xã Phú Thị cùng huyện Gia Lâm đổ Hương Cống. Cả hai đều đầu làm gia khách cho Thụy Quận công Trịnh Lệ. Nguyễn Huy Bá, Dương Trọng Khiêm sợ việc không thành bèn can Trịnh Lệ:
    - Xưa nay việc phế lập nơi Liêu phủ không thời nào là không có biến loạn. Trước từ Bình An Vương Trịnh Tùng tranh giành với ??? Trịnh Cối. Tiếp đến là Thanh Đô Vương Trịnh Tráng với Trịnh Xuân, Tây Đô Vương Trịnh Tạc và Trịnh Toàn, Tiếp đến là Trịnh Luân, Trịnh Phất tranh quyền với An Đô Vương Trịnh Cương. Gần đây nhất là bọn đại thần Liêu phủ cùng nhau phế Uy Nam Vương Trịnh Giang mà đồng lập Nghị Tổ Trịnh Doanh. Xưa Trịnh Cối chết nơi đất bắc, phần mộ không được chôn vào đất liệt thánh, Trịnh Xuân, Trịnh Toàn đều chết thảm, Trịnh Luân, TRịnh Phất đều chịu cảnh tù ngục. Nếu Nghị Tổ (chỉ Trịnh Doanh) không thương tình anh em thì Uy Nam Vương đâu được nhàn nhã nơi ???. Huống hồ bọn đại thần Liêu phủ nay đều tuân di mệnh mà lao động đường phố trợ chúa thượng, Tĩnh Đô Vương đối với quận công cũng chưa có điều gì đáng trách. Ngay Côn quận công Trịnh Bồng tiếng là ngành trưởng cũng không có ý vọng động. Nếu làm các việc mà trái mệnh cha, khác ý chúng quyết không thể thành được.

    Thụy quận công Trịnh Lệ không nghe sai gia thần đuổi hai người ra khỏi phủ. Bọn Dương Trọng Khiêm, Nguyễn Huy Bá sợ việc lộ ra thì vạ lây đến hai nhà bèn đang đêm vào mật báo với quan Nội giám là Phạm Huy Đĩnh. Phạm Huy Đĩnh liền trình tấu với Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm, Trịnh Sâm đang đêm liền sai quân ???? kéo đến phủ của Thụy Quận công bắt Trịnh Lệ và Phạm Huy Cơ tống ngục tra hỏi.

    Phạm Huy Cơ biết không thể thoát tội bèn viết tờ cáo trạng nói rõ nguyên do tự mình chủ mưu còn Thụy quận công chỉ là vì theo xúi giục nhằm xin nhận chết thay. Đình thần nghị tội Phạm Huy Cơ phải tội xử trãm, còn Thụy Quận công Trịnh Lệ thì bị cách hết chức tước, tống ngục.

    Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm thấy Nguyễn Huy Bá và Dương Trọng Tế có công cáo giác bèn trọng thưởng và thăng chức cho Nguyễn Huy Bá năm trậc, Dương Trọng Tế được phúc chức cũ và thăng hai trậc. Thiêm đô ngự sữ Đoàn Nguyễn Thục dâng sớ trình nói Dương Trọng Khiêm vốn đã phạm tội, bị bãi chức không chịu ở nhà hối lỗi còn tham dự vào mưu phản, kết thân với Phạm Huy Cơ trong ngục cấm để đưa tin. Sau lại tố cáo Trịnh Lệ để được yên thân. Còn Nguyễn Huy Bá xưa nay tính tình hào hiệp, ai cũng đã biết tiếng, lại dùng lời ngay thẳng để khuyên can. Thế mà nay kẻ gian người ngay đều được ban thưởng như nhau thì thật không phải là cái gương để khuyến khích người trung thực, răn đe kẻ tiểu nhân. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm thấy lời tấu hợp tình bèn thu hồi chỉ cũ, chỉ phục lại chức cũ cho Dương Trọng Tế và ban thưởng cho Đoàn Nguyễn Thục.

    Bắc Hà từ thời Uy Nam Vương Trịnh Giang thường xảy ra bạo loạn, nhất là vùng tứ nội trấn và miền duyên hải. Kho tàng đếu trống rỗng, đình thần thương nghị do số châu phủ quá lớn mà quan lại ngày mỗi nhiều. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm bèn lược định chia lại toàn cõi Bắc Hà giảm số châu huyện ở bốn phủ. Bốn phủ lược giản còn 29 châu huyện là:

    Thanh Hoá 2 phủ, 4 huyện:
    Phủ Tĩnh Gia kiêm lý phủ Thanh Đô (nay đổi Thọ Xuân);
    Phủ Hà Trung kiêm lý phủ Thiên Quan (nay đổi nho quan, thuộc tỉnh Ninh Bình);
    huyện Vĩnh Phúc (nay đổi Vĩnh Lộc) kiêm lý huyện Thạch Thành;
    huyện Cấm Thủy kiêm lý huyện Quảng Bình (nay đổi Quảng Tế);
    huyện Phụng Hóa kiêm lý huyện Lạc Thổ (nay đổi Lạc Hóa) và
    An Hóa

    Nghệ An một phủ, một huyện:
    Phủ Anh Đô (nay đổi Anh Sơn) kiêm lý phủ Diễn Châu;
    Huyện Nghi Xuân kiêm lý huyện Châu Phúc, (nay đổi Chân Lộc).

    Sơn Tây một phủ 6 huyện:
    Phủ Lâm Thao kiêm lý phủ Đoan Hùng;
    huyện Đông Lan (nay đổi Hùng Quan) kiêm lý huyện Tây Lan (nay đổi Tây Quan)3468 ,
    huyện Bất Bạc kiêm lý huyện Minh Nghĩa (nay đổi Tùng Thiên);
    huyện Thạch Thất kiêm lý huyện Mỹ Lương3469 ;
    huyện Hạ Hoa (nay đổi Hạ Hòa) kiêm lý huyện Hoa Khê (nay đổi Cẩm Khê3470 ,
    huyện Tam Dương3471 kiêm lý huyện Sơn Dương3472 và
    Đương Đạo (nay đổi Đăng Đạo).

    Sơn Nam 7 huyện:
    Huyện Sơn Minh kiêm lý huyện Hoài An;
    huyện Kim Động kiêm lý huyện Thiên Thi3473 ;
    huyện Phù Dung (nay đổi Phù Cừ) kiêm lý huyện Tiên Lữ3474 ;
    huyện Thanh Liêm kiêm lý huyện Kim Bảng,
    huyện Duy Tiên kiêm lý huyện Bình Lục3475 ;
    huyện Vọng Doanh (nay đổi Phong Doanh) kiêm lý huyện Ý Yên;
    huyện Mỹ Lộc kiêm lý huyện Thượng Nguyên.

    Kinh Bắc 4 huyện:
    Huyện Hữu Lũng kiêm lý huyện Yên Thế3476 ,
    huyện Gia Định (nay đổi Gia Bình) kiêm llý huyện Lang Tài,
    huyện Bảo Lộc kiêm lý huyện Lục Ngạn3477 ;
    huyện Võ Giàng kiêm lý huyện Quế Dương

    Hải Dương 3 huyện:
    Huyện Gia Phúc (nay đổi Gia Lộc) kiêm lý huyện Thanh Miện;
    huyện Thanh Lâm kiêm lý huyện Chí Linh;
    huyện Thùy Đường kiêm lý huyện An Lão.

    Thái Nguyên 4 huyện, châu:
    Huyện Đại Từ kiêm lý huyện Phú Lương;
    huyện Phổ Yên kiêm lý huyện Bình Tuyền (nay đổi Bình Xuyên)3478 ;
    huyện Đồng Hỉ kiêm lý châu Vũ Nhai (Lê gọi là châu, nay đổi làm huyện);
    châu Định Bắc (nay đổi Định Châu) kiêm lý châu Văn Lãng (Lê gọi là châu, nay đổi là huyện).

    Binh đao loạn lạc xảy ra nhiều năm nên việc lễ nghĩa văn trị đều bị giảm sút. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm bèn lấy thầy học là Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm trông lo cong việc ở Quốc Tử Giám, Vũ Miên làm Tế tửu, Lê Quý Đôn và Phan TRọng Phiên làm Tư nghiệp để chỉnh đốn việc văn trị. Nhờ đấy mà tệ tham quan dần dần được hạn chế, dân chúng cũng có phần an cư.

    Lại nói Hoàng Công Chất nhận được tín thư của Thiên Nam Đế Tử Lê Duy Mật hẹn cùng cất quân đánh họ Trịnh liền nhận lời. Nguyên Hoàng Công Chất cùng Nguyễn Hữu Cầu trước theo Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ làm bộ tướng. Sau Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ trua trận, chết, Nguyễn Hữu Cầu chạy về mạn Đông Bắc, tự xưng làm Đông Đạo Thống quốc Bảo dân Đại Tướng Quân. Quân lính đi theo có vài vạn người, nổi tiếng là tay hào kiệt lừng lẫy một thời. Còn Hoàng Công Chất chạy lên mạn Tây Bắc tự xưng là “Then Chất” tiếng Thái nghĩa là Chúa Mường. Hoàng Công Chất lấy động Mãnh Thiên, châu Ninh Biên, tức là Mường Thanh (Điện Biên) làm sào huyệt, tính kế lâu dài. Bấy giờ tù trưởng các tộc Mường, Thái chán ghét quan lại triều đình tham tàn, tận thu thuế khóa bèn đội khăn đi theo Hoàng Công Chất hơn năm vạn người. Hoàng Công Chất sai con là Hoàng Công Toản cùng sáu viên tướng dưới quyền là Bun Xao, Cầm Phẳn, Ma Ngải, Ma Khanh, Cầm Tom, Cầm Phanh đắp thành Tam Vạn để trữ lương, lại đắp thêm phủ riêng ở Bản Phủ để làm nơi ở.

    Bấy giờ Trấn thủ Đinh Văn Thản lấy cơ binh ít, lương thiếu chần chờ không dám dùng binh, Hoàng Công Chất nhân cơ hội phát binh lấy luôn mười châu Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu, Ninh Biên, Quảng Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Khiêm Châu và Tuy Phụ.
    Nay 4 châu Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu và Ninh Biên thuộc Hưng Hóa; 2 châu Quảng Lăng và Hoàng Nham thuộc Vân Nam [Trung Quốc]; còn 4 châu Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ và Khiêm Châu chưa tra cứu ra.
    Đinh Văn Thản lo sợ triều đình quở trách,sinh bệnh mà chết.

    Bấy giờ Hoàng Công Chất thấy triều đình đã đem quân vào Nghệ An liền chia quân làm hai đường, một đạo tiến đánh Hưng Hóa, một đạo đi chiếm Thanh Hoa. Quân của Hoàng Văn Chất tiến đến các châu Mai, châu Mộc thuộc Hưng Hóa; sau đấy chia quân đi cướp các động, cánh kia đánh các sách Quan Gia, Cổ Lũng, Thiết Úng, Ái Chữ và Bất Mộc thuộc Thanh Hoa; rồi lại lập mưu đánh úp huyện Phụng Hóa, định nhân đấy chiếm cứ châu Lang Chính để nhòm ngó An Trường. Tổng số quân hai đạo có hơn hai vạn người. Trấn thủ Sơn Tây Hoàng Phùng Cơ, Trấn thủ Thanh Hoa Nguyễn Đình Diễn đồng báo nguy về triều. Văn thư cáo cấp ở hai trấn về đến triều đình cùng một lúc. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm bèn hạ lệnh cho Thiếu phó Phương Nghĩa hầu Trịnh Phương đem binh lính bản bộ đến Hưng Hóa, Điển Vũ hầu Nguyễn Trọng Điển đem binh lính bản bộ đến Thanh Hoa, hội quân để tiểu trừ.

    Nguyên Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm thấy quân Tây Bắc mấy tháng liền không ra đã sinh nghi, kịp khi quân Trấn Ninh kéo đến đánh Thanh Chương, Hương Sơn liền biết thế nào quân của Hoàng Văn Chất cũng nhân cơ hội kéo ra. Nên Vương chỉ cấp cho Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm một vạn quân đem vào nam, lại mật dặn Trấn thủ Nghệ An là Bùi Thế Đạt chỉ đánh đuổi quân Trấn Ninh chứ không được đem quân vào sâu trọng địa, cố ổn định mặt nam. Còn tinh binh của triều thì đều lưu lại kinh thành, lại khiến tứ trấn tích lũy lương thảo, vũ khí phòng khi hữu dụng.

    Bấy giờ thổ tù Tây Bắc có 2 người là Hồ Công Ứng và Đinh Công Hồ dám nổi lên, tụ tập dân chúng chống lại Hoàng Công Chất. Trấn thủ Sơn Tây Hoàng Phùng Cơ đem việc ấy báo về triều, Tĩnh Đô Vương sai người phong cho Hồ Công Ứng làm Mai Ngạn Hầu, Đinh Công Hồ tước Sùng Nham Bá. Bọn Hồ Công Ứng, Đinh Công Hồ cảm tạ, dân hết dân trong các sách hai người cai quản đi theo quân triều đình, lại chỉ hết tất cả đường đi ngang về tắt của mạn Hưng Hóa. Hoàng Phùng Cơ liền đem kỳ binh chẹn mặt sau của cánh quân đánh Hưng Hóa mưu cắt đường về thành Tam Vạn của Hoàng Công Chất.

    Điển Vũ Hầu Nguyễn Trọng Điển đem quân đến Thanh Hóa. Trấn thủ Thanh Hoa Nguyễn Đình Diễn thấy viện binh đã đến liền chia binh làm hai đường đón đánh Hoàng Công Chất. Hoàng Công Chất cố sức chống đỡ luôn mấy trận, có ý mong tin quân Trấn Ninh đánh mặt sau Thanh Hóa để cùng liên kết binh hai phương. Nhưng Bùi Thế Đạt đã đánh lùi quân Trấn Ninh lại đắp các đồn lũy ở mặt nam để ngăn cách. Hoàng Công Chất đợi mãi không thấy tin của quân Trấn Ninh, kịp quân đánh Hưng Hóa báo tin mặt sau của quân Hưng Hóa bị quấy rối, thế trận nguy cấp. Hoàng Công Chất hoảng sợ, lo bị cắt mất đường về nữa đêm liền triệt toàn bộ quân mã theo đường tắt rút về, lại báo cho cánh quân đánh Hưng Hóa cùng rút lui.

    Điển Vũ Hầu Nguyễn Trọng Điển, Phương Nghĩa hầu Trịnh Phương, Trấn thủ Thanh Hoa Nguyễn Đình Diễn, Trấn thủ Sơn Tây Hoàng Phùng Cơ thừa thế đuổi theo thu phục lại toàn bộ các sách, châu hai trấn Hưng Hóa, Thanh Hoa. Hoàng Công Chất sợ phục binh phải bỏ chạy vào Xa Hổ và Nậm Ban, quân lính thất tán hơn phân nữa. Tĩnh Đô Vương bèn sai các tướng đặt các đồn binh nơi trọng yếu, tăng quân đồn trú phòng quân Tây Bắc lại ra, rồi triệu hồi các tướng Trịnh Phương, Nguyễn Trọng Điển về kinh.

    Từ đấy lòng dân yên ổn, không còn nơm nớp lo loạn binh đao, nhất là tứ nội trấn Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam và Hải Dương. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm lại ngờ quân Nam Hà nhân cơ hội vượt Linh Giang để hổ trợ cho quân Trấn Ninh bèn sai trấn thủ hai trấn Nghệ An, Thanh Hoa kén thêm binh tráng gọi là ưu binh, lương tiền đều được cấp cao hơn quân kén từ các trấn khác, lại miễn giao dịch cho gia đình có người tòng quân. Thanh thế quân triều đình lên cao mà lương thực, khí giới cho việc dụng binh cũng đầy đủ hơn. Lại sai người vào Nam Hà để nghe ngóng tin tức.

    Hết hồi 1
     
    Chỉnh sửa cuối: 27/12/10
  2. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi 2:

    Nơi ngoại trấn, phiên bang gây hấn
    Chốn nội đình, quốc thích làm càn


    Nhắc lại xưa Nam Hà do Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng vào nam mở mang dựng nghiệp. Nguyên cha của Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng là Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thạch Hầu Nguyễn Kim cầm quân ở Bắc Hà tiến đánh Ngụy triều họ Mạc. Sau An Thạch Hầu Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Ngụy Mạc là Dương Chấp Nhất trá hàng phục độc mà mất. Hai người con của An Thạch Hầu là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng còn đương nhỏ. Chư tướng nhà Lê Trung Hưng bèn tôn người con rễ của An Thạch Hầu là Đại Tướng quân Dực Quận Công Trịnh Kiểm làm Thống lĩnh chư quân. Đến khi Nguyễn Uông lớn lên, theo quân đánh giặc lập được nhiều công lao, chư tướng đều mến phục, được phong Lãng Quốc Công. Dực Quận Công Trịnh Kiểm sợ các tướng nhớ công lao của An Thạch Hầu Nguyễn Kim mà gây chuyện phế Trịnh phục Nguyễn bèn lập mưu giết hại Lãng Quốc Công Nguyễn Uông. Người em Lãng Quốc Công Nguyễn Uông chính là Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng sợ Dực Quận Công Trịnh Kiểm tiếp tục mưu hại bèn bàn với mưu thần Nguyễn Ư Dĩ rồi sai người đi gặp Trình Truyền Hầu Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm để hỏi kế tiến thủ. Trình Truyền Hầu Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ấy đang ở sân ngắm hòn non bộ, liền nói “Hoành sơn nhất đái, Vạn đại dung thân’. Gia thần về báo lại, Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng hiểu ý liền bí mật vào phủ xin với chị ruột là Quận chúa Ngọc Bảo, vợ của Dực Quận Công Trịnh Kiểm vào Thuận Hóa để trấn thủ. Dực Quận Công Trịnh Kiểm phần nghe theo lời vợ, phần nghĩ Thuận Hóa là nơi xa xôi hiểm trở, sai Nguyễn Hoàng vào đó vừa đảm đưởng mặt nam, vừa bớt đi một mối lo gan ruột, thật là việc nhất cữ lưỡng tiện bèn thuận ý. Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng liền vào tâu với Lê Đế, mở tiệc cử hành rồi đem theo toàn bộ quân tướng bản bộ , các gia tướng của phụ thân và các nghĩa sĩ đất Tống Sơn lên đường vào nam trấn thủ Thuận Hóa.

    Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng vào nam ra sức vỗ về dân chúng, khẩn khai đồn điền, vỗ về man địch khiến cho thế lực ngày một cường thịnh mà bờ cõi ngày một một rộng về phương nam. Khi Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng vào nam trấn nhậm, địa bàn chỉ mới gồm các xứ Thuận Hóa, Quảng Nam, Quy Nhơn. Nhưng qua các đời kế tiếp cương vực đã mở rộng bao gồm cả Phú Yên, Bình Khang, Hà Tiên, Gia Định .. đến tận cực nam của đông hải.

    Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng vẫn một mặt tôn lao động đường phố Lê đế, một mặt hổ trợ họ Trịnh trong công cuộc bắc phạt tiến đánh triều Ngụy Mạc, gã con gái ??? là cho con của ??? , vua Lê Thế Tông vì vậy tấn phong Nguyễn Hoàng làm Thái Úy nhà Lê, tước Cẩn Nghĩa Công. Dân Nam Hà nhớ ơn, gọi ông là Tiên Vương (Tiên Chúa). Nhưng đến các đời chúa Nguyễn sau này chỉ còn tôn lao động đường phố danh nghĩa Lê đế mà không chịu cống nạp, tự lập làm chúa ở phương Nam.

    Công tử thứ sáu của Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng là Thụy Quận công Nguyễn Phúc Nguyên thay cha nhận chức Thái bảo nhà Lê, nối nghiệp chúa phương nam, xưng là Sãi Vương (Sãi Chúa). Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên lấy Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ làm Nội tán, Thuận Nghĩa Hầu Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật làm đại tướng. Nội tán Đào Duy Từ bày mưu cho Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên đắp lũy Trường Dục (tục gọi là Lũy Thầy), chấn chỉnh nội trị, chỉnh đốn quân đội, rồi từ chối nhận sắc ấn thụ phong của họ Trịnh ở Bắc Hà. Từ đó, hai họ Trịnh – Nguyễn từ chổ thông gia trở thành thù địch, gây nên bảy cuộc chiến tranh nam - bắc khốc liệt nhưng bất phân thắng bại. Cuối cùng lấy Linh Giang làm ranh giới để hoãn binh, phân chia địa giới của Bắc Hà và Nam Hà.

    Đến nay, Nam Hà đã trãi qua chín đời chúa. Vị chúa hiện tại là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần. Bấy giờ triều chính Nam Hà vô cùng hổn loạn, nguyên do là việc xếp đặt thế tử từ thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát để lại. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát có tất cả 18 hoàng tử và 12 quận chúa. Đại hoàng tử Nguyễn Phúc Chương mất sớm, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát lập hoàng tử thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu làm Thái hoàng tử nhưng cũng yểu mệnh. Con trưởng của Thái hoàng tử Nguyễn Phúc Hiệu là Nguyễn Phúc Dương hãy còn thơ ấu nên Võ Vương mới bàn với các quan lập nhị hoàng tử là Nguyễn Phúc Luân làm Thái hoàng tử. Mọi việc bàn bạc chưa xong xuôi thì chẳng may Võ Vương lâm bệnh rồi mất. Bấy giờ các quan đầu triều tranh nhau chọn người kế vị gồm có. Quan lại trong triều lúc bấy giờ những người có danh vọng gồm có Nội hữu Cai cơ Ý Đức Hầu Thái úy Trương Văn Hạnh, Lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, Thái Phó Trương Phúc Loan.

    Trương Phúc Loan vốn là họ Trương Công, dòng dõi của Điện tiền Đô Kiểm điểm Lương quốc công Trương Công Gia triều Hậu Lê. Khi Tiên Vương Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng vào Nam Hà, Trương Công Gia đem theo tùy tùng, thân quyến theo lao động đường phố tá. Cả ba đời họ Trương Công hết sức giúp rập cho các chúa Nguyễn nên được gia quốc tính đổi họ từ Trương Công sang Trương Phúc. Trương Phúc Loan là cháu bốn đời của Trương Công Gia, con thứ của Thái Bảo Phan Quốc Công Trương Quốc Phan. Vì mẹ của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát lấy em Trương Phúc Loan nên trong triều ai cũng e dè Trương Phúc Loan và đều gọi ông là Quốc Phó. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát tuy thông minh nhưng về già lại đam mê tửu sắc. Bấy giờ có người em gái chú bác với Võ Vương là Quận chúa Nguyễn Phúc Ngọc Cầu (con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền) cũng nổi tiếng tài sắc hay vào chơi nơi cung cấm, hai anh em nảy sinh tình ý rồi tư thông với nhau. Trương Phúc Loan vốn không ngăn cản lại cùng Thái giám Chữ Đức vào hùa, tạo điều kiện cho Quận chúa Ngọc Cầu vào ở hẳn trong cung. Quần thần bàn tán xôn xao, bấy giờ Nhị hoàng tử Nguyễn Phúc Luân đã lớn tuổi xin vào gặp Võ Vương rồi lựa lời khuyên can. Võ Vương cả thẹn liền đuổi Nguyễn Phúc Luân ra khỏi cung. Trương Phúc Loan vì thế rất úy kỵ Nhị hoàng tử Nguyễn Phúc Luân.
    Võ Vương cùng công chúa Ngọc Cầu có một hoàng tử là hoàng tử thứ mười hai Nguyễn Phúc Thuần. Vì Ngọc Cầu là do Trương Phúc Loan tạo điều kiện để gặp gỡ Võ Vương nên cả công chúa Ngọc Cầu và hai người anh ruột là Chưởng cơ Nguyễn Phúc Viên và Nguyễn Phúc Nghiễm đều về theo phe Trương Phúc Loan ủng hộ hoàng tử thứ mười hai là Nguyễn Phúc Thuần.

    Võ Vương trước khi mất có ý hối về việc chính sự nên có ý lập nhị hoàng tử Nguyễn Phúc Luân. Võ Vương cho hai vị là Thái úy Trương Văn Hạnh và Thị giảng Lê Cao Kỷ làm người phụ tá cho Nguyễn Phúc Luân.

    Trong số các quan lại Nam Triều lớn tuổi và được trọng vọng hơn cả là Lại bộ Thượng thư Nguyễn Cư Trinh. Nhưng bấy giờ Nguyễn Cư Trinh đang đi kinh lý Gia Định chưa về. Thái Phó Trương Phúc Loan bèn đồng mưu với Thái giám Chữ Đức và Chưởng dinh Nguyễn Cửu Thông khóa cửa cung, sửa lại di chiếu rồi mới triệu tập bách quan phát tang.

    Trước linh vị của Võ Vương, Trương Phúc Loan sai Thị vệ tuyên đọc di chiếu của Võ Vương truyền ngôi cho hoàng tử thứ mười hai Nguyễn Phúc Thuần rồi sai Thái giám Chữ Đức giao ấn chỉ Quốc vương. Bấy giờ Nhị hoàng tử Nguyễn Phúc Luân không được triệu vào cung, bá quan không ai giám phản đối, chỉ có Thái úy Trương Văn Hạnh lớn tiếng nói:
    - Bá quan ai cũng biết Võ Vương trước khi mất có ý định lập nhị hoàng tử Phúc Luân làm người kế vị. Nay sao vô có lại lập Phúc Thuần, việc này tất có gì mờ ám?

    Trương Phúc Loan tức giận mắng:
    - Di ý của tiên vương sao ngươi lại dám cãi?

    Thái úy Trương Văn Hạnh cũng mắng lại:
    - Khắp triều ai cũng biết Quốc phó thao túng triều chính. Nay chẳng may tiên vương mất đi chưa kịp lập di chỉ, việc chọn người tập tước vương vị nhất quyết phải để bá quan và tôn thất cùng bàn bạc không thể khinh xuất.

    Trương Phúc Loan không để cho Trương Văn Hạnh nói hết lời liền sai quân cấm vệ bắt Trương Văn Hạnh trói dẫn đi. Bá quan không ai còn dám ý kiến bèn đồng tôn hoàng tử thứ mười hai Nguyễn Phúc Thuần làm chúa đời thứ chín, tước Định Vương.

    Định Vương Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi khi mới mười hai tuổi. Mọi việc triều chính đều do một mình Quốc Phó Trương Phúc Loan và hai cậu là Nguyễn Phúc Viên và Nguyễn Phúc Nghiễm quyết định. Trương Phúc Loan tự phong làm quản lý bộ Hộ, quản cơ Trung tượng kiêm tàu vụ (lo việc thông thương với tàu bè ngoại quốc). Chưởng thủy cơ Nguyễn Phúc Viên làm Nội hữu Chưởng dinh, quản lý bộ Lại và bộ Binh, Tả phủ Chưởng phủ sự dinh Quảng Nam Nguyễn Phúc Nghiễm đều là con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền, đứng vào hàng cậu của Định Vương. Hai con trai của Trương Phúc Loan là Chưởng dinh Trương Phúc Thặng lấy công nữ Ngọc Nguyện và Cai cơ Trương Phúc Nhạc lấy công nữ Ngọc Đảo đều là con Chúa Vũ Vương. Do đó, quyền hành trong triều đều thuộc về phe cánh của Quốc phó Trương Phúc Loan, bá quan ai cũng kiêng sợ.
    Trương Phúc Loan lại sợ Nhị hoàng tử Nguyễn Phúc Luân nổi loạn bèn bắt giam cả nhà vào ngục rồi ép bọn Thái úy Trương Văn Hạnh, Thị giảng Lê Cao Kỷ tội mưu phản đem chém cả nhà. Bấy giờ chỉ có người cháu của Thái úy Trương Văn Hạnh là Trương Văn Hiến trốn thoát.

    Trương Phúc Loan lại sợ triều thần bàn tán không thôi bèn triệu Lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh từ Gia Định và phục chức cho Hàn Lâm sứ Nguyễn Quang Tiền để cũng lo việc triều chính. Nguyên Hàn Lâm sứ Nguyễn Quang Tiền trước bị bãi chức do ...

    Chưởng dinh Tôn Thất Dục vốn đội ơn của Nhị hoàng tử Nguyễn Phúc Luân, lại là thông gia với Trương Phúc Loan nên lên tiếng xin triều đình nghị luận tha cho Nguyễn Phúc Luân. Trương Phúc Loan bất đắc dĩ phải nghe theo nhưng sai Chưởng cơ Nguyễn Cửu Dinh đầu độc, nhị hoàng tử Nguyễn Phúc Luân về nhà được mấy hôm thì phát bệnh mất, Tôn Thất Dục tiếng là thông gia với Trương Phúc Loan sau đó cũng bị bãi chức đày ra biên ải châu Bố Chánh.

    Quan lại Nam Hà thấy Quốc phó chuyên quyền thảy đều bất bình, bọn tham tàn lại thừa cơ nổi dậy ức hiếp dân đen. Thuế khóa nặng nề, lòng người thảy đều muốn nổi dậy.

    Mùa xuân năm Cảnh Hưng thứ 27 nhà Lê, Trấn thành Gia Định dâng biểu về Phú Xuân về việc Hà Tiên Tổng binh Mạc Thiên Tứ xin viện binh, quần thần bàn tán xôn xao.

    Mạc Thiên Tứ tự là Sĩ Lân (còn có tên khác là Mạc Thiên Tích). Nguyên cha của Mạc Thiên Tứ là Mạc Cửu (còn gọi là Mạc Kính Cửu), giữ chức Tổng binh của nhà Minh ở Quảng Đông, Trung Quốc. Khi nhà Minh mất, Mạc Cửu không chịu gọt tóc thờ nhà Thanh, đem toàn bộ gia quyến và binh sĩ dưới quyền về chạy phương nam đến đất Chân Lạp để lánh nạn. Chân Lạp bấy giờ cũng đang có loạn lớn, Mạc Cữu lại chạy về đất Phương Thành, Hà Tiên rồi chiêu tập dâng xiêu tán Việt, Hoa lập nên trấn Hà Tiên. Bấy giờ Nam Hà đã ổn định xong đất Gia Định, Mạc Cửu bèn sai hai thuộc hạ là Lý Xá, Trương Cầu đến Phú Xuân dâng biểu, xin đem đất Hà Tiên thuộc về Nam Hà và được trông coi đất ấy. Minh Vương Nguyễn Phúc Chu ban cho Mạc Cửu chức Hà Tiên Tổng binh, tước Ngọc hầu để trông coi quân dân đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con trai là Mạc Thiên Tứ dâng biểu báo về Phú Xuân và thay cha giữ chức Hà Tiên Tổng binh. Hai cha con Mạc Cửu – Mạc Thiên Tứ có công lớn trong việc khai phá đất Hà Tiên, chiêu tập dân chúng khai khẩn, đồn điền, xây Trúc Thành, dựng Chiêu Anh Các để chiêu hiền, kết giao kẻ sĩ bốn phương, mở mang đường văn học nên dân chúng trong vùng hết sức quý trọng. Người đời sau là Đông Hồ Thi sĩ có thơ khen:

    Chẳng đội trời Thanh Mãn
    Lần qua đất Việt bang
    Triều đình riêng một góc
    Trung hiếu vẹn đôi đường
    Trúc thành xây vũ lược
    Anh Các cao văn chương
    Tuy chưa là cô quả
    Mà cũng đã bá vương
    Bắc phương khi vỡ lở
    Nam hải lúc kinh hoàng
    Giang hồ giữa lang miếu
    Hàn mạc trong chiến trường
    Đất trời đương gió bụi
    Sự nghiệp đã tang thương…


    Khi ấy hai nước phiên bang là Chân Lạp và Xiêm La đang có việc lớn, thường sai quân quấy rối đất Hà Tiên. Nam Hà phải thường xuyên động binh để chống giữ. Vua Xiêm La là Phong Vương (Boromoraja V) đóng đô ở thành A-dút-tha-da (Ayutthaya) thường xuyên dòm gió vùng đất Gia Định, Hà Tiên. Phong Vương (Boromoraja V) sai quân lính sửa soạn chiến thuyền, định ngày tiến đánh Hà Tiên.

    Còn Chân Lạp vốn đã thần phục Nam Hà. Vua Chân Lạp là Nặc Tôn chịu ơn của Nam Hà và Mạc Thiên Tích trong việc lao động đường phố lập vương nên thường làm lễ cống nạp hàng năm. Xiêm La cũng muốn Chân Lạp triều cống nên Nặc Tôn thường hay dựa vào quân dinh Gia Định để chống trả.

    Trên biển thì một bọn người Hoa tụ tập làm nghề cướp biển, cùng với các đám hải tặc Mã Lai thường xuyên hoành hành nên các trấn phía Nam hay bị quấy phá. Mạc Tiên Tứ lo sợ nên xin Gia Định điều thêm quân để phòng giữ.

    Thống suất Gia Định Nguyễn Cửu Khôi (con Chưởng dinh Nguyễn Cửu Pháp, dòng dõi Nguyễn Phúc Kiều) và Tham mưu Nguyễn Thừa Mân (con Tham chính Nguyễn Thừa Tự) sai bọn Cai đội Nguyễn Cửu Siêu, Nguyễn Cửu Tự đem 3 chiếc thuyền đi biển, 20 chiếc thuyền sai và 1.000 tinh binh vào đóng giữ Hà Tiên, phụ giúp Mạc Thiên Tứ để phòng ngừa Xiêm La.

    Triều thần Phú Xuân nghị bàn miền nam tất có việc đánh dẹp bèn chuẩn bị quân lương, khí giới. Bấy giờ quan lại các nơi tham tàn, tận thu của dân chúng để tư túi mà quốc khố chẳng được bao nhiêu. Quốc phó Trương Phúc Loan sai thân cận là Thái Sinh trông giữ Hộ bộ, đồng thời cho người thân tín tổ chức thu thuế ở các cảng sông, cảng biển quan trọng và thu thuế khai thác các nguồn tài nguyên, khoáng sản ở trấn Quảng Nam một nữa tư túi riêng, còn lại mới nộp vào quốc khố. Ngay cả tàu bè của ngoại quốc vào buôn bán cũng bị tận thu thuế hoặc làm khó dễ. Lại lệnh cho quan các trấn phải nộp đủ số thuế còn thiếu nhiều năm trước, nếu không sẽ bị cách quan tống ngục. Lệnh ban ra, bọn quan lại tham tàn ở các trấn bèn hè nhau tróc nã hoặc thu thêm số thuế đã tư túi khiến dân chúng ai oán không ngớt mà kẻ sĩ hào kiệt cũng bất bình.

    Hết hồi 2
     
    Chỉnh sửa cuối: 20/11/10
  3. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi 3:

    Nguyễn Đình Huấn thống lãnh quân Tam Đạo
    Trình Quốc Anh xâm phạm đất Hà Tiên


    Nhắc lại Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm ở Bắc Hà thấy Nam Hà đương có việc ở biên giới phía nam bèn quyết ý dụng binh đánh dẹp quân Tây Bắc của Hoàng Công Chất. Kịp Lưu thủ Sơn Tây Hoàng Phùng Cơ mới đến nhậm chức cũng có biểu tấu về triều xin đem quân cùng đánh dẹp. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mừng lắm liền sai viên nội giám tâm phúc là Nguyễn Đình Huấn làm Thống lãnh ba đạo quân các trấn Thanh Hoa, Hưng Hóa và Sơn Tây hẹn ngày đi đánh Thanh Châu (xưa gọi là Khoái Châu – Tây Bắc).
    Phạm Ngô Cầu trước đã tham gia đánh giặc Tây Bắc, nay đang làm Trấn thủ Hải Dương xuất thân làm Nội giám nơi Liêu phủ được thăng làm Hiệp thống lãnh cùng coi việc quân. Phan Lê Phiên làm Tán lý quân vụ, Nguyễn Xuân Huyên làm Hiệp đồng cùng theo việc quân.

    Phan Lê Phiên (sau đổi là Trọng Phiên), là hậu duệ Phan Phu Tiên, người làng Ðông Ngạc.

    Hoàng Công Chất sau trận thua ở Xa Hổ và Nậm Ban, đành rút về Tam Vạn và Bản Phủ cố thủ, chỉ hoành hành ở mười châu Tây Bắc không dám tiến ra quấy rối Hưng Hóa và Thanh Hoa. Chợp nghe tin quân ba đạo đang kéo đến bèn để con là Hoàng Công Toản ở lại giữ thành Tam Vạn còn lại đem các tướng Bun Xao, Cầm Phẳn, Ma Ngải, Ma Khanh, Cầm Tom, Cầm Phanh kéo ra đường hiểm đặt đồn chống đánh quân triều đình.

    Thống Lãnh Tam Đạo Nguyễn Đình Huấn đem quân đến Hưng Hóa, Mai Ngạn Hầu Hồ Công Ứng và Sùng Nham Bá Đình Công Hồ đem quân bản bộ ra nguyện làm hướng đạo. Nguyễn Đình Huấn ban thưởng rồi sai hai người đem quân kéo đi trước. Lưu thủ Sơn Tây Hoàng Phùng Cơ đem quân Sơn Tây, Trấn thủ Thanh Hoa Nguyễn Đình Diễn cùng kéo đến. Nguyễn Đình Huấn bèn sai Hoàng Phùng Cơ đi bên tả, Nguyễn Đình Diễn đi bên hữu, Nguyễn Đình Huấn cùng các tướng Nguyễn Xuân Huyên, Phạm Ngô Cầu đi trung quân, kéo hết quân bao đạo chia đường tiến đánh thành Tam Vạn.

    Hoàng Công Chất thấy quân triều thế lớn bèn sai sáu tướng Bun Xao, Cầm Phẳn, Ma Ngải, Ma Khanh, Cầm Tom, Cầm Phanh chia quân đặt đồn canh giữ tất cả các nơi hiểm yếu, Toản tự mình cầm hậu quân tiếp ứng cho các đạo. Lại sai người về Tam Vạn giục con là Hoàng Công Toản chuyển lương từ Tam Vạn ra và biên thêm dân mười châu vào quân.

    Quân hai bên đánh nhau hơn hai tháng, quân Tam đạo bị chặn chổ hiểm không thể tiến binh. Lại thêm Nghệ An và các trấn Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam đều bị mất mùa, dân ăn không đủ no, Nguyễn Đình Huấn và Phạm Ngô Cầu bèn bàn nhau tạm dừng quân đợi sang xuân hãy tiến binh và dân biểu về Liêu phủ. Bấy giờ Đốc trấn Cao Bằng Nguyễn Trọng Hoành nhân việc thu thuế của dân làm của riêng, việc bị lộ ra, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm nghĩ Cao Bằng là nơi biên thùy giáp với nhà Thanh, bọn thổ tù thường hay làm phản. Nay lại đang lúc dụng binh bèn đổi Nguyễn Trọng Hoành qua làm Tán lý quân vụ mà thay Phan Lê Phiên lên làm Đốc Trấn Cao Bằng.

    Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm nhận được biểu của Nguyễn Đình Huấn và Phạm Ngô Cầu thì tức giận mắng, Nội giám Vũ Huy Đĩnh vốn thân với Nguyễn Đình Huấn liền lấy lời che chở. Bấy giờ Thiêm đô ngự sử Đoàn Nguyễn Thục mới hết tang mẹ đang đợi ngoài phủ, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm nghĩ Đoàn Nguyễn Thục là người cương trực, khí khái, hành động cẩn thận bèn phong làm Giám quân, cùng theo dõi việc binh ở Tây Bắc.

    Đòan Nguyễn Thục đến trung quân, bọn Nguyễn Đình Huấn lo sợ không dám dừng quân bèn tiến đánh Cổ Pháp. Hoàng Công Chất sai các tướng đem cờ quạt cắm nghi binh khắp nơi để tăng thanh thế lại dùng cung cứng nỏ độc để phòng thủ. Nguyễn Đình Huấn và Phạm Ngô Cầu càng sợ bèn viện cớ hết quân lương để dừng binh lại lệnh. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm sai người đến giục tiến quân, Phạm Ngô Cầu và Nguyễn Đình Huấn bèn đem quân đến đóng nơi Việt Sơn rồi dừng binh, bắt dân quanh vùng phục dịch lương thảo. Dân phụ cận nghe tin đều bỏ trốn sạch, quân lính không ai dám đi ra khỏi doanh trại. Tán lý Vũ Huy Đĩnh vốn không thạo việc quân lại cùng là Nội giám nơi Liêu phủ nên không dám trái ý bọn Nguyễn Đình Huấn. Giám quân Đoàn Nguyễn Thục thấy vậy tức giận bèn biên thư rồi sai người đem về Liêu phủ báo cáo sự tình.

    Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm đang bàn việc với ??? và Hoàng Ngũ Phúc thì được biểu báo của Thống lãnh Tam Đạo Nguyễn Đình Huấn, đại ý “Trong quân lương ăn không được kế tiếp, tiến thoái đều khó. Vả lại quân sĩ nhiều người mắc bệnh, xin cho thuốc thang cứu chữa”. Tiếp lại đưa tờ tín thư của Giám quân Đoàn Nguyễn Thục nói “Nguyễn Đình Huấn làm thống lãnh hiệu lệnh không thống nhất; khinh rẽ lấn át tướng hiệu: buông lỏng cho quân lính đi cướp bóc; chần chừ không chịu tiến quân …vv; tất cả mười tội”. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm bèn đưa cả hai biểu cho Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc xem. Hoàng Ngũ Phúc cười tâu:

    - Nguyễn Đình Huấn vốn nhát gan mà tham công, Phạm Ngô Cầu có mưu mà ham lợi. Vũ Huy Đĩnh thì cả nể. Nếu ba người này ở chung với nhau thì không thể mưu việc lớn được. Huống hồ bọn Công Chất hiệt kiệt chẳng kém Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương khi xưa, Hắn hoành hành hơn ba mươi năm nay ở Tây Bắc, quan quân triều đình không làm gì được, nhà Thanh cũng phải nhường. Nếu không phải được một tướng khẳng khái, dám tự xông vào nơi chổ hiểm đốc chiến cho ba quân thì không thể dẹp yên được.

    Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm thở dài nói:
    - Ta cũng vốn biết hắn (chỉ Nguyễn Đình Huấn) không dùng được, nhưng nghĩ hắn dòng dõi công thần, xuất thân nơi Liêu phủ muốn cho theo việc binh đặng có chút danh để sau này còn lao động đường phố trợ thế tử. Nay quả nhiên làm honhr việc lớn mà phụ cả sự ủy thác.

    Bèn quyết ý triệu hồi Nguyễn Đình Huấn về kinh, truất chức Thống lãnh Tạm đạo mà giao lại cho Đoàn Nguyễn Thục, lại đổi Vũ Huy Đĩnh qua làm Giám quân còn Nguyễn Trọng Hoành vẫn làm Tán lý quân vụ như cũ. Lại lệnh cho Đoàn Nguyễn Thục đốc chiếm tam quân tiến lên, nếu ai trái lệnh đều có quyền xử trãm làm gương cho kẻ khác.

    Lại nói Phong vương (Boromoraja V) chuẩn bị chiến thuyền tiến đánh Hà Tiên thì nghe tin Miến Điện đem quân xâm lấn. Nguyên Miến Điện là nước phiên thần của Đại Thanh thường hay tranh chấp đất đai nơi biên giới với Xiêm La, nay đem quân xâm lấn. Quân của Phong vương (Boromoraja V) liên tục bị thất bại và quân Miến Điện bao vây kinh thành A-dút-tha-da (Ayutthaya). Chẳng bao lâu sau, kinh thành thất thủ, quân Miến Điện bắt Phong Vương (Boromoraja V) và con là Chiêu Đốc, thiêu hủy thành Ayutthaya khi nghe tin Đại Thanh đang tấn công vào Miến Điện. Con của Phong vương Boromoraja V là Chiêu Xỉ Khang chạy thoát sang Chân Lạp và Chiêu Thúy trốn sang Hà Tiên lánh nạn. Một tướng khác là Trình Quốc Anh cũng thoát khỏi quân Miến Điện và chạy về bờ biển phía Đông.

    Trình Quốc Anh (hay còn gọi là Trịnh Quốc Anh, Trịnh Chiêu hoặc Trịnh Tín) (Taksinv) vốn là người Hoa gốc gốc Triều Châu, là Phi Nhã (xã trưởng) đất Mang Tát thuộc Xiêm La. Trình Quốc Anh khởi binh chống lại quân Miến Điện. Sau khi kinh đô Ayutthaya bị triệt phá, Xiêm La đại loạn, đất nước bị chia thành sáu tiểu quốc nhỏ. Trình Quốc Anh (Taksin) cùng với Tướng Chao Phraya Chakri tổ chức lại quân đội, đẩy lùi quân Miến Điện, đánh bại các đối thủ trong nước và thống nhất vương quốc. Sau đó Trình Quốc Anh tự phong mình làm Xiêm vương, đóng đô mới tại Thonburi.

    Nói về hoàng tử thứ hai của Phong vương Boromoraja V là Chiêu Thúy chạy sang đất Hà Tiên lánh nạn.trên một chiếc thuyền lương. Chiếc thuyền này là do một giáo sĩ người Phú Lãng Sa (Pháp) tên là Bá Đa Lộc mua cho tu viện ở Hà Tiên.

    Bá Đa Lộc còn gọi là Cha Cả, (nguyên tên là Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine , thường viết là Pigneau de Behaine) là giáo sĩ của nước Phú Lãng Sa (Pháp) vâng lệnh của Hội Thừa sai Paris (Séminaire des Missions Étrangères) đến truyền đạo tại Đàng Trong. Bá Đa Lộc đến Hà Tiên nương nhờ cha con Mạc Cửu – Mạc Thiên Tích, dựng nhà đạo ở Hòn Đất, Hà Tiên để truyền đạo.

    Đạo Thiên chúa chủ trương , … Bá Đa Lộc …

    Chiêu Thúy được Bá Đa Lộc che dấu trong nhà đạo. Bá Đa Lộc muốn truyền đạo vào Xiêm La nên giữ Chiêu Thúy nhằm có cơ hội đưa Chiêu Thúy về nước dựng lại ngôi vua. Xiêm Vương Trình Quốc Anh biết được bèn sai người qua Hà Tiên đòi Tổng binh Mạc Thiên Tích và Bá Đa Lộc giao người. Hà Tiên Tổng binh Mạc Thiên Tích nghĩ Trình Quốc Anh vốn không phải là người Xiêm La, tất không được lòng dân Xiêm, vả lại Xiêm La xưa nay vốn hay gây hấn với Nam Hà về chuyện đất đai, nếu chấp nhận giao người thì hóa ra hèn kém bèn từ chối.

    Trình Quốc Anh cũng sai người qua Chân Lạp đòi vua Chân Lạp là Nặc Tôn giao hoàng tử thứ nhất Chiêu Xỉ Khang và bắt cống nạp. Vua Chân Lạp Nặc Tôn lấy cớ Trình Quốc Anh không phải người gốc Xiêm La cũng không chịu công nạp và giao người.

    Xiêm vương Trình Quốc Anh tức giận sai người đi liên kết với đám hải tặc người Hoa và Mã Lai sai đem thuyền gấy rối đường biển. Lại lệnh cho tướng Chất Tri (Chao Phraya Chakri) đem quân qua đánh Chân Lạp để tìm giết hoàng tử thứ nhất là Chiêu Xỉ Khang còn mình tự cầm binh thẳng qua trấn Hà Tiên để truy tìm Chiêu Thúy.
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/11/10
  4. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi 4:

    Tuần phủ tham tài mở Vân Đồn
    Anh hùng vì nghĩa làm Biện Lại


    Nhắc lại quân Xiêm La chia hai đường đến đánh Chân Lạp và trấn Hà Tiên. Vua Chân Lạp sai sứ qua Gia Định xin viện binh cứu giúp, Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tích cũng sợ binh ít không giữ nổi thành bèn sai người về Gia Định xin thêm quân phòng giữ.

    Điều khiển Gia Định Nguyễn Cửu Khôi và Tham mưu Nguyễn Thừa Tự cho rằng Xiêm La đang có nội loạn, chưa thể đem quân đánh Hà Tiên mà năm trước đã sai Thống suất Nguyễn Cửu Khôi và và Tham mưu Nguyễn Thừa Mân đem quân đi cứu một lần. Kết quả không công mà nhọc sức nên từ chối không cấp quân cho Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ thấy vậy lo lắng sai quân dân trong trấn đắp sửa thành lũy để phòng bị.

    Bấy giờ ở Phú Xuân, việc triều chính ngày càng rối ren. Lại bộ Thượng thư Nguyễn Cư Trinh già yếu đã mất, Nội hữu chưởng dinh Nguyễn Phúc Nghiễm, Chưởng Thủy cơ Nguyễn Phúc Viên say mê tửu sắc, không để ý đến việc nước. Quốc phó Trương Phúc Loan cầm quyền, chính trị tự chuyên , không kiêng nể gì, bán quan, buôn tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đều lấy làm khổ. Khiến cho tai dị hiện ra luôn, đất động, núi lở, sao sa, nước đỏ, trăm họ đói kém, trộm cướp nổi lên. Nam Hà sinh ra nhiều việc.

    Tuần phủ Quy Nhơn Nguyễn Khắc Tuyên vốn là kẻ tham tàn, nhờ đút lọt cho bọn Thái Sinh và Quốc phó Trương Phúc Loan mà được bổ làm Tuần phủ. Nguyễn Khắc Tuyên tư túi hết số tiền thuế các năm trước nên lệnh cho dân trong phủ nộp trước hai năm thuế, lại tăng thuế buôn bán sản vật với các dân mọi, tàu bè ngoại quốc và dân Hoa kiều. Nguyễn Khắc Tuyên sai Đề đốc Lý Trình đem quân ra mõm đất sát cửa bể lập một cái đồn để thu thuế gọi là Vân Đồn. Tất cả thương nhân qua lại trong vùng và tàu bè đến buôn bán đến phải khai báo và nộp thuế mới được giao thương. Bấy giờ các tàu buôn ngoại quốc đều chán nản mà dân Hoa kiều đều tỏ ý oán hận nên thường nổi lên đánh giết quan coi tàu và biện lại chuyên thu thuế. Hễ quân của triều đình kéo đến thì các tàu thuyền lại bỏ đi nơi khác, nếu bị ép quá thì lại đổ hết hàng hóa xuống biển. Số thuế đã không thu được thêm mà còn giảm đi so với trước.

    Quy Nhơn Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên thấy hạn nộp số thuế đã gần đến mà việc thu thuế không tiến triển, lòng rất lo lắng. Thủ hạ là Đốc trưng Đằng chuyên việc trông coi thu lương thảo trong phủ bày kế:
    - Nay bọn tàu buôn ngoại quốc ngày càng càn rỡ mà đám thủ hạ nơi phủ đều tham lợi. Nếu mạnh tay quá thì bọn chúng kéo thuyền vào nam, mà nhẹ tay thì chúng coi thường không chịu đóng nạp. Vả lại đám người Hoa đều dõi võ nghệ nếu không được một tay có võ nghệ, uy tín sai bảo, chúng tất không chịu nghe. Theo ý của hạ quan thì phải phiền đến người này mới xong.

    Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên nghe vậy liền vội hỏi:
    - Người đó là ai?

    Đốc trưng Đằng liền đáp:
    - Người đó là một tay hiệt kiệt đất Tây Sơn, Nguyễn Văn Nhạc.

    Nguyễn Văn Nhạc nguyên là người họ Hồ gốc ở Bắc Hà. Nguyên ông cố của Nguyễn Văn Nhạc là Hồ Văn Long người gốc làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Khi hai nhà Trịnh – Nguyễn đánh nhau, mỗi khi quân nhà Nguyễn đánh ra bắc đều ép dân bị bắc lên thuyền theo về phía nam. Mục đích của các chúa Nguyễn là nhằm tăng dân số Nam Hà và làm suy yếu Bắc Hà để khai khẩn phương nam và chống lại chúa Trịnh. Hồ Văn Long khi vào nam giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Văn Tiễn. Hồ Văn Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Văn Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Văn Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Nguyễn Văn Phúc có ba người con là Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Văn Lữ.

    Nguyễn Văn Nhạc là con cả của Nguyễn Văn Phúc, khi mới sinh thì Nguyễn Văn Phúc mơ thấy mặt trời nổi và đầu rồng xuất hiện. Người con thứ hai là Nguyễn Văn Huệ khi sinh ra Nguyễn Văn Phúc cũng nằm mơ thấy vầng mặt trời rồi một con rồng xuất hiện nuốt trọn vầng mặt trời rồi biến mất. Người con thứ ba là Nguyễn Văn Lữ khi sinh cũng mơ thấy một con hổ đang vồ mời. Thầm cho đó là điều may, nhân khi đi buôn bán thấy đất An Khê – Tây Sơn có thế long chầu hổ phục bèn dời nhà đến đấy an cư. Nguyễn Văn Nhạc lớn lến theo cha đi buồn trầu nên còn có tên là Hai Trầu. Nguyễn Văn Nhạc nổi tiếng hào hiệp, hay giúp đỡ kẻ nghèo khó nên anh hùng hào kiệt các nơi đều mến mộ mà các đạo tặc thảo khấu cũng kiêng dè. Vì đất Tây Sơn mới khai khẩn, dân chúng chưa thuần phục mà thuế khóa nhà Nguyễn lại hà khắc nên quan lại phải chọn người được dân chúng nể trọng để thu thuế. Nguyễn Văn Nhạc vì vậy được quan trấn thủ ở Quy Nhơn dùng làm chức thâu thuế trong vùng nên có thêm tên là Biện Nhạc.

    Nguyễn Văn Phúc khi đến lập nhà ở Tây Sơn gặp một người trung niên nhìn thấy ba anh em Nhạc – Huệ - Lữ thì giật mình than: "Nếu ta không gặp ba đứa trẻ này vị tất có thể báo được thù". Bèn dừng chân nơi ấp An Khê mở trường dạy học.

    Bấy giờ người dạy võ đất Tây Sơn thì rất nhiều nhưng người dạy văn thì lại ít. Một phần vì đất Tây Sơn ở mạn ngược xa xôi, dân chúng thưa thớt lại nhiều thú dữ và ít vương pháp nên dân chúng ai cũng tập võ để phòng thân khiến cho đất này thành vùng đất nổi tiếng thượng võ. Đám văn nhân muốn cầu cạnh chốn quan trường cũng ít người ở lại đất Tây Sơn để mở lớp. Cho nên vị trung niên tráng sĩ mở lớp dạy kiêm văn võ chẳng mấy chốc nổi tiếng đất Tuy Viễn mà con cháu hào phú trong vùng đều tìm đến theo học.

    Trong số các học trò theo học có ba anh em họ Nguyễn là Nhạc –Huệ - Lữ, ngoài ra còn có Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh …vv.

    Bấy giờ Đốc trưng Đằng vâng lệnh Tuần phủ đến ấp Tây Sơn mời Nguyễn Văn Nhạc đến hành phủ để bàn việc. Nguyễn Văn Nhạc đáp lễ từ chối:
    - Tôi chỉ là kẻ thảo lậu nơi xó núi, văn không thông, võ chẳng thạo. May được nhà chúa cho ở nhờ nơi xó núi để trồng cấy đắp đổi qua ngày. Thực không có tài cán gì có thể ra nhận việc nơi cửa quan, chỉ sợ làm hỏng việc mà thôi.

    Đốc trưng Đằng nói mời đôi ba phen không được bèn dọa:
    - Nếu không đi sẽ bắt cả nhà tống giam.

    Nguyễn Văn Nhạc biết không thể từ chối bèn vào nhà dặn dò hai em rồi theo Đốc trưng Đằng lên phủ để nhận việc.

    Đến nơi, Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bày một tiệc rượu nơi sãnh đường, rồi bày hai hàng lính cầm giáo từ ngoài sân vào đến tận phủ. Nguyễn Văn Nhạc đến nơi thấy vậy, cười lớn ba tiếng, ung dung đi vào. Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên cả cười khen
    - Người ta đồn ngươi là người gan dạ, lớn mật thật không ngoa truyền.

    Bèn mời ngồi dùng tiệc. Nguyễn Văn Nhạc ung dung rót rượu, xé thịt ăn tự nhiên như ở nhà. Hết vài tuần rượu, Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên mới nói:
    - Nay bọn tàu bè ngoại quốc và Hoa kiều càn rỡ không chịu nộp thuế, lại thường xuyên đánh giết quan quân, chẳng hay ý của ngươi thế nào?
    Nguyễn Văn Nhạc trố mắt nhìn Nguyễn Khắc Tuyên rồi bật cười hả hả:
    - Thế mà kẻ hèn này cứ tưởng đại nhân triệu đến đây cho một bữa no say để rồi tống giam đòi truy thu số thuế mà ấp Tây Sơn còn thiếu!.

    Đốc trưng Đằng mới đỡ lời:
    - Tuần phủ muốn tráng sĩ nhận chức biện lại nơi Vân Đồn để trông coi việc trưng thu thuế khóa trong vùng.

    Nguyễn Văn Nhạc chấp hai tay xá:
    - Xin thứ cho Nhạc này nói thẳng, việc làm Biện lại Vân Đồn, Nhạc nhất quyết không dám nhận.

    Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên nói:
    - Biết bao kẻ mong muốn nhận được chức ấy, ngươi cớ sao lại từ chối?

    Nguyễn Văn Nhạc đáp:
    - Nếu sai tôi vào rừng bắt hổ, dẩn lính truy quét đám lục lâm, đem quân đánh dân mọi rợ, Nguyễn Văn Nhạc này không chối từ. Nhưng nếu sai tôi ra nơi Vân Đồn làm Biện lại thì phải thuận cho tôi ba điều.

    Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên hỏi:
    - Ba điều ấy là điều gì?

    Nguyễn Văn Nhạc đáp:
    - Một là tôi chỉ thu thuế theo đúng mức thuế triều đình đã giao các năm trước. Hai là việc khai khẩn và thuế má của dân Thượng nơi Tây Sơn đều do tôi phụ trách. Ba là mọi người dưới quyền đều phải do mình tôi lựa chọn, sắp đặt.

    Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên suy nghĩ hồi lâu rồi đồng ý. Nguyễn Văn Nhạc liền xá chào ra về.

    Đốc trưng Đằng thấy vậy hỏi Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên:
    - Sao Tuần phủ lại dễ dãi với hắn như vậy?

    Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên đáp:
    - Nay việc trưng thu thuế đương gấp ta phải tạm dùng. Đợi đến khi xong việc, ta sẽ trị tội vô lễ vẫn chưa muộn.

    Bèn sai Đốc trưng Đằng và Đề đốc Lý Trình bí mật giám sát cẩn thận mọi hành động của Nguyễn Văn Nhạc.
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/11/10
    thuong_lucky2002 thích bài này.
  5. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi 5:

    Phá Tạm Vạn, Đoàn Thống lãnh nổi danh
    Mất Trấn Ninh, Lê Đế tử tự sát
     
  6. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi ???:

    Đánh Quy Nhơn, Nguyễn Gia Vương phát binh
    Giữ Diên Khánh, Phạm Văn Điềm hao tướng


    Lại nói Nguyễn Vương thấy hai nhà Thái Đức và Cảnh Thịnh bất hòa bèn quyết ý dụng binh. Bấy giờ quân lương đã thu xếp xong, lại sắp có gió mùa bèn triệu tập các tướng bàn việc xuất chinh. Phong Tôn Thất Hội làm Bình Tây Đại tướng quân giữ Tiền quân, Nguyễn Huỳnh Đức làm Bình Tây Phó Tướng quân giữ Hữu quân, Võ Tánh làm Bình Tây Tham thặng tướng quân giữ Hậu quân. Lại phong Nguyễn Văn Thành làm Bình Tây Tiền tướng quân đem quân Tiên phong đi trước làm tiền đạo. Các viên đại tướng đều đều ban quyền Khâm sai, có thể tiền trảm hậu tấu.

    Lại đem thủy binh chia làm ba dinh Tiền Thủy, Trung Thủy, và Hậu Thủy. Lấy Nguyễn Văn Huấn làm tướng Tiền Thủy, Nguyễn Thoan làm tướng Hậu Thủy, Hồ Văn Lân làm tướng Trung Thủy coi đường thủy.
    Đặng Trần Thường tâu:
    - Phép dụng binh trước phải giữ yên nhà mới có thể mưu việc chống đánh bên ngoài. Vạn nhất mà việc quân bất lợi cũng có thể lui về để bảo toàn. Đó mới là kế vẹn toàn.

    Nguyễn Vương bèn sai Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh ở lại trấn giữ kinh thành Gia Định. Lại để Tả quân Phó tướng Phạm Văn Nhân và Trung dinh Giám quân Tống Phước Đạm ở lại lao động đường phố giúp Đông cung giữ Gia Định. Lại phong Mạc Văn Tô làm Lưu thủ Trấn Định, Nguyễn Văn Nghĩa làm Lưu thủ Trấn Biên để phòng đường biển. Triệu các tướng Nguyễn Văn Nhân… về theo việc quân.

    Lê Văn Duyệt bấy giờ đang giữ chức Nội thuộc Cai cơ nơi hành tại nói:
    - Nay quân của Nguyễn Nhạc đang đóng ở thành Diên Khánh. Nếu đem tất cả quân từ Gia Định xuống thuyền để đánh Quy Nhơn thì đường bộ cô thế. Chi bằng chia Tiên phong quân và Hữu quân cho Tôn Thất Hội sai khiến. Ba dinh Thủy quân và Hậu dinh của bộ quân thì lên thuyền để đánh mặt sau. Hai mặt thủy bộ đều tiến, trước hạ thành Diên Khánh, sau lấy , kế đến hạ Quy Nhơn. Đó là kế sách cận công.

    Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức đều khen hay. Nguyễn Vương bèn sai hai tướng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đem quân hai dinh Tiên Phong dinh và Hậu dinh theo đường bộ theo quyền tiết chế của Tôn Thất Hội.

    Đoạn sai hai tướng thủy quân là Nguyễn Văn Trương và Vũ Di Nguy đi trước. Hậu dinh của Võ Tánh xuống đại thuyền đi trung quân, lại khiến Hộ bộ Phan Thiên Phúc và Tham tri Nguyễn Đức Chí đem thuyền lương đi sau chu cấp cho các quân thủy bộ.

    Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức đem bộ binh thẳng đến Phan Rí. Tôn Thất Hội ra đón rồi vời vào trướng thương nghị. Tôn Thất Hội nói:
    - Nay thủy quân của ta đã theo mặt bể đánh ngã sau để cắt đường viện binh của Quy Nhơn. Diên Khánh chỉ là cô thành, đánh lâu tất vỡ. Nhưng bọn Phạm Văn Điềm thấy nguy tất theo ngã thượng đạo mà rút.

    Nguyễn Văn Thành nói:
    - Trước hãy sai hai tướng ở Thuận Thành là Nguyễn Văn Chấn, ở Ba Phủ là (Nguyễn Văn Cố) ngầm theo đường thượng đạo chiếm lấy chổ hiểm để mở đường. Rồi sai một tướng đem quân mạnh theo đường Thượng đạo đặt đồn ngăn giữ. Bọn Phạm Văn Điềm dẫu có mọc cánh cũng khó thoát được.

    Nguyễn Huỳnh Đức xin đi, Tôn Thất Hội bèn phát binh phù cho Nguyễn Huỳnh Đức, lại khiến kỵ mã báo tin cho bọn Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Cố đem binh thương đạo đi trước mở đường.

    Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Cố đem binh hai phủ Thuận Thành và Ba Phủ kéo đi trước giữ ngõ ….., (Ông Tá) đem quân ra giữ.

    Thủy binh Gia Định thuận gió tiến đến Yên Cương. Tướng Tây Sơn là Chỉ huy ( Hoàng Công Trí) đóng thủy quân giữ ở đấy. Bây giờ đại thuyền của Thái Đức đóng hết ở Thị Nại, dưới quyền của (Hoàng Công Trí) chỉ có mấy mươi chiếc sai thuyền. (Hoàng Công Trí) biết thế không địch được bèn sai quân chất hết quân lương lên thuyền bỏ chạy về Quy Nhơn. Tướng bộ binh Tây Sơn giữ đồn bộ trên đất liền thấy thế thủy quân Gia Định quá mạnh bèn dâng đồn đầu hàng. Võ Tánh nhân hàng rồi sai người về phi báo cho Nguyễn Vương.

    Phạm Văn Điềm hay tin bộ binh của Tôn Thất Hội sắp đến đánh bèn sai Chỉ huy Dương Văn Khái đem 3000 quân vào ngõ … giúp Ông Tá giữ đường thượng đạo, lại sai người chuẩn bị binh khí, gia cố thành trì để phòng bị. Đoạn sai người về Quy Nhơn cầu viện binh. Tuần phủ Nguyễn Y Mân can:
    - Nay đang lúc gió mùa, bộ binh của Tôn Thất Hội đã đóng ở Phan Rí mà chưa chịu dời đi là ý đợi thủy quân nam cắt đứt đường về rồi mới chịu tiến binh. Chi bằng ta đem hết quân lương lùi về. Cùng lắm chịu cho chúng lấy cái thành trống không. Đợi đến khi thuận gió nam, ta lại đoạt lại.

    Phạm Văn Điềm tức giận mắng:
    - Ta từ khi cầm binh đến nay, chưa có bao giờ bỏ thành chưa đánh mà chạy.

    Bèn điểm hết quân kéo ra thành mười dặm lập đồn trại đề phòng quân Tôn Thất Hội từ Phan Rí kéo vào.

    Chợt tàn quân từ Yên Cương chạy về báo Hoàng Công Trí đã đem thủy quân trốn về Quy Nhơn, Chỉ huy đầu hàng, Phạm Văn Điềm thất kinh bèn sai người về thành Diên Khánh chuyển hết quân lương ra mé sau ngõ thượng đạo trước để phòng bất trắc.

    Bên phía bộ binh quân Nam, Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành hay tin thủy quân đã chiếm Yên Cương liền xua quân đánh đồn Phan Rí. Tướng Tây Sơn là Đô đốc Hồ Văn Tự đem quân chống giữ. Tiền quân dinh Tôn Thất Hội cũng đem toàn quân đến công phá đồn Phan Rí.

    Tham đốc Tây Sơn Hồ Văn Tự thấy bộ binh quân nam đánh Phan Rí quá gắt bèn đem quân từ Diên Khánh đến trợ chiến. Phạm Văn Điềm nói với Hồ Văn Tự:
    - Mặt thủy quân nam đã chiếm, chúng ta cố đánh chỉ khiến cho ba mặt bị vây. Chi bằng đem quân lùi về từ từ giữ Diên Khánh và đường thượng đạo. Đợi hết gió mùa quân nam sẽ rút.

    Chợt có ngựa lưu tinh báo:
    - Ông Tá đánh nhau với bọn Nguyễn VĂn Chấn, Nguyễn Văn Cố thua trận đã trốn vào trong các sách mường, hiện quân của Nguyễn Huỳnh Đức và bọn Nguyễn Văn Chấn đang đánh nhau với quân ta ở ngõ .. , xin đô đốc về cứu viện.

    Hồ Văn Tự tái mặt nói:
    - Nếu bọn Nguyễn Huỳnh Đức mà cắt đường về thượng đạo của ta thì toàn quân Diên Khánh tất bị bao vây, chi bằng rút về trước thì hơn.

    Phạm Văn Điềm can:
    - Nếu rút ngay thì quân Tôn Thất Hội, Nguyễn VĂn Thành sẽ truy kích ngay. Tôi có cách này có thể giải được vây.

    Tối hôm đó, Phạm Văn Điềm và Hồ Văn Tự ngầm đem quân đánh úp doanh trại của hai tướng Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Thành. Quân Tây Sơn đem súng hỏa điêu bắn tràn vào doanh trại của quân Nam rồi hò reo xông vào chém giết. Tôn Thất Hội sợ ban đêm có phục binh bèn truyền lênh các doanh giữ vững không ra. Đến hơn nữa đêm quân Tây Sơn rút đi. Sáng hôm sau, hai tướng dẫn quân đến doanh trại của Hồ Văn Tự thì thất doanh trại còn nguyên, cờ xí cắm la liệt nhưng tịnh không một bóng quân. Nguyễn Văn Thành cả cười cầm thương trỏ vào doanh trại nói:
    - Chúng ta mắc phải mẹo mất rồi.

    Bèn xua quân đuổi theo.

    Nguyên hai tướng Hồ Văn Tự và Phạm Văn Điềm biết quân Nam thế lớn bèn lập kế công kích đánh đêm, rồi nhân tối rút quân ra đường thượng đạo Sầm Hôn. Phần Tôn Thất Hội dẫn binh tiến thẳng đến lầy thành Diên Khánh. Tuần phủ Nguyễn Y Mân thấy hai tướng Phạm Văn Điềm, Hồ Văn Tự đã rút bèn đem toàn thành dâng cho Tôn Thất Hội.

    Tôn Thất Hội đem giải Nguyễn Y Mân đến Yên Cương cho Nguyễn Vương để báo tin.

    Phạm Văn Điềm, Hồ Văn Tự đem quân đến hội với Chỉ huy Dương Văn Khái. Nguyễn Huỳnh Đức thấy hai tướng Tây Sơn đem quân dồn lại một chổ, sợ ít quân không địch nổi liền lùi lại vài dặm lập trại. Phạm Văn Điềm nói với hai tướng:
    - Nguyễn Văn Thành tất đem quân đuổi đến ngay đây. Hai ngươi hãy quân lui về trước, ta sẽ đích thân đi đoạn hậu.

    Hồ Văn Tự và Dương Văn Khái bèn đem quân bản bộ lùi về trước, Phạm Văn Điềm lại sai hai tướng cắm cờ quạt hai bên đường để nghi binh, đoạn dẫn quân từ từ lui về.
    Huỳnh Tường Đức đem Hữu quân đuổi theo. Nguyễn Văn Thành dẫn quân đến, bọn Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Có ra đón. Nguyễn Văn Thành hỏi Nguyễn Huỳnh Đức đâu, hai tướng thuật lại chiến sự. Nguyễn Văn Thành than:
    - Bọn Hồ Văn Tự, Phạm VĂn Điềm đều là tướng giỏi của Nguyễn Nhạc, đâu dễ chịu thua như vậy. Hữu quân tất bị lâm nguy.

    Bèn đem quân tức tốc đuổi theo.

    Nhắc lại Huỳnh Tường Đức đem quân đuổi theo. Phạm Văn Điềm vừa đánh vừa chạy. Điều khiển (Hồ Thế Cường) can:
    - Bọn Phạm Văn Điềm vừa đánh vừa chạy kia, tất có phục binh.

    Huỳnh Tường Đức nạt:
    - Chúng cắm cờ quạt thế kia chỉ nghi binh dọa chúng ta mà thôi. Nay không đánh đuuổi chúng một trận còn đợi đến bao giờ.

    Bèn thúc ngựa lên trước tự mình đốc quân đuổi theo. Được hơn mười dặm, quân của Phạm Văn Điềm vứt cả vũ khí mà chạy. Hùynh Tường Đức hăng máu thúc quân đuổi theo. Chợt có tiếng cồng vang lên, rồi hai bên khe núi cờ Tây Sơn dựng đứng đỏ cả rừng. Hồ Văn Tự, Dương Văn Khái hô quân bắn tên xuống như mưa. Hữu quân của Huỳnh Tường Đức lớp bị trúng tên, lớp xô nhau chạy lùi về sau. Phía trước Phạm Văn Điềm cũng hô quân đánh ngược lại. Huỳnh Tường Đức nghiến rắng, múa tít đại đạo gạt tên, đánh mở đường lùi.

    Chỉ huy Dương Văn Khái cũng thúc ngựa múa đao xuống đánh. Hữu quân của Huỳnh Tường Đức dần đuối sức. Chợt mặt sau của quân Nam có tiếng hò reo vang dội, rồi Nguyễn Văn Thành dẫn Tiền phong quân đánh thốc vào cứu nguy. Hồ Văn Tự và Phạm Văn Điềm thấy cứu binh quân Nam đã đến bèn đánh chiêng thu quân. Bấy giờ chỉ huy Dương Văn Khái ham đánh kẹt giữa vòng vây không thoát ra được. Huỳnh Tường Đức múa đại đao đến chém Dương Văn Khái ngã xuống ngựa, liền bị quân Nam bắt sống. Đoạn hai tướng Huỳnh Tường Đức, Nguyễn Văn Thành thu quân về thành Diên Khánh hội với Tôn Thất Hội. Sai hai tướng Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn VĂn Có ra ngõ Sầm Hồn để đóng đồn giữ thượng đạo. Lại sai Điều khiển (Hồ Thế Cường) đem quân đi tìm bắt (Ông Tá). Trận này Hữu quân của Huỳnh Tường Đức chết và bị thương hơn hai ngàn, nhưng bắt được Chỉ huy Dương Văn Khái, đuổi được hai đô đốc Tây Sơn. Công đủ bù tội.



    --------------------------------

    Hồi ??

    Cầu Phú Xuân, Lê Chất vượt trùng vây
    Cứu Hoàng Đế, Cảnh Thịnh phát binh hùng



    Nhắc lại Nguyễn Bảo leo lên mặt thành Hoàng Đế nhìn ra ngoài thấy quân Nam vây kín tầng tầng lớp lớp mấy vòng. Cách bốn cửa thành mấy dặm đều có bốn cái đại trại, đèn đuốc sáng trưng, quân kỵ mã đi tuần không ngớt. Còn trên dãy núi Đốn Sơn lại có một tiểu trại, thắp đuốc làm hiệu lệnh. Nguyễn Bảo thất kinh rồi về hành cung bẩm báo cho Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc. Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

    - Quân Nam vây kín bốn mặt rồi lại đóng trại cách bốn cửa quan là ý muốn bao vây tuyệt đường lương của quân ta và đánh lâu dài. Nay trong thành lương thảo không thiếu nhưng tướng sĩ đều mất hết tinh thần. Nguyễn Quang Huy giữ Phú Yên bị Nguyễn Văn Thành ngăn trở mà Hồ Văn Tự đóng quân ở … cũng không thể đem quân về cứu. Nếu cứ để kéo dài thì lòng quân tan rã thật không phải là bó tay chịu chết sao?.

    Đố đốc Từ Văn Tú thưa:
    - Nay thế quân đang cơn bỉ cực, nếu không xin viện binh với Phú Xuân tất khó có thể giải vây. Xin vương thượng mau phát kiểu chiếu sai người đem về Phú Xuân để cầu viện.

    Thái Đức Đế thở dài than:
    - Ta từ khi vung gươm quấn cờ đào khởi nghĩa, thân đánh trăm trận, sống chết đều coi nhẹ như lông hồng. Không ngờ nay phải cầu cứu đứa trẻ con miệng còn hôi sữa.
    Bèn sa nước mắt, sai Binh bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phát thảo tờ kiểu chiếu để cầu viện Phú Xuân
    . Đại ý nói: “Phép thường xưa nay hể môi hở thì răng lạnh. Nay quân Nam bạo ngược, nhân gió mà tiến đánh đất cố thổ. Việc binh Tây Sơn gặp lúc thất lợi, nếu thất bại thì phận làm tướng chết nơi trận tiền cũng chẳng có gì đáng tiếc. Nhưng lăng tẩm của tiên vương mấy đời cùng gia quyến cũng các tướng sĩ đều ở nơi đất Quy, Quảng. Nếu thành mất thì vàng đá đều tan cả. Nếu tự vương còn nghỉ đến tình máu mủ và bá tánh trong vùng, xin mau phát binh giải nguy. Cô này xin đem đất Quảng Nam làm của khao binh, cùng nhau phá giặc giữ. Việc binh nguy cấp, chẳng nói hết lời. Mong quân cứu viện như cứu lửa.”

    Kiểu chiếu thảo xong rồi, Chỉ huy Đào Văn Lượng xin đi. Thái Đức Đế bèn ban cho 3 chung ngự tửu và 50 quân ngự lâm thân binh để làm tùy tùng. Canh ba đêm đấy, Đào Văn Lượng nai nịt gọn nghẽ, dẫn theo 50 thân binh mở cửa thành toan thoát ra ngoài. Đô đốc Nguyễn Công Thái cũng đem hai ngàn quân ra thành yểm trợ.

    Cầu treo vừa hạ xuống thì đã thấy một tiếng cồng vang lên rồi tiếng quân Nam la ó ba mặt. Một viên tướng cưỡi ngựa khác áo choàng trắng, cầm thương trở vào toán quân Tây Sơn hô lớn: Mau xuống ngựa đầu hàng. Nguyễn Công Thái cũng không dám ham chiến, dẫn quân vòng ra ngã khác. Nhưng bốn phía đều đều bị quân Nam vây chặt, tầng tầng lớp lớp ùn ùn kéo đến. Đô chỉ huy Đào Văn Lượng cùng bọn thân binh cũng không thể tìm được đường thoát ra ngoài.

    Tiếng quân la ó ba mặt mỗi lúc mỗi gần. Nguyễn Bảo ở trên thành vội hô cung nỏ bắn tên giải nguy cho bọn Nguyễn Công Thái và Đào Văn Lượng. Lại sai hạ cầu treo, đánh chiêng thu quân. Nguyễn Công Thái và Đào Văn Lượng đành dẫn quân vào thành. Quân sĩ thuộc hạ bị thương hơn 50 người, không có một ai thoát được ra ngoài.

    Nguyễn Bảo thấy quân sĩ không thoát được ra ngoài, lòng lo lắng bèn đưa bọn Đào Văn Lượng và Nguyễn Công Thái về chính doanh nghĩ ngơi an ủi. Chợt có tiếng cười lạt phía sau lưng. Đào Văn Lượng tức giận, rút kiếm đánh soạt, chĩa vào người đi sau vừa cười lạt. Chúng tướng chĩa đuốc vào thì thấy người ấy chẳng phải ai khác là Đô đốc Lê Chất, chỉ huy quân Kiên Dũng, đang chỉ huy hộ tuần phòng. Đại đô đốc Nguyễn Công Thái hất thanh gươm của Đào Văn Lượng đang chĩa vào Lê Chất, khẽ hỏi:
    - Ngươi có cách thoát khỏi thành hay sao?

    Đô đốc Lê Chất không đáp, hướng về phía Thái tử Nguyễn Bảo cất tiếng hỏi:
    - Điện Hạ muốn sai người thoát khỏi vòng vây về Phú Xuân cầu viện phải không?

    Thái tử Nguyễn Bảo gật đầu. Lê Chất bèn quỳ xuống đấ, giơ hai tay lên kêu:
    - Mạt tướng xin đột phá vòng vây về Phú Xuân cầu viện.

    Đào Văn Lượng và Nguyễn Công Thái đồng cười gằn:
    - Rất đỗi bọn ta, tả xông hữu đột mà còn chưa ra khỏi, áo giáp còn đương cắm đầy lông tên. Chả lẻ ngươi có thể mọc cánh để bay ra chăng?

    Lê Chất thản nhiên nói:
    - Nhị vị Đô đốc chỉ có dũng mà chưa biết mưu. Quân Nam vây chặt mấy vòng tất đã đề phòng quân ta cho người đi xin cứu viện. Huống hồ của Bắc quan là nơi trọng yếu tất chúng sẽ dồn binh chống giữ. Nếu ta đi từ cửa Tây tất sẽ thoát ra được.

    Nguyễn Bảo lắc đầu nói:
    - Mặt Tây là của Thị Nại, mà quân Nam cũng đã lập trại đề phòng nếu thoát ra chắc gì đã đi được.

    Lê Chất giập đầu tâu:
    - Tôi mấy ngày này đi tuần hành, thấy cửa Tây quân đi tuần ít hơn mà sau khoảng nửa đêm thì quân cũng không còn nghiêm bị nữa. Còn chỉ cần thoát khỏi vòng vây thì tất cả ngõ núi đường đất trong vùng Quy Nhơn này chưa có chổ nào Chất này chưa đặt chân đến. Xin Thái tử yên tâm.

    Đào Văn Lượng cả mừng bèn tháo tờ kiểu chiếu trong ngực đưa cho Lê Chât rồi thưa với Nguyễn Bảo:
    - Lê Đô đốc tuy tuổi trẻ nhưng liệu việc như thần, nếu không phải Lê Chất ra tay e rằng toàn thành nguy mất. Huống hồ nhạc phụ của Chất là Đại Tổng quản Lê Trung đang cầm quân đóng giữ Quảng Nam, nếu được tin của Chất tất sẽ xuất quân.

    Nguyễn Bảo liền đỡ Lê Chất dậy, chắp hai tay vái Lê Chất khóc:
    - Mười vạn tướng sĩ Tây Sơn ở thành Hoàng Đế này đều cậy hết vào thần uy của tướng quân.

    Lê Chất thất kinh, sụp xuống đất khóc:
    - Mạt tướng này đâu không dám vì Tây Sơ mà ra sức khuyển mã.

    Nguyễn Bảo bèn sai người dắt con chiến mã của mình hay cưỡi đến trao cho Lê Chất rồi nói:
    - Đây là con ngựa Thanh Phong, chùm đuôi toàn một màu xanh, ngày đi ngìn dặm là báu vật của Ya Hầu tặng cho ta. Nay ta trao nó cho ngươi, hễ thấy nó cũng như thấy mặt ta vậy.

    Bèn đỡ Lê Chất dậy rồi sai quân đưa đến cửa Tây. Lê Chất lại nói:
    - Việc này xin phiền hai vị Đào, Nguyễn đô đốc một phen.

    Nguyễn Công Thái bật cười ha hả nói:
    - Ngươi muốn chúng ta giương đông kích tây để ngươi thoát ra chứ gì!

    Lê Chất cũng bật cười nói:
    - Quả đúng như thế.

    Bèn sai quân sĩ hãy khoan cưỡi giáp, để nguyên binh khí và thắp thật nhiều đuốc từ từ di chuyển đến lại cửa Tây. Lê Chất mình nai nịt gọn gàng, tay cắp trường thương, lưng đeo cung hổ tiển, khoát tay ra hiệu cho hai mươi kỵ mã thân binh vái chào Nguyễn Bảo và hai tướng nói:
    - Phiền nhị vị đô đốc ra của Bắc xung sát một phen thật hăng để Lê Chất tôi thoát ra của Tây. Nếu thấy phía bắc Điểu Sơn có 3 phát sáng bay lên là Lê Chất tôi đã thoát khỏi trùng vây. Trong vòng 10 ngày nếu Phú Xuân không cấp viện binh, Lê Chất này nguyện trở về Hoàng Đế để cùng chết cùng các tướng sĩ.

    Nguyễn Bảo liền xua tay nói:
    - Ngươi cứ đi đi, ta sẽ bí mật lên của Tây quan sát.

    Đào Văn Lượng bèn cùng Nguyễn Công Thái đem thêm hai quân ra của Bắc, lại sai quân cửa Bắc đốt đuốc và đánh trống liên hồi ở cửa Bắc để nghi binh. Trên mặt thành lại phục hơn tám trăm quân cung nõ để phòng bị. Đoạn sai người mở cửa quan kéo ra ngoài thành xung sát.

    Tướng giữ cửa Nam là Trương Tấn Bửu bấy giờ mới quay về đang mặc giáp không ngũ đang xem binh thư trong trướng. Kẻ tùy thuộc khuyên nên nghĩ ngơi. Trương Tấn Bửu mắng:
    - Ta thân làm đại tướng trấn giữ của Bắc, trách nhiệm nặng nề. Nếu quân Tây Sơn có kẻ lọt ra ngoài tất không khỏi bị trọng phạt.

    Lại có tin báo quân trong thành đang đốt đuốc kéo về phía của Bắc quan, rồi sai người thách đánh ban đêm. Trương Tấn Bửu cả giận, sai tả hữu dẫn ngựa đến rồi lên ngựa kéo năm ngàn quân ra của bắc giao chiến.

    Bên phía Tây Sơn, Chỉ huy sứ Đào Văn Lượng vung đao đến giao chiến. Trương Tấn Bửu cũng vung thương đâm lại. Hai tướng đánh nhau hơn mấy mươi hiệp, Nguyễn Công Thái đứng ngoài cũng vung thương giục ngựa vào cùng giáp chiến.

    Bấy giờ Lê Văn Duyệt đang giữ trung quân, được tin báo vội sai Võ Văn Lượng và Nguyễn Văn Đắc đem thêm hai ngàn quân đến tiếp viện cho mặt bắc. Võ Văn Lượng đến nơi thấy hai tướng Tây Sơn đang giáp đánh Trương Tấn Bửu thì vung đao vào sáp trận.

    Nguyễn Công Thái đưa tay ra sau ngoắt một cái. Hai ngoàn quân Tây Sơn tay cầm đuốc, tay cầm gươm ùa vào sáp đánh. Bên phía quân Nam, Nguyễn Văn Đắc cũng hô quân vây bọc quân Tây Sơn làm vòng tròn.

    Đào Văn Lượng và Nguyễn Công Thái dẫn quân dựa theo dọc bờ thành giao chiến. Quân Nam cứ tên nào tiến sát đến gần chân hào đều bị cung tiễn thủ trên thành bắn gục ngã.

    Lê Chất cùng với hai mươi kỵ mã thân tín lẻn đến cửa Tây. Bấy giờ Thái tử Nguyễn Bảo ở trên cửa thành hạ lệnh hạ cầu treo xuống lập tức Lê Chất cùng hai mươi kỵ mã bắn ngựa vọt ra thành như gió cuốn.

    Quân Nam canh cửa ở cửa tây vội đánh trống báo tin. Hai mươi kỵ mã của Lê Chất, một tay cầm cung, một tay rút tiễn liên tiếp bắn ra như mưa. Bọn cung thủ này đều là thuộc hạ thân tín của Lê Chất, thường ngày cùng chủ đi săn bắn, tài xạ tiễn có thể nói là bách phát bách trúng. Mấy chục quân canh vòng ngoài cửa cửa Tây đều chết gục.
    Tướng giữ của Tây là Huỳnh Tường Đức nghe có tiếng kỵ mã rầm rập tức thì tung mình vọt ra khỏi trướng, phóc lên ngựa, vọt đuổi theo. Mấy chục tay tùy tùng thân tín của Huỳnh Tường Đức cũng lên ngựa theo sát phía sau. Bây giờ Lê Chất cùng mấy chục kỵ mã đã chạy được hơn một dặm đường. Lê Chất quày ngựa nói với chúng thuộc hạ:

    - Ta sẽ đi về hướng Bắc để cầu viện. Các ngươi cứ thong thả ruổi ngựa về phía Thị Nại. Bọn quân Nam tất sẽ đuổi theo. Cách đây một dặm đường có bãi cây rậm rạp các ngươi cứ phục ở đây bắn loạn tiễn, chúng tất sẽ bám theo các ngươi. Đợi đến khi gần sáng thì hãy tản đi về phía các làng mạc. Mười ngày sau nếu thấy cờ hiệu của quân Phú Xuân thì hãy đến theo ta để phá quân Nam.

    Chúng thuộc hạ đều vâng lệnh lên ngựa đi tiếp. Lê Chất thúc ngựa chạy thẳng lên gò cao chờ đợi.

    Quả nhiên chưa được nữa canh giờ đã thấy Huỳnh Tường Đức cùng bọn thuộc hạ phi ngựa đến. Lê Chất chờ qua bọn quân Nam đi qua một quảng khá xa rồi thúc ngựa quay ngược về hướng Tây rồi lại vòng ra mé Bắc nơi Điếu Sơn thắp cành khô đốt lửa và bắn sũng hỏa điêu 3 phát làm hiệu, đoạn giục ngựa Thanh Phong nhắm phía bắc xuất phát.

    Thái tử Nguyển Bão ở trên mặt thành thấy mé bắc Điếu Sơn có khói bốc lên vội sai người ra cửa Bắc đánh chiêng thu quân. Hai tướng Đô đốc Đào Văn Lượng và Nguyễn Công Thái bèn đem toàn quân đánh phá vây rút vào thành. Bên phía Nam quân, Trương Tấn Bửu cũng không dám ham đánh rút binh về phòng bị.

    Nói về Huỳnh Tường Dức đuổi theo đến đoạn dốc đường hẹp, hai bên lau sậy rậm rạp, lòng nghi ngại bèn giơ hiệu dừng quân. Chợt nghe có tiếng cung bật, vội nhoài người nằm rạp xuống ngựa. Mấy tên kỵ mã đi sau bổng kêu lên thất thanh rồi ngã xuống ngựa, đèn đuốc tắc hết. Thì ra bọn thủ hạ của Lê Chất cứ nhắm bắn vào toán quân đang cầm đuốc, khiến cho bọn này mất vía, vứt hết đèn đuốc xuống đất, chảng bao lâu bốn phía đều đen mịt. Đến gần sáng thì quân thuộc hạ của Lê Chất đều đã tảng đi hết.

    Lê Văn Duyệt ở Trung quân biết quân Tây Sơn đã thoát ra cửa Tây để đi báo tin liền sai người đi báo cho Nguyễn Ánh và nghiêm lệnh cho các tướng các tướng phòng bị.

    Lê Chất về đến Quảng Nam, Đại Tư lệ Lê Thanh thấy Lê Chất thì giật mình hỏi:
    - Ngươi không theo Thái tử trấn giữ Thị Nại, sao về đây làm gì?

    Lê Chất khấu đầu than:
    - Bởi Thái Đức Đế lầm phải gian kế của Nguyễn Ánh nên quân thua, tướng gãy. Hiện Hoàng Đế thành đang bị vây hãm, quân ta bị nguy khổn trong sớm tối.

    Lê Trung than:
    - Thái Đức một đời anh hùng, chỉ vì lầm nghe theo bọn gian nịnh mà quân thế ngày càng suy nhược, thật đáng thương thay.

    Bèn viết một phong thư sai Lê Chất đem về Phú Xuân giao riêng cho Đại Tư mã Trần Quang Diệu, đoạn hối thúc Lê Chất lên đường.

    Lê Chất hỏi Lê Trung:
    - Nhạc phụ bây giờ tính sao?

    Lê Trung đáp:
    - Cứu binh như cứu hỏa. Một dãi cù lao nơi Quảng Nam tối ư trọng yếu. Này ta sẽ tự cầm thủy quân nhanh chiếm vùng ấy để tiện đường thủy. Lại sai một đạo quân trương cờ hiệu của ta nghi binh theo đường bộ để tiến về Quy Nhơn. Bọn Lê văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành thấy ta nghi bính tất không dám đem toàn lực công thành. Chừng khi Phú Xuân đem viện binh đến, hai mặt trong ngoài sẽ cùng tiến quân. Bọn chúng nếu không chịu lui tất sẽ bị quân ta vây sạch.

    Liền sai Phó tướng trấn thủ Quảng Nam là ???? đem 100 chiến thuyền dẫn tinh binh đi trước đánh úp các đồn dọc mé biển Quảng Nam từ ?? đến. Lại sai Đô đốc là ??? đem 2 ngàn quân bộ trương cờ hiệu Tây Sơn Đại Tư Lệ Lê Trung theo ngã cứ cách 10 dặm lại lập một tiểu trại liên tiếp để nghi binh. Đoạn đem một vạn quân xuống thuyền nhắm mặt bắc cửa Thị Nại thẳng tiến.

    Lê Chất về đến Phú Xuân liền vào Bộ Binh cầu cứu. Binh Bộ Thượng Thư liền đem việc ấy báo lên cho Cảnh Thịnh. Cảnh Thịnh liền vời cấc quan đại thần vào điện thương nghị. Khi ấy gồm có: Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Nhập nội Thái Úy Phạm Công Hưng, Đại Tổng quản Trần Quang Diệu, Hộ giá Phạm Công Huấn, Trung thư Lệnh Trần Văn Kỷ, Hồ Công Diệu …???/

    Cảnh Thịnh hỏi:
    - Nay hoàng thúc Thái Đức sai người đem kiểu chiếu cầu viện. Quân Nam đã vây thành Hoàng Đế hơn nữa tháng. Phú Yên, Bình Khang cũng nguy cấp trong sớm tối. Chẳng hay ý kiến các khanh như thế nào?
    Trần Quang Diệu thưa:
    - Nay Hoàng Đế đang nguy cấp, mà Quy, Quảng đều là đất thang mộc. Quân tứ hiệu đều lấy từ vùng đó. Nếu Hoàng Đế bị hãm thì Phú Xuân cũng nguy. Huống hồ tướng sĩ binh lính ở Hoàng Đế và Phú Xuân đều là một nhà, thân thuộc các tướng lĩnh đều còn ở cả Quy Nhơn. Xin bệ hạ cấp binh để chúng thần vào cứu viện.

    Hộ giá Phạm Công Huấn, Nhập nội Thái Úy Phạm Công Hưng đều xin cấp binh. Cảnh Thịnh bèn sai Phạm Công Hưng làm Tổng quản, Phạm Công Huấn làm Phó Tổng Quản đem mười bảy ngàn quân vào cứu Hoàng Đế.

    Phạm Công Hưng bèn lấy Đại Tư Mã Ngô Văn Sở làm tướng trung quân . Đô đốc Hồ Văn Hố, Chưởng cơ Nguyễn Văn Thiêm làm tả hữu đem một vạn năm ngàn quân tiến trước ra Quảng Nam. Phạm Công Huấn và Phạm Công Hưng đem hai ngàn quân vận chuyển quân nhu tiến theo sau.

    Bấy giờ Lê Chất đem thư của Lê Trung dâng cho Ngô Văn Sở. Nguyên Lê Trung sớm biết Phú Xuân tất phải xuất binh mà cứu viện nên gửi thư cho Đại tư mã Ngô Văn Sở trong đó nói:
    Cứu binh tất phải lấy câu binh quý thần tốc làm đầu. Nay đường bộ bị ngăn trở. Quân Nam đã sớm đề phòng đóng trại ở Cung Quăng. Nay tôi đã sai người đem giả cờ hiệu đi trước đánh đồn bộ ở ???, còn lại đem hết thủy binh chiếm các thủy trại dọc dinh QUảng Nam, Quảng Ngãi để thông đường thủy. Đại Tư Mã cứ đem quân theo đường bộ tiếp ứng, xin cấp thêm cho tôi thẳng theo đường thủy đển công phá cửa Thị Nại. Nếu chiếm được Thị Nại, bọn Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đình Đắc, Nguyễn Đức Thiện sẽ cứ cá nằm trong chậu. Đánh một trận có thể bắt được.

    Ngô Văn Sở xem xong cười quay qua nói với Lê Chất:
    - Hiểu ý ta không ai bằng nhạc phụ của ngươi. Vậy người hãy đem một ngàn quân đi tiên phong chiếm Cung Quăng, ta sẽ sai Hồ Văn Hố và Nguyễn Văn Thiêm đem bốn ngàn quân thủy đi tiếp ứng cho nhạc phụ người.

    Ngô Văn Sở bèn đem hơn một vạn quân còn lại chia ba đường theo đường bộ tấn công vào Quảng Ngãi.
     
    Chỉnh sửa cuối: 11/12/10
  7. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi ??:

    Đánh Đê Phụ, Đào Văn Hổ bị bắt
    Hãm Lệ Dương, Nguyễn Công Thái chịu hàng
     
  8. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi ??:

    Hoàng Đế Thành, Thái Đức Đế mạng vong
    Thị Nại Khẩu, Lê Đô đốc cãi lệnh



    Nhập nội Thái úy Phạm Công Hưng bàn với Hộ giá Nguyễn Văn Huấn:
    - Pháp thường xưa nay nước không thể hai vua. Nay Thái Đức già yếu, mà bọn tướng sĩ dưới trướng lắm kẻ hai lòng. Chi bằng tịch thu hết quân lương chuyển về Phú Xuân, các tướng của Thái Đức đánh trận đều phải dựa vào quân lương. Nếu không làm thế thì làm sao khiến họ thuộc quyền sai khiến.

    Nguyễn Văn Huấn vẫn còn do dự chưa quyết. Đại Tư Lệ Lê Trung ở cửa Thị Nại hay được tin, tức tốc về thành can:
    - Thái Đức là chúa của Tây Sơn. Rất đổi Tiên vương còn phải đắp đàn để giảng hòa. Dân chúng bốn phủ đều coi là Thượng vương. Nay chúng tôi tiếng là bề tôi Phú Xuân, nhưng nghĩa vẫn là thần tử của Hoàng Đế. Nay làm cái việc thất nghĩa như vậy sẽ khiến cho tướng sĩ ly tán, dân chúng chê trách.

    Phạm Công Hưng không nghe, đuổi Lê Trung ra ngoài, rồi đem bàn chuyện ấy với Đại Tư Mã Ngô Văn Sở. Ngô Văn Sở là tâm phúc của Bùi Đắc Tuyên còn Phạm Công Hưng cùng Bùi Đắc Tuyên đều đứng vào vai quốc cữu (cậu vua) của Cảnh Thịnh. Trong sự biến Quảng Nam (???), Ngô Văn Sở cùng các tướng của Thái Đức là Đô đốc Đoàn Văn Cát, Nguyễn Văn Xuân, Từ Văn Tú , Hồ Văn Tự, Hàn .. nhiều lần giao chiến. Hai bên đều không phục nhau. Ngô Văn Sở bèn theo mưu của Phạm Công Hưng sai Chưởng cơ Nguyễn Văn Thiêm chiếm lấy kho quân lương, sai Hồ Văn Hố đem xe chuyển hết quân lương về Phú Xuân và Quảng Nam.

    Phạm Công Hưng lại sợ các tướng của Thái Đức nổi loạn bèn lấy cớ quân Nam chưa trừ xong, sai bọn đô đốc Đoàn Văn Cát, Nguyễn Văn Xuân, Hồ Văn Tự, Hàn đem quân bản bộ ra khỏi thành Hoàng Đế đem quân đóng nơi địa đầu Phú Yên, Bình Khang để cắt vây cánh. Cha con Thái Đức Đế đều bất lực không làm gì được.

    Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc thấy tình thế ngày càng quẫn bách bèn bí mật vời Thái tử Nguyễn Bảo vào nói:
    - Nay Quang Toản ở Phú Xuân ngu tối, bọn Phạm Công Hưng, Ngô Văn Sở cậy thế làm càn, muốn chiếm đoạt bốn phủ. Trong số các tướng Quy Nhơn, chỉ có Lê Trung với Lê Văn Hưng là người trung hậu. Còn bọn Từ Văn Tú, Hồ Văn Tự, Đoàn Văn Cát, Hàn …. đều là kẻ tâm phúc của ta. Trong số tướng sĩ của Quang Toản cũng còn nhiều kẻ mang ơn ta. Vạn nhất ta mất đi rồi, nếu người liệu đủ sức báo thù thì hãy khôn khéo tính kế tự lập, bằng không thì hãy chịu nén mình mà thờ người. Hãy nhớ báo thù là việc nhỏ mà diệt tộc là việc lớn. Quân Nam nay tuy rút lui nhưng tất sang năm lại ra. YaHau và các tộc Thượng ít người nhưng vạn nhất nguy hiểm có thể lui về. Hãy nhớ mọi việc mưu sự phải thật kín đáo không được sơ lậu.

    Nói đoạn ngữa mặt lên trời than:
    - Xưa ba anh em ta rút gươm khỏi nghĩa thề giệt bọn tham tàn, hoạn nạn có nhau. Đến khi sự nghiệp thành rồi thì mỗi người đều lại có chí riêng. Đông Định Vương để mất Gia Định ôm hận mà mất, Bắc Bình Vương quyết chí dẹp họ Nguyễn mà số trời chẳng cho được thọ. Nay trong số bọn con cháu các ngươi đều còn trẻ dại, chưa hiểu việc binh nhung, nếu quân Nam trở lại thật khó bề chống đỡ. Ta ở suối vàng cũng chẳng thể yên mà nhắm mắt được.

    Đoạn thổ ra hơn một chậu huyết. Nguyễn Bảo liền sai bọn thị vệ dìu Thái Đức Đế vào phủ nghĩ ngơi. Canh ba đêm đấy, Thái Đức đang nằm thiêm thiếp ngủ, cứ thấy có người kêu khóc đòi mạng: nhìn ra thì thấy Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương và Định Vương Nguyễn Phúc Thuần. Thái Đức Đế quát to lên thì thấy hai người đấy biến đi mất. Lát sau lại thấy hai người quỳ ở đầu giường để đợi lệnh. Đế ngồi dậy nhìn thì thấy hai người ấy không ai khác chính là Bắc Bình Vương Nguyễn Văn Huệ và Đông Định Vương Nguyễn Văn Lữ. Đế cất tiếng hỏi:
    - Nhị đệ, Tam đệ lâu nay vẫn khỏe chứ?

    Bắc Bình Vương vòng tay thưa:
    - Chúng tôi đã vâng mệnh trời mà …. Nay đem xa giá đến đón hoàng huynh để đoàn tụ.

    Đế khoát tay cho hai người tiến lại gần để xem nhỏ mặt, thì một con gió lốc tạt qua. Bóng hai người tảng đi mất. Choàng tỉnh dậy thì đã thấy gần canh năm. Bèn thở dài nói:
    - Mệnh ta tận rồi.

    Đoạn băng trong cung. Năm ấy Thái Đức Đế thọ 52 tuổi, ở ngôi được 16 năm. Người sau có thơ khen:


    --------

    Thái Đức Đế mất rồi, Phạm Công Hưng và Ngô Văn Sở liền tổ chức vương lễ, sai Thái Tử Nguyễn Bảo làm chủ tang, truy tôn ….. rồi báo tang về triều Phú Xuân. Phạm Công Hưng lại sợ các tướng của Thái Đức đem quân về thành tôn lao động đường phố Nguyễn Bảo bèn lệnh cho các tướng không có lệnh không được tự ý đem quân về thành, lại buộc Nguyễn Bảo dời đến phủ đệ nơi Phù Ly cấm không cho tự ý trờ về thành Hoàng Đế.

    Thái tử Nguyễn Bảo vừa khóc vừa đi, quân sĩ của cả Phú Xuân và Hoàng Đế ai nấy cũng tỏ vẽ bất bình, tỏ ý oán Phạm Công Hưng. Đô đốc Đoàn Văn Cát giữ ????, Đô đốc Từ Văn Tú giữ ???? viết thư gửi cho Đại đô đốc Lê Văn Hưng ngầm ý nói:
    - Bọn Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn và Ngô Văn Sở chỉ cậy thế ngoại thích, vơ vét hết tiền của đem về Phú Xuân mà không nghĩ gì đến tướng sĩ. Nay chỉ cần tướng quân hô một tiếng, dẫn quân về thành Hoàng Đế làm nội ứng, bọn chúng tôi xin đem quân ứng nghĩa để lao động đường phố lập Thái tử.

    Lê Văn Hưng được thư thì lo lắng nghĩ, nay đại quân của Gia Định vẫn còn đóng ở Diên Khánh, thủy quân vẫn neo ở Cù Huân. Nếu Quy Nhơn gặp đại biến thì cái họa bên ngoài chưa tới, nội loạn đã tự diệt. Đang còn do dự thì thuộc hạ vào báo tin:
    - Đại Tư Lệ Lê Trung và Thái Úy Phạm Công Hưng đang đem quân dàn chống nhau nơi . Quân các nơi xxx đều nhốn nháo đang chuẩn bị kéo về thành Hoàng Đế.

    Lê Văn Hưng cả kinh nói:
    - Nếu ta không về ắt có nội biến.

    Bèn kéo hết quân về thành Hoàng Đế để giảng hòa

    Nguyên Phạm Công Hưng sai Hộ giá Nguyễn Văn Huấn ép Thái tử Nguyễn Bảo dời đi Phù Ly. Nguyễn Bảo uất hận mắng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn sai võ sĩ ép cả nhà Thái Tử lên xe. Gia tùy của Nguyễn Bảo liền sai người đi báo với các tướng. Bấy giờ Lê Chất đang coi thủy trại nơi cửa Thị Nại hay tin, đấm tay vào trước ngực than thở, rồi kéo hơn một ngàn quân dưới quyền đi hặc tội Phạm Công Huấn. Đại Tư Lệ Lê Trung cũng sợ có biến vội đem theo hơn năm ngàn quân đuổi theo can ngăn.

    Nguyễn Văn Huấn hay tin Lê Chất kéo đến thì bỏ Nguyễn Bảo mà rút về thành Hoàng Đế, lại sai Hồ Văn Hố đem năm ngàn quân ra đóng trại ngoài thành để đề phòng. Lê Chất kéo quân đến nơi, Hồ Văn Hố đem quân ra ngăn lại. Lê Chất mắng:
    - Thái Đức Đế với Tây Sơn là chủ. Nay linh cửu còn chưa lạnh, các ngươi đã làm chuyện bạo nghịch, thế còn gì gọi là quân nhân nghĩa nữa?

    Phạm Công Hưng đứng trên thành lâu, chỉ roi vào Lê Chất mắng:
    - Hễ ai bắt cái thằng phản nghịch thì thưởng cho 1000 lạng vàng, phong làm Đô đốc.

    Lê Chất tức giận cầm thương trở Phạm Công Hưng mắng:
    - Làm loạn Tây Sơn chính là thằng này.

    Hồ Văn Hố vung đao đến chém. Lê Chất toan giục ngựa đến đánh thì có tiếng chiêng thu quân. Thì ra nhạc phụ của Lê Chất là Lê Trung vừa đến, sai người đánh chiêng gọi Lê Chất trở về. Lê Trung thúc ngựa ra trước trận, chắp hai tay chào Hồ Văn Hố rồi lên tiếng nói với Phạm Công Hưng:
    - Lê Chất trẻ tuổi, nếu có gì mạo phạm xin Hộ giá tha lỗi. Còn việc của Thái Đức Thái tử xin chờ mệnh lệnh của triều đình phân giải.

    Đoạn thâu quân về cửa Thị Nại, lại sai Lê Chất hộ tống gia quyến của Thái tử Nguyễn Bảo về Phù Ly. Nguyễn Bảo sa nước mắt nói:
    - Nếu tướng sĩ ai cũng biết đạo nghĩa như cha con ngươi thì Tây Sơn đâu có như ngày nay.

    Lê Chất cũng khuyên:
    - Xin Thái tử cứ chịu nhẫn nhục, các tướng sĩ còn nhớ ơn trước tất sẽ tìm cách báo đáp.

    Lê Văn Hưng đem quân về thành. Thái úy Phạm Công Huấn bèn sai Lê Văn Hưng đem quân đi bắt Lê Trung về hỏi tội. Lê Văn Hưng cản:
    - Nay đại địch đang ở trước mắt. Nếu làm căng quá tất các tướng của Thái Đức sẽ gây biến. Không nên gây chuyện chia rẽ làm mất quân tâm.

    Phạm Công Huấn biến sắc nói với Ngô Văn Sở:
    - Nay Lê Văn Hưng về phe cùng với Lê Trung, ý ông thế nào?

    Ngô Văn Sở suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
    - Lê Văn Hưng rất được các tướng tôn trọng, nếu tìm cách trừ đi thì sẽ khiến lòng quân sinh biến, chi bằng cứ thong thả mà tính.

    Bèn cùng với Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn rút quân về Phú Xuân. Giao cho Đại đô đốc Lê Văn Hưng giữ thành Hoàng Đế, Đại Tư Lệ Lê Trung vẫn giữ của Thị Nại. Các tướng Đoàn Văn Cát, Hồ Văn Tự đem quân vào trợ giúp Nguyễn Quang Huy giữ Phú Yên, Từ Văn Tú, Hàn giữ …… Sai Hồ Văn Hố và Nguyễn Văn Thiêm đem quân giữ Quãng Ngãi để đề phòng.
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/12/10
  9. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi ?????

    Đắp Diên Thành, Đặng Trần Thường bàn kế thủ
    Dựng Lương trạm, Lê Văn Duyệt liệu chỉnh quân


    Nhắc lại quân Gia Định theo đường thủy rút lui về nam. Bộ binh vây thành Quy Nhơn và giữ Cung Quăng đều theo của Thị Nại rút lên thuyền để về. Hai tướng Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương đem thủy quân đi đoạn hậu. Trên bộ Tôn Thất Hội đem quân về giữ Phú Yên, Huỳnh Tường Đức đem quân giữ đường đất La Thai, Nguyễn Long giữ thượng đạo Thạch Thành. Lại khiến hai tướng Vũ Văn Lượng, Nguyễn Văn Nhân đem chiến thuyền về giữ hạ đạo Vũng Áo. Tất cả bọn Huỳnh Tường Đức, Nguyễn Long, Vũ Văn Lượng, Nguyễn Văn Nhân điều thuộc quyền điều khiển của Tôn Thất Hội.

    Thủy binh Gia Định xuống cửa Thị Nại ra bể về cửa Xuân Đài. Bấy giờ các tướng Phú Xuân đều lo dồn quân về cứu thành Hoàng Đế nên không đem thủy quân đuổi theo. Nguyễn Vương truyền các đạo thủy quân lui thuyền về đóng ở cửa biển Nha Phu. Thấy đất Diên Khánh trống trải bèn sai quân đắp bảo đồn Mông Phụ [Gò Xoài] để làm thế ỷ dốc cho thành Diên Khánh, chống đở mặt bể. Sai Nguyễn VĂn Thành đem quân bộ binh ở lại giữ đồn Mông Phụ.

    Tham mưu Đặng Dĩnh Siêu cho Nguyễn Long làm tướng ở thượng đạo phải giao thiếp nhiều với các tộc Chàm, Vạn Tượng, Miên. Bèn xin Nguyễn Vương phong cho Nguyên Long làm Thượng đạo tướng quân, quyền Khâm sai, định kỳ hàng tháng báo cáo công việc về Gia Định còn việc quân vẫn theo tiết chế điều khiển của Tôn Thất Hội.

    Bấy giờ Nguyễn Vương truyền các tướng lập trại nghỉ ngơi nơi Diên Khánh rồi đem các tướng đi xem địa thế các tướng. (Vũ Văn Lượng) thuật lại trận đánh bảo Hoa Bông, Nguyễn Vương cả khen gọi Võ Văn Lượng là Đảm tướng quân. Đặng Trần Thường tâu:
    - Nay Diên Khánh đã định. Nhưng bọn Phạm Công Hưng tất sẽ theo gió lại vào. Nay ta cứ tính kế thủ chắc chắn rước đã.

    Nguyễn Vương nói:
    - Ta đã sai Nguyễn Văn Thành đắp bảo Mông Phụ và đóng quân ở đó. Ở Diên Khánh cũng sai một viên đại tướng cầm quân trấn giữ nương tựa lẫn nhau. Thế vẫn chưa đủ sao?

    ĐẶng Trần Thường tâu:
    - Phép giữ đất là lấy thành trì làm trọng. Ngày ngày xuất chiến, đêm về đóng cửa thành nghỉ ngơi. Nếu quân thế yếu hơn thì cứ thành cao hào sâu, lấy một chọi mười để tiêu hao sức địch. Nay Diên Khánh là nơi trọng địa nếu gặp lúc ngược gió, thủy quân chưa kịp đến cứu thì thành đã bị vây. Mà đường bộ cũng chưa chắc đã thông. Chi bằng sẳn sức quân, đắp luôn một thành đất ngay tại Diên Khánh này để làm nơi chặn địch. Khiến cho bốn trấn ở Gia Định được yên mà bọn Nguyễn Nhạc, Quang Toản phải ngày đêm lao lực.

    Nguyễn Vương suy nghĩ hồi lâu rồi khen:
    - Cách ấy rất hay. Nhưng nay quân mới đi đánh trận về đang lao khổ. Lại bắt sai đắp thành đất chỉ sợ lòng quân oán thán.

    Đặng Trần Thường tâu:
    - Việc ấy thần đã có chủ trương.

    Bèn mạng phép Nguyễn Vương, thảo tờ hịch lấy dân Thuận Thành và Bình Thuận đắp một thành đất ngay tại vị trí đồn Hoa Bông lấy tên là Diên Khánh thành. Thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, mở sáu cửa, đông và nam đều một cửa, tây và bắc đều hai cửa, trên cửa có lầu, bốn góc có cồn đất) theo kiểu thành Phiên An do xxxx vẽ. Lại sai người đi sắm và đúc khí cụ, đại bác lắp trên mặt thành. Phàm những người tham gia đắp thành đều được miễn cho thuế giao dịch năm ấy.

    Thành đắp xong, Nguyễn Vương đích thân đem các tướng đến xem xét. Đoạn vổ vai Võ Văn Lượng hỏi:
    - Bây giờ cho người đem quân đánh thành liệu có chắc thắng như trước không?

    Vũ Văn Lượng đáp:
    - Nếu không có quân số gấp 10 lần, kèm đại bác, than lâu yểm trợ, thần e không dể hạ được.

    Nguyễn Vương cười lớn nói:
    - Văn có Đặng Dĩnh Siêu, Ngô Tòng Châu, Đặng Trần Thường. Võ có Tôn Thất Hội, Huỳnh Tường Đức, Nguyễn Văn Thành, Vũ Văn Lượng, Nguyễn Đình Đắc các ngươi, ta còn sợ gì Tây Sơn nữa.

    Các tướng đều cười. Chợt có tiếng người phía sau nói khẽ:
    - Thành tuy chắc nhưng chưa phải là kế toàn bị.

    Mọi người đều quya lại nhìn. Thì ra người ấy là Nội thuộc Cai cơ Lê Văn Duyệt thường theo hầu Nguyền Vương. Nguyễn Vương cười, chỉ Lê Văn Duyệt nói với các tướng:
    - Hắn cũng là một tay anh tài. Để xem hắn có cao kiến gì không?

    Lê Văn Duyệt đáp:
    - Phàm thủ thành lấy tường cao hào sâu, binh quy nghiêm chỉnh làm chính. Nhưng ngoài ra còn phải chứa đủ quân lương để thủ, cứu binh kịp thời thì mới có thể biến nguy thành an, chuyển thủ thành công để mưu thắng được.

    Đặng Trần Thường nhảy xuống ngựa nói:
    - Ý của ông tôi đã hiểu.

    Bèn lấy roi ngựa vẽ luôn sa bàn trên đất. Từ Diên Khánh đến Phiên An, Trấn Biên, Trấn Định, tất cả bốn trấn thành, mười điểm dinh trạm chứa quân lương và trạm lưu tinh. Đặng Trần Thường vẽ đến đâu, miệng giải thích đến đó, chổ nào chứa lương, chổ nào đặt trạm, địa thế hiểm yếu tả, hữu, trước, sau nói ra một lược. Các tướng không ai là không thán phục.

    Nguyễn Vương cũng xuống ngựa, cười lớn:
    - Hai người thật là người tài trời ban cho ta. Xưa Hàn Tín câu cá mà nghiềm ngẫm binh thư, Đặng Ngãi giữ trâu mà học chiến pháp, chắc cũng đến như hai ngươi mà thôi.

    Các tướng cũng đáp lễ:
    - Đó cũng toàn nhờ hồng phúc của chúa thượng.

    Bèn sai Đặng Trần Thường và Lê Văn Duyệt đốc thúc các bộ lập dinh trạm liền lạc. Các trạm đó là Bào Lạp 1 nhà trạm, Cựu Dinh 1 nhà trạm, 1 kho tạm chứa 1.000 phương gạo, Y Na 1 nhà trạm, dinh Bình Thuận 1 nhà trạm, 1 kho tạm chứa 500 phương gạo, Vị Nê 1 nhà Trạm, Phan Thiết 1 nhà trạm, Ma Li 1 nhà trạm, 1 kho tạm chứa 500 phương gạo, Phù Mi Thượng 1 nhà trạm, Xích Lam 1 nhà trạm, Hưng Phúc 1 nhà trạm, 1 kho tạm chứa 1.000 phương gạo. Lại sai các tướng bộ quân, thủy quân đem quân tuần tiểu để đề phòng gian tế Tây Sơn. Lại sai các trấn ven biển cho thủy binh tuần tiểu mặc bể đề phòng quân Tây Sơn.

    Đoạn sai Võ Tánh đem hàng binh và quân chiến thương đi thuyền về trước Gia Định, sai Cai bạ Nguyễn Y Mân hiệp theo Nguyễn Văn Thành để biện lý các việc ở dinh. Rồi đem các tướng xuống thuyền về Gia Định, cởi giáp nghỉ ngơi.

    Đầu thu, các tướng Tây Sơn đem quân vào đóng ở địa đầu Phú Yên. Đại tướng giữ Tiền quân Tôn Thất Hội dâng biểu về nói : “Nay đương mùa thu, mưa lũ kéo dài, nước sông Đà Diễn chảy gấp, sợ quân Tây Sơn lấn vào, tiến thoái đều khó, xin cho đem quân lùi về sông Bàn Thạch để đóng”.

    Nguyễn Vương hay tin quân Quy Nhơn lại chuẩn bị vào lấn đánh, lại được biểu báo của Tôn Thất Hội thì mắng
    - Hắn thân làm Đại tướng, đóng giữ nơi địa đầu. Nay chưa gặp địch đã muốn rút lui, há không phải hổ thẹn lắm sao?

    Đặng Dĩnh Siêu:
    - Ấy là Tiền quân muốn học theo thói của Tư Mã Trọng Đạt khi xưa đấy?

    Nguyễn Vương hỏi ý là như thế nào. Đăng Dĩnh Siêu thủng thẳng đáp:
    - Xưa thời Hán mạt, Vũ Hương Hầu Gia Cát Lượng đem quân Tây Thục đánh ra Trường An của Bắc Ngụy. Đại Đô Đốc Bắc Ngụy là Tư Mã Trọng Đạt cầm binh chống giữ ở đất ấy. Bây giờ dưới trướng của Trọng Đạt nhiều người cậy thế, không chịu theo quân lệnh, cố xin ra đánh. Trọng Đạt mới sai người đem biểu về triều xin cho quân ra đánh. Ngụy đế không hiểu ý ra sao, Thượng thư Trần Quần mới nói đã là kế của Trọng Đạt muốn xin chỉ dụ để yên lòng tướng sĩ. Ngụy Đế hiểu ra, bèn ban chiếu cấm ra đánh, lại cho phép Trọng Đạt được tiền trãm hậu tấu để yên lòng tướng sĩ. Nay Tiền quân Tôn Thất Hội cũng đã được ban quyền Khâm sai, nhưng cố dâng biểu cũng là ý như thế

    Nguyễn Vương nghe ra bèn cười:
    - Nếu không có ngươi nói, ta đã trách nhầm người.

    Bèn sai Đặng Trần Thường đem chiếu dụ ra trấn Phú Yên trao cho Tôn Thất Hội. Tôn Thất Hội triệu toàn tướng sĩ đến hành dinh rồi nhận chiếu dụ thấy đại ý nói:
    “Hiện nay đối với Xã Tắc và nhân thần, mối lo của ta tức là mối lo của khanh vậy. Đất Phú Yên là nơi đứng mũi chống giặc, được khanh ở đó ta mới yên lòng. Thế mà khanh là đại tướng trấn nơi trọng yếu, thấy giặc nhòm ngó mà đã sợ không dám tiến, lại vô cớ muốn lui quân, chẳng phải là tự mình tỏ ra hèn yếu để cho giặc cười sao. Huống chi thượng đạo thì có Nguyên Long, hạ đạo thì có Nguyễn Văn Nhân, đủ giúp đỡ nhau. Nếu giặc đến mà chống không nổi, bấy giờ lui cũng chưa muộn. Nay nếu sợ giặc mà muốn lánh thì đem đầu về hiến, tự có tướng khác thay ngay. Ta nghe ở trong quân của khanh có kẻ ngày đêm say mềm, nếu quân giặc biết, há chẳng hỏng việc ư ? Lại nghe có quân sĩ xuống làng cướp phá, không ngăn cấm được, lỗi ấy ở ai ? Phép đáng trị nặng, nhưng e người ta bàn tán nên hãy tạm tha. Từ nay phải nghiêm thêm tướng lệnh mà giữ yên lấy dân trong hạt, cũng như Doãn Đạc(1) nước Triệu giữ đất Tân Dương, á Phu(2) nhà Hán đóng đồn Tế Liễu, để xứng với trách nhiệm được ủy thác”.

    Lại ban cho Tôn Thất Hội một cái áo chiến, cây kiếm báu, được phép tiền thảm hậu tấu. Các tướng đều được ban một cái áo chiến. Chúng tướng dưới quyền thấy vậy đều kinh sợ, cảm tạ, từ đấy về sau không ai dám bàn đến chuyện lui binh.

    Chiếu đọc xong rồi, Tôn Thất Hội bèn mời Đặng Trần Thường vào vào hậu trướng nghĩ ngơi. Rượu được vài tuần, Tôn Thất Hội ướm lời hỏi:
    - Chẳng hay cái chiếu ấy do ai thảo vậy?

    Đặng Trần Thường cười đáp:
    - Đấy là của Tham tri hình bộ Đặng Dĩnh Siêu chắp lời cho chúa thượng.

    Tôn Thất Hội cũng cười:
    - Ta tài không bằng Trọng Đạt nhưng Đặng Tham tri vị tất đã kém Trần Quần.

    Tiệc xong, Đặng Trần Thường bái tạ ra về. Tôn Thất Hội bèn nhờ Đặng gửi lời cám ơn cho Tham tri Hình bộ Đặng Dĩnh Siêu.

    Bấy giờ Tướng Thượng đạo Nguyễn Long sai quân đuổi giết Ông Tá. Ông Tá sợ chạy vào tận các man sát Vạn Tượng. Bọn Man trưởng các động Đồng Hương phủ Bình Khang đến hành tại bái yết. Tiền quân Tôn Thất Hội bèn ban cho y phục, cho trở về lệ theo Cai cơ Nguyễn Văn Quế về thượng đạ, tập họp dân Man để đặt đồn phòng giữ.



    update hồi trước: post #6

    Ngụy Đế Tào Phương, chú nào tra giùm anh cái danh hiệu cụ thể là Ngụy ... Đế giùm với., Xem cái đoạn chém gió này ok không?
     
    Chỉnh sửa cuối: 11/12/10
  10. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi ????

    Học Vũ Hầu, Ngô Tòng Châu dụng kế
    Noi Thái Giáp, Đông cung Cảnh cầm binh


    Nguyễn Vương về Gia Định thấy quân cấm vệ túc trực đi đánh đã lâu, bèn hạ chỉ cho phép nghỉ ngơi. Nội thuộc cai cơ là Lê Văn Duyệt can:
    - Cấm quân túc vệ là quân mạnh, thường xông pha nơi tên đạn, đạp gai góc mà tiến. Nếu cho họ nghĩ ngơi thì thành thói an nhàn, sinh ra trễ nãi.

    Nguyễn Vương đáp:
    - Họ theo ta đánh trận đã mấy năm, nếu không cho nghỉ ngơi thì lâu lòng quân cũng oán, có kẻ nhớ nhà cũng chống lệnh mà bỏ về.

    Ngô Tùng Châu bèn hiến kế:
    - Việc quân xưa này chỉ cần tinh chứ không đông, Nếu lòng quân hăng hái thì một có thể địch trăm người. Nay hãy học theo cách của Vũ Hầu khi trước, chia cấm quân làm hai phiên, bán nguyệt cứ thay nhau nghỉ ngơi. Còn đền kỳ xuất chinh thì cứ theo tình hình mà điều bát.

    Nguyễn Vương và Lê Văn Duyệt đều khen kế ấy, bèn lệnh cho các vệ Cấm quân chia phiên nghỉ ngơi, đến hạn lại vào doanh ngũ. Quân Ngũ dinh cũng theo phép ấy để làm nhưng thời hạn thay phiên là một tháng. Ba quân ai nấy đều hớn hở tạ ơn.

    Nguyễn Vương thấy Lê Văn Duyệt có tài cầm quân, có nhiều chước sách bèn thăng từ Nội thuộc Cai cơ lên chức Nội thuộc Vệ úy, nắm giữ Cấm quân, vẫn cho lưu dùng dưới trướng để bày mưu. Lại thấy Nguyễn Đức Xuyên, Trần Bá Huy có tài chỉ huy, xông trận dũng mãnh bèn thăng cho Nguyễn Đức Xuyên, Trần Bá Huy từ Nội thuộc Cai cơ lên chức Vệ úy và Phó Vệ úy cùng trông giữ cấm quân.

    Huỳnh Tường Đức trấn giữ Bình Khang, Nguyễn Văn Thành trấn giữ Diên Khánh dâng sớ về xin tuyển thêm quân để đề phòng Tây Sơn. Nguyễn Vương cho phép kén phủ binh ở hai trấn ấy. Ngô Tòng Châu can:
    - Phép phủ binh dùng cho thời bình thì hợp. Nay hai trấn ấy là chốn địa đầu. Lòng người chưa theo hẳng. Phép phủ binh tuy được đông quân nhưng lính không phải là tâm chiến, chỉ rối việc binh. Chi bằng cứ kén hương binh, để yên cho dân chúng làm ăn. Trăm họ thấy ta có đức, tất thể theo về.

    Nguyễn vương theo lời bèn lệnh cho hai trấn kén hương binh tập luyện, lại tìm người có tài để quản việc quân. Bọn Nguyễn Tử Châu, Nguyễn Kỳ Kế, Trần Phúc Châu đều được bổ nhiệm trông coi Binh bộ, theo liệu việc quân.

    Hàng quân Lục đạo ở Quảng Ngãi theo về khá đông, bèn sai Trịnh Quang Chiêu làm trưởng hiệu để quản suất, đổi quân Lục đạo làm dinh Quảng Võ thuộc vào Trung quân điều bát. Quảng Võ dinh gồm ba đạo là Trung võ, Tả võ, Hữu võ.

    Nguyễn Văn Thành bấy giờ đã thay Huỳnh Tường Đức về giữ thành Diên Khánh. Nguyễn Vương muốn bàn việc binh bèn bí mật triệu Nguyễn Văn Thành về Gia Định, lại có ý tìm một tướng trông coi Diên Khánh. Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh cũng đã đến tuổi cầm quân, trước đã thay Nguyễn Vương giữ Gia Định, xin đi. Nguyễn Vương mừng lắm dụ: “Đất Diên Khánh bốn mặt đều là chiến trường, dân chúng lầm than. Ta ngày đêm vất vả, nếm đủ đắng cay mới giành được miếng đất ấy. Ngươi nên chuyên tâm, trong giữ yên dân, ngoài lo chống giặc, để đáp tấm lòng mong mỏi của dân chúng,khiến quân giặc phải sợ. Phải gắng làm như chính ta trông thấy”. Lại nói : “Đế vương từ xưa chưa ai là không học. Thế cho nên Thái Giáp làm được cháu hiền của vua Thang, Thành Vương làm được vua giỏi của nhà Chu, cũng đều nhờ học mà nên đức. Ngươi khi việc binh nhàn rỗi nên vâng theo sư phó, siêng đọc kinh sách, khiến cho sự học được sáng tỏ, nghiệp đức được tiến lên. Đến như đối với kẻ thuộc hạ xung quanh thì nên gần người ngay thẳng, tránh xa kẻ gian tà, thế mới gọi là sáng suốt biết người. Nên nhớ lấy

    Xưa Thái Giáp là cháu nội của Thành Thang nhà Thương, được Y Doãn lập lên ngôi. Thái Giáp vô đức, chơi bời phóng túng không lo trị nước. Y Doãn mới họp các quan, tuyên cáo nơi Thái Miếu rồi phế Thái Giáp, đày ra Đổng Cung nơi lăng miếu của Thành Thang để tự rèn dũa. Sau ba năm, Thái Giáp tu tâm, sửa đức, Y Doãn mới đón về, tái lập làm vua trở thành minh quân.

    Thành Vương nhà Chu tên Cơ Tụng là con của Chu Vũ Vương Cơ Phát. Khi Vũ Vương mất, Thành Vương nối ngôi tuổi còn đương nhỏ. Chu Công (Chu Công Đán) là chú lao động đường phố giúp. Chu Công Đán chỉnh trang nội trị, đánh dẹp phản loạn khiến cho bốn phương đều thái bình, thiên hạ vô sự. Sau Thành Vương nghe lời dèm, nghi kỵ Chu Công Đán. Chu Công Đán lui về ở ẩn ở đất Sở. Sau Thành Vương mở rương thư của Chu Công Đán, thấy các biểu chương ,tấu biểu ghi chép của Chu Công, lời lẻ thống thiết, mưu sự ngay thẳng mới biết mình lầm, lòng rất hối hận. Bèn đi đón Chu Công Đán về triều phong làm Thái sư, cùng phụ giúp triều chính, tạo ra thời thịnh trị của Tây Chu.

    Bèn thăng Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh làm Nguyên soái tước Quận Công, cho Phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân, Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm theo giúp đỡ Đông cung, định nghiêm tướng lệnh, ai không tuân mệnh thì chém. Lại khiến hai tướng Mạc Văn Tô Lưu thủ Trấn Định, Nguyễn Đức Thành Lưu thủ Tân Châu cùng các tướng sĩ đi theo để điều bát. Bá Đa Lộc và các Thị học đều đi theo để hầu giảng. Các Thị giảng ấy là Hàn Lâm viện Chế cáo Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định. Đương thời ba người xxx đều được gọi là Gia Định tam kiệt, đều là học trò của xử sĩ Võ Trường Toản.

    Bấy giờ các đại tướng các dinh quân ngoại trừ Nguyễn Văn Thành đã về còn lại điều đang cầm binh trú đóng bên ngoài. Nguyễn Vương bèn sai người chạy trạm, triệu các tướng Tôn Thất Hội, Huỳnh Tường Đức về, lại sai người đi gọi Võ Tánh từ xxx. Mưu sĩ thì có Đặng Dĩnh Siêu, Ngô Tòng Châu, Đặng Trần Thường, Nguyễn Tử Châu. Lê Văn Duyệt coi Cấm quân cũng dự bàn việc binh.

    Đông cung Nguyên soái Nguyễn Phúc Cảnh đến Diên Khánh liền sai hai tướng Mạc Văn Tô và Nguyễn Đức Thành đi Phú Yên trù tính việc quân. Bấy giờ Tôn Thất Hội đã giao lại quyền cho Đông Cung điều bát, Phú Yên do Vũ Văn Lượng, Nguyễn Long và Nguyễn Văn Nhân trấn giữ. Nguyễn Văn Nhân làm Lưu thủ Phú Yên đóng giữ đồn chính, lập trại ở đấy. Nguyễn Long thì đem quân giữ các đường thượng đạo, liên kết với sách Man. Vũ Văn Lượng thì đem quân các vệ ra đóng nơi địa đầu Phú Yên giáp ranh với Tây Sơn để phòng bị. Nguyễn Văn Nhân bèn xin thêm Diên Khánh quân số để lập đồn nơi các đường trọng yếu. Đông cung Nguyên soái bổ Nguyễn Văn Tánh về làm Lưu thủ Bình Thuận, còn Trần Văn Bô làm Lưu thủ Trấn Định thay cho Mạc Văn Tô theo việc quân.
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/12/10
  11. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi ???:

    Lê Thống tướng định kế lấy Phú Yên
    Đông Nguyên soái trù mưu giữ Bình Thuận






    Ai rãnh thì đọc Phi Lộ ở post đầu nhé!
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/12/10
  12. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi ????

    Lễ Hiến Phù, danh tướng thành thần
    Nghị Văn Miếu, văn sĩ giữ tiết


    Đại cuộc đã định, cựu thù quét sạch. Gia Long Đế Nguyễn Phúc Ánh sai Đô thống chế dinh Túc trực Nguyễn Văn Khiêm, Tham tri Hình bộ Nguyễn Đăng Hựu áp giải vua tôi nhà Tây Sơn là Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản, Nguyên soái Nguyễn Quang Thiệu, Thái Tể Nguyễn Quang Duy, Khang Công Nguyễn Quang Bàn, ra cửa Bắc Môn xử lăng trì cho ngũ tượng phanh thây rồi bêu đầu bố cáo cho thiên hạ. Lại khiến quân đào hài cốt của Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc, Quang Trung Đế Nguyễn Huệ đem hài cốt giã nát còn đầu lâu của Nhị Đế thì đem giam vào Nhà đồ Ngoại, sau đổi là Võ Khố để cấm cố vĩnh viễn. Lại đem các tướng lãnh hiệt kiệt nhà Tây Sơn là Thiếu phó Trần Quang Diệu, Đại Tư Đồ Võ Văn Dũng, Đô Thống Tướng Lê Văn Hưng, Tư Mã Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ, Đô đốc Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Mân và các tướng lĩnh khác đem chém bêu đầu, rồi bố cáo với thiên hạ:

    Chiếu rằng : “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu (1); thương muôn dân mà đánh giặc là lòng nhân của vương giả. Truân hanh (2) mới rõ công to ; hoán hãn(3) để ban hiệu lệnh. Nhà nước ta, Tống Sơn đúc khí thiêng, Gia Miêu gây điềm tốt. Từ Tiên vương cả gây nền lớn, nhân hậu một mạch cùng truyền. Đến Liệt thánh vâng nối công to, thái bình hai trăm năm lẻ. Chợt nửa chừng gặp lúc gian truân, để ngoan dân gây nên biến loạn. Chiếm giữ thành ấp ta ; tàn ngược sinh dân ta. Từ Nhạc, Huệ về sau, đến Quang Toản về trước, chứa tội ác không phải một ngày ; Từ Thuận Quảng vào Nam, đến Linh Giang ra Bắc, gây tai họa khắp cả mọi phương. Trẫm nghiến răng vì thù nước, đau ruột bởi ách dân. Dời đổi không thường há như Thiếu Khang nhà Hạ ở Hữu Nhưng (4) ; Lo lắng phục hồi, còn hơn Quang Vũ nhà Hán ở Bạch Thủy (5). Bởi trời muốn thử thách để trao mệnh lớn, nên trẫm phải ẩn nhẫn để chờ thời cơ. Vận hội lúc đã đến trung hưng. Quân đánh dẹp ngày càng chỉnh đốn. Năm Mậu thân mới từ Xiêm La trở về Gia Định. Năm Kỷ mùi tiến lấy Quy Nhơn ; năm Tân dậu đánh được Phú Xuân. Bọn giặc vội vàng ; một ngựa bỏ chạy. Từ đó, Hoành Sơn một giải, cõi xưa thu về. Duy còn giặc Diệu quân cô, lũy cũ vẫn đóng. Nghĩ trừ ác trước nên trừ mống, mà căm thù ta phải mài gươm. Quân giáp đánh vừa qua lũy mạnh, giặc trốn đi bỏ mất thành Bàn. Nó đã nhụt khí phải chạy đêm, ta bèn đem quân đánh ra Bắc. Tháng 5 năm nay ta đem đại chúng thẳng vượt sông Gianh. Theo gió phóng lửa, mạnh tựa đốt lông ; hẹn ngày thành công, dễ như chẻ trúc. Các đạo Hoan ái, chốc đã phá tan. Giặc Diệu giặc Dũng, cùng đường sa hố. Thẳng một lối sấm vang chớp giật ; khắp mọi thành ngói lốc tro bay. Giống giặc bắt xong ; tội nhân được hết. Mây tối quét sạch, cả gầm trời bờ cõi sáng trong ; ngựa bay khải hoàng bao sông núi đầy đường tươi đẹp. Đó thực là nhờ được Trời cao giúp đỡ, chín miếu (6) thiêng liêng, các tướng gắng công, ba quân đua sức, nên mới được thế. Ngày mồng 6 tháng này, tế cáo Trời Đất ; ngày mồng 7 yết tế Thái miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ ; Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng. Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân. Ôi ! Tàn tặc dẹp yên, đã thành công đại định ; xa thư một mối, hưởng chung phúc thái bình”.

    1. Kinh Xuân Thu: Thời Đông Châu Liệt Quốc, Tề Ai Công Khương Bất Thần làm vua nước Tề. Vua nước Kỷ dèm pha với thiên tử nhà Châu khiến Chu Đế bắt Tề Ai Công bỏ vào vạc dầu sôi giết chết. Cháu chín đời của Tề Ai Công là Tề Tương Công Khương Chư Nhi vì mối thù của tiên tổ mà đánh nước Kỷ, bắt vua nước Kỷ là Kỷ Ai Công Át Lộ đem giết. Sau khi nước Tề đánh nước Kỷ, nước Kỷ còn tồn tại thêm hai đời nữa trước khi bị nước Sở diệt. (Khương Thị làm vua nước Tề là dòng dõi của Khương Thượng – tự Tử Nha, công thần lập quốc của nhà Châu)

    2. Truân hanh: Trải qua khó nhọc mà đến thành công là quẻ truân mà đến hào hanh.

    3. Hoán hoãn: Chỉ hiệu lệnh của vua

    4. Thiếu Khang dòi dõi vua nhà Hạ. Nhà Hạ truyền được ba đời thì bị Hậu Nghệ cướp ngôi. Thiếu Khang phải chạy qua nước Hữu Nhung lánh nạn rồi thu thập binh mã, phục hưng lại nhà Hạ

    5. Nhà Tây Hán truyền được 12 đời thì bị Vương Mãn cướp ngôi lập ra nhà Tân. Dòng dõi nhà Hán là Lưu Tú dấy binh ở Bạch Thủy đánh Vương Mãn, dẹp loạn chư hầu cát cứ, lập nên nhà Đông Hán, xưng đế hiệu Quang Vũ.

    6. Chín miếu ở đây là miếu thờ chín đời chúa Nguyễn trước Gia Long.


    1. Tiên Vương Nguyễn Hoàng (1558-1613);
    2. Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635);
    3. Thượng Vương Nguyễn Phúc Lan (1635-1648);
    4. Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687);
    5. Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (1687-1691);
    6. Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725);
    7. Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738);
    8. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765);
    9. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777)


    Thiếu phó Trần Quang Diệu có mẹ già tám mươi tuổi bị bắt. Chư thần cho rằng Trần Quang Diệu khi hạ thành Quy Nhơn, tha không giết tướng sĩ trong thành, lại lấy lễ hậu tánh Đại tướng quân Hậu dinh Võ Tánh và Lễ Thành Hầu Ngô Tòng Châu, tội chết không tha nhưng có thể giảm nhẹ. Bèn sai tha chết cho mẹ của Trần Quang Diệu, giảm Trần Quang Diệu từ lăng trì xuống chém ngang lưng. Mẹ của Thiếu phó Trần Quang Diệu sau đó vì thương con mà cũng quyên sinh chết theo.

    Đô đốc Bùi Thị Xuân cùng đứa con gái nhỏ cũng bị xử lăng trì ngũ tượng phanh thây. Gia Long Đế sai người dẫn Bùi Thị Xuân đến trước điện hỏi:
    - Ta so với Nguyễn Huệ ai hơn?

    Bùi Thị Xuân khẳng khái trả lời
    - Tiên Đế ta cờ đào dựng nghĩa, tay cờ tay kiếm mà dựng nên nghiệp lớn. Ngươi bị Tiên Đế đánh cho không còn manh giáp, trốn chui chốn nhủi, phải đi cầu viện ngoại bang, kết Xiêm đến Tây dương làm tan nát cả nước. Đem ngươi mà so với Tiên Đế của chúng ta thật là đem vầng Thái Dương so với đom đóm mà thôi.

    Gia Long tức giận quát:
    - Ngươi tự phụ là có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Quang Toản?

    Bùi Thị Xuân hiên ngang đáp:
    - Nếu như có một nữ tướng nữa như ta thì cửa Nhật Lệ dễ gì trống lạnh. Nhà người khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà.

    Gia Long Đế tức giận sai quân đem mẹ con Bùi Thị Xuân hành hình. Người con gái thấy voi sợ hãi khóc thét lên. Bùi Thị Xuân mắt nhòe lệ nói:
    - Con nhà tướng không được sợ hãi.

    Cai tượng thúc voi đế hành hình Bùi Thị Xuân, nguyên con voi này là của bà từng huấn luyện, nhân ra chủ cũ, chần chờ không tiến. Cai tượng dùng búa đánh thúc voi tiến lên, vật cũ nhớ chủ xưa ứa nước mắt phải tiến. Cả hai mẹ con đều mất.

    Vân Sơn Thi sĩ Nguyễn Trọng Trì đời sau có thơ khen:

    Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao
    Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào
    Hoàng hôn thành dốc bi già động
    Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều
    Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc
    Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc
    Thùy ngôn cân quắc bất như nhân ?
    Dĩ cổ phương kim tam đinh túc


    Nghĩa là:

    Khí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra.
    Gió xuân thổi máu bay thẩm đẩm tấm chinh bào
    Nơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn
    Có người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung
    Thật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân.
    Và nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà
    Ai bảo khăn yếm không bằng người ?
    Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc


    Lại có thơ khen:

    Vận nước đang xoay chuyển
    Quần thoa cũng vẫy vùng
    Liều thân lo cứu chúa
    Công trận quyết thay chồng.
    Khảng khái khi lâm nạn!
    Kiên trinh lúc khốn cùng
    Ngàn thu gương nữ liệt
    Gương sáng hãy soi chung.


    Đại Tư Đồ Võ Văn Dũng hiên ngang ra pháp trường. Vân Sơn Thi sĩ Nguyễn Trọng Trì đời sau có thơ khen:

    Tạo vật khốn hào kiệt
    Y tương sử hữu vi
    Công danh vị túc ngôn
    Hoặc tác xuất thể ty (tư)
    Võ công dũng quán quân
    Bách chiến khởi Tây thùy
    Thiên phương yểu trung nguyên
    Ðãi phi nhất mộc chi
    Thoát thân tứ thập niên
    Thế nhân thức công thùy
    Ðản kinh sơn thạch gian
    Hữu thử hùng báo ty (tư)
    Ngã diệc chí phương ngoại
    Bạch đầu vị phùng sư
    Niên niên hạnh thế phóng
    Thảng toại dữ thế từ
    Tùng công du Ngũ Nhạc
    Khể thủ thôn linh chi
    Kim cốt hoán lục tủy
    Khiêm nhiên tùng sao phi


    Nghĩa là:

    Tạo hóa làm khốn đốn kẻ hào kiệt
    Ý muốn cho họ làm một việc gì.
    Công danh không đủ nói,
    Hoặc giả bày ra cơ hội để họ thoát đời.
    Cái dũng của Võ công thật quán quân,
    Từ biên giới phía Tây nổi lên, trăm trận trăm thắng
    Nhưng trời muốn dứt nửa chừng
    Thì một cây không chống nổi.
    Thoát mình khỏi nạn ngót bốn mươi năm
    Người đời ai biết ông?
    Sống lâu ngày trong nơi núi vây đá chất
    Ông có tư thế mạnh như gấu như hùm
    Tôi cũng có ý muốn xuất thế,
    Nhưng đã bạc đầu mà chưa gặp được thầy.
    Làm quan may được đuổi về
    Năm năm rảnh rang
    Muốn thoát khỏi cuộc đời
    Theo ông đi dạo chơi khắp năm ngọn núi Tiên
    Cúi đầu ăn cỏ linh chi,
    Xương vàng đổi tủy xanh
    Nhẹ nhàng bay theo sóng tùng


    Đại Thống Tướng Lê Văn Hưng khẳng khái đón lấy cái chết. Các tướng Tư Mã Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ, Đô đốc Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Mân cùng mấy chục tướng lĩnh khác đều thành thần.

    Gia Long Đế Nguyễn Ánh vẫn chưa hả hết giận còn sai người quật hết mồ mã của của họ Hồ ở Tây Sơn lên, yểm bùa, rồi lấy hài cốt quăng xuống vực. Tận diệt hết thân tộc của các anh em nhà Tây Sơn và tướng lãnh, cho san phẳng mồ mã vua tôi nhà Tây Sơn để người đời sau không còn tiếc nhớ. Nhiều gia đình tướng lĩnh Tây Sơn phải đổi họ, trốn tránh đi nơi khác để tránh họa diệt tộc. Phàn tất cả những thư tịch, ấn chương của nhà Tây Sơn đều sai người tịch thu hết, hủy biếm đi để hậu thế khỏi lưu luyến.

    Thi sĩ Lê Triệu đương thời ấy có thơ khen nhà Tây Sơn:

    Trấp niên sất sá tẩu phong vân
    Như thử anh hùng cổ hãn văn
    Hàm Dã độc Lưu thiên vạn cốt
    "Khuân Sơn" hoạ tại bách niên phần
    Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận
    Cô phụ đường đường bát xích thân
    Quang cảnh nhất ban thành phấn mị
    Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần!


    Bản dịch của Hồng Phi:

    Bao năm gào thét át phong vân
    Đủ thấy anh hùng bậc vĩ nhân
    Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác
    "Khuân Sơn" phần mộ hoạ trăm năm
    Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận
    Nỡ phụ đường đường tám thước thân
    Quang cảnh thảy đều thành cát bụi
    Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần


    Doanh Tần: tức Tần Thủy Hoàng Đế Doanh Chính. Ý chê Gia Long tàn ác như Tần Thủy Hoàng.

    Ấp Tây Sơn, nơi phát tích của triều Tây Sơn bị đổi tên thành An Tây, sau lại đổi thành An Sơn. Dân chúng trong vùng vì thương cảm anh em nhà Tây Sơn bèn lén dựng miếu thờ rồi đưa vào trong miếu Hoàng Thành của làng để thờ cúng. Hàng năm cứ đến đầu xuân lại thắp hương cúng tế, về sau quan lại trong vùng tuy có biết nhưng cũng chỉ răn đe cho qua chuyện mà thôi.

    Võ Khố chứa thủ cấp của Nhị Đế trong Tử Cấm Thành bị khóa chặt, định kỳ theo dõi. Binh lính và tù nhân bị giam trong ngục cũng rất sợ linh uy, thường thắp hương khấn vái, kính cẩn gọi là Ông Vò.

    Người người đều sợ, ai cũng nớp nớp họa sát thân. Chư tướng cùng các mưu thần mới xin Gia Long nới bớt hình phạt để yên lòng dân chúng. Gia Long Đế bèn ra chỉ dụ cho phép ngụy quan (chỉ các quan lại tướng tá nhà Tây Sơn) ra thú đều được miễn tội chết. Một số người vì gia quyến phải chịu ra thú để yên lòng gia quyết, nhiều tướng lĩnh bất phục đi ẩn tích như Nội Hầu Phan Văn Lân, Thái Phó Đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Quang Huy, Phạm Cần Chánh, Lê Sĩ Hoàng. Một số tướng khác còn tụ quân đánh mãi các mạn Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hải Dương khiến nhà Nguyễn phải ra tay đánh dẹp thêm mấy năm.

    Bấy giờ ĐẶng Trần Thường bắt được các mưu thần của nhà Tây Sơn ở Bắc Hà là các Thượng thư Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan đem về xử. Đại ý nói: “Bọn Nhậm thân làm tôi nhà Lê mà cam tâm theo giặc, bày lời nói dối để lừa nhà Thanh, hãm đồng loại vào chỗ bất nghĩa, xét tội ác chẻ hết tre cũng khó biên hết, thực là kẻ có tội nhất trong danh giáo. Nếu kẻ này mà không giết thì răn bảo người sau sao được ?”. Gia Long vì cớ muốn yên dân, lại thấy đều là danh sĩ Bắc Hà, cần dùng cho việc giao thiệp với nhà Thanh về sau, tha cho tội chết, chỉ đem đánh đòn nghị tội ở Văn Miếu, Thăng Long để làm nhục.

    Quân giải Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan và các danh sĩ Bắc Hà của Tây Sơn ra Văn Miếu. Đặng Trần Thường ngồi ở trên cao hất hàm hỏi Ngô Thì NHậm:
    - Ngô Thượng thư không ngờ lại có ngày hôm nay chăng?

    Ngô Thì Nhậm đáp thản nhiên đáp:
    - Luận anh hùng bất tri thắng bại.

    Đặng Trần Thường tức giận, hỏi:
    - Ngươi bình nhật tự phụ là văn tài Bắc Hà, có dám ứng đối không?

    Ngô Thì Nhậm cười lạt không đáp. Đặng Trần Thường đọc:
    Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?

    Ngô Thời Nhậm đáp luôn:
    Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế, thế nào cũng thế!

    Chữ lót của Đặng Trần Thường là “Trần”, nằm ở vế sau của câu ra. Chữ lót của Ngô Thời Nhậm là “Thời”, nằm ở vế sau của câu đối. Hai chữ đối nhau chan chát. (chỉ Thì và Thời trong tiếng Hán là một).

    Ý của Đặng Trần Thường chê Ngô Thời Nhậm là kẻ không biết người. Ngô Thời Nhậm lại đáp Đặng Trần Thường là kẻ tiểu nhân bỉ ổi, dù có thời nào đi nữa cũng không thể lưu dụng.

    Đặng Trần Thường nổi giận, sai lính đem các danh sĩ ra đánh đòn. Riêng Ngô Thì Nhậm thì sai người tẩm thuốc độc vào roi để đánh. Ngô Thì Nhậm về nhà phát bệnh, biết không qua khỏi, bèn lấy giấy bút viết một bài thơ, rồi sai người đưa cho Đặng Trần Thường. ĐẶng Trần Thường mở ra xem thì thấy bài thơ ấy viết:

    “Ai tai Đặng Trần Thường
    Chân như yến xử đường
    Vị Ương cung cố sự
    Diệc nhĩ thị thu trường”


    Tạm dịch:

    Thương thay Đặng Trần Thường
    Tổ yến nhà xử đường
    Vị Ương cung chuyện cũ
    Tránh sao kiếp tai ương?


    Xưa Hàn Tín bỏ Tây Sở về nhà Hán, làm đến chức Đại Tướng Quân, đem quân đánh Tay Sở Bá Vương Hạng Vũ, lập nên nhà Hán, là một trong ba đại công thần khai quốc của nhà Hán gồm Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín. Sau Hoàng Hậu Lã thị bắt giam Hàn Tín vào cung Vị Ương, Hàn Tín kêu oan với Hán Cao Tổ Lưu Bang. Lưu Bang hạ lệnh giết Hàn Tín trong cung Vị Ương.

    Đặng Trần Thường xem xong bài thơ thì cười Ngô Thì Nhậm là kẻ không có kiến thức.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/12/10
  13. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi ???"

    Đặt Quốc Hiệu, ra nền nhất thống
    Đúc Thần Công, tỏ rỏ hùng uy


    Toàn cõi đã thu về một mối, các tướng đều dâng sớ xin Gia Long Đế làm lễ lên ngôi tôn. Gia Long Đế Nguyễn Phúc Ánh bèn cùng các đại thần vào lễ yết Thái Miếu rồi ngự ở Chính Điện làm lễ chầu mừng. Đặt quốc hiệu là Việt Nam, xuống chiếu bố cáo cho trong ngoài được rõ. Chiếu rằng:
    Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”.

    Lại sai sứ thần đi thông báo cho các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng, và sai sứ thần đi thông báo cho nhà Thanh ở phương bắc.

    Gia Long Đế lại đi yết lăng của Liệt Thánh, tức là các chúa Nguyễn từ Tiên Vương Nguyễn Hoàng cho đến Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương. Dựng Thái miếu, miếu Triệu tổ, miếu Hoàng khảo. Trước kia, vua lấy lại được đất Gia Định thì dựng nhà Thái miếu để thờ Chiêu huân tĩnh vương ở giữa, bên tả thờ Gia dụ thái vương, Hiếu chiêu vương, Hiếu nghĩa vương, Hiếu tuyên vương, Hiếu khang vương, bên hữu thờ Hiếu văn vương, Hiếu triết vương, Hiếu minh vương, Hiếu vũ vương, Hiếu định vương, Hiếu huệ vương (tức là Tân chính vương Dương, là con Tuyên vương Hạo, sau đổi thụy là Mục vương), phía sau làm tẩm miếu để thờ các bà phi của tiên vương.

    Kịp khi lấy lại Kinh thành Phú Xuân thì tạm dựng Thái miếu, cũng nhân quy chế ấy mà làm. Đến đây vua cùng bầy tôi bàn rằng nhà nước dựng nghiệp ở cõi Nam, bắt đầu từ Thái vương, trải đời truyền nhau đến Hiếu định vương thì đúng hợp với số chín miếu. Nên định
    ở bên tả trong hoàng thành dựng nhà Thái miếu, noi theo kiểu đồng đường dị thất (1) của nhà Hán nhà Minh, thờ Thái vương làm Thái tổ, đặt ngôi ở gian giữa, từ Hiếu văn vương đến Hiếu định vương thì chia ra hai bên 4 chiêu 4 mục, hợp thành 9 ; đằng sau Thái miếu thì dựng miếu Triệu tổ, thờ Chiêu huân tĩnh vương làm Triệu tổ, để tỏ rằng Thái tổ là tự đó mà ra ; lại ở bên hữu phía trong hoàng thành, dựng miếu Hoàng khảo để tỏ rằng đế nghiệp
    là tự đó mà ra. Tuyên vương và Huệ vương, thì đợi các miếu làm xong, sẽ làm viên tẩm(2)
    riêng để thờ. Bàn xong, sắc cho bộ Lễ chọn ngày lành, lấy ngày Giáp thìn khởi công. Sai bọn Chưởng quân Lê Văn Duyệt, Phó tướng Phan Văn Đức, Thống chế Nguyễn Công Nga, Chưởng cơ Nguyễn Văn Thống, Tham tri Nguyễn Văn Ngoạn trông coi công việc.

    Truy tôn Thụy hiệu cho các Liệt thánh. Chiếu nói: “Vương giả lấy đạo hiếu trị thiên hạ, mà đạo hiếu thì không gì lớn bằng tôn thân. Truy tôn tổ tông là để tỏ lòng kính mà đạt đạo hiếu. Các thánh vương trước xây dựng nghiệp vua, mở mang bờ cõi, trải đời nối nhau, một dòng nhân hậu, đạo công nghiệp đã thấm thía cả lòng người. Trẫm là người đức mỏng, gặp bước khó khăn mà có thể thu phục được ngôi cũ, mở mang được cõi mới, dựng thành nghiệp lớn ngày nay, cỗi sâu gốc bền là nhờ ở đời trước. Nhưng vừa mới đạt định, điển lễ chưa làm, nên tôn miếu vẫn theo hiệu cũ. Sâu nghĩ các bậc thánh vương trước, linh thiêng ở trời, ơn trạch ở người, các vương phi của liệt thánh cùng với liệt thánh sánh đôi, thêm dày phúc đức, đều nên tôn dâng huy hiệu để tỏ đức lớn. Vậy hạ lệnh cho các quan văn võ tra xét điển lễ, bàn định, thi hành”.

    Truy tặng cha Hoàng hậu là Ngoại tả chưởng dinh kiêm chưởng sứ Khuông quận công Tống Phước Khuông làm Suy trung dực vận công thần đặc tiến khai phủ phụ quốc thượng tướng quân thượng trụ quốc thái bảo Khuông quốc công, thụy là Cung ý; tổ là Nội hữu chưởng cơ kiêm Công bộ chưởng sứ sự Thành tín hầu Tống Phước Thành làm Tán trị công thần đặc tiến khai phủ phụ quốc thượng tướng quân thượng trụ quốc chưởng dinh Thành quận công, thụy là Đôn Chất; tằng tổ là Nội hữu cai cơ Dương trung hầu Tống Phước Dương làm Đồng đức công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thượng trụ quốc chưởng cơ Dương quận công, thụy là Chất Trực; cao tổ là Chính dinh cai cơ Đức nghĩa hầu Tống Phước Đức làm Dương võ công thần quang tiến trấn quốc đại tướng quân Cẩm y vệ chưởng vệ sự chưởng cơ, thụy là Uy Dũng. (Năm Minh Mệnh thứ 13, gia tặng Thái bảo Khuông quốc công làm Đặc tiến tráng võ đại tướng quân Tiền quân đô thống phủ chưởng phủ sự, phong Quy quốc công). Dời mộ Thái bảo Khuông quốc công đến Long Hồ.

    Yên phần mộ Thiệu Long giáo chủ Nguyễn thị ở An Cựu. Giáo chủ là vợ thứ hai của Thế tông Hiếu võ hoàng đế, gặp biến loạn năm Giáp ngọ, bà đi tu ở chùa Phúc Thành, đến nay mất, sách tặng làm Tuệ Tĩnh thánh mẫu nguyên sư, hiệu là Thiệu Long giáo chủ.

    Đốc thúc dân phu và quân lính các lộ xây dựng kinh thành Phú Xuân. Xây cung thành và hoàng thành ở Phú Xuân. Cung thành bốn mặt dài suốt 307 trượng 3 thước 4 tấc, xây bằng gạch, cao 9 thước 2 tấc, dày 1 thước 8 tấc. Phía trước có cửa Tả túc, cửa Hữu túc, bên tả là cửa Hưng Khánh, bên hữu là cửa Gia Tường, phía sau là cửa Tường Lân và cửa Nghi Phượng. Hoàng thành bốn mặt dài suốt 614 trượng, xây gạch, cao 1 trượng 5 thước, dày 2 thước 6 tấc. Hồ bọc ba phía, tả, hữu, hậu, dài suốt 464 trượng 1 thước. Phía trước có cửa Tả Đoan và cửa Hữu Đoan, bên tả là cửa Hiển Nhân, bên hữu cửa Chương Đức, phía sau có cửa Cung Thần. Cửa Tường Lân sau đổi làm cửa Tường Loan, cửa Cung Thần sau đổi làm cửa Địa Bình). Sai Nguyễn Văn Trương và Lê Chất trông coi công việc. Các quan ứng dịch ở đấy được thưởng thêm lương tiền. Lại lấy sự chậm chóng để định thưởng phạt.

    Ngày Quý mùi, xây đắp Kinh thành. (Suốt bốn mặt thành dài 2.487 trượng 4 thước 7 tấc, suốt bốn mặt hào dài 2.503 trượng, 4 thước 7 tấc ; có 10 cửa, mặt trước là cửa Thể Nguyên, cửa Quảng Đức, cửa Chính Nam, cửa Đông Nam, bên tả là cửa Chính Đông, cửa Đông Bắc, bên hữu là cửa Chính Tây, cửa Tây Nam, phía sau là cửa Chính Bắc, cửa Tây Bắc ; ở góc đông bắc đắp đài Thái Bình, thành [của đài] mở một cửa gọi là cửa Thái Bình, cửa đài gọi là cửa Trường Định ; thân thành đài dài suốt 246 trượng 7 thước 4 tấc. Kỳ đài cao 4 trượng, 4 thước. Cửa Thể Nguyên sau đổi làm cửa Thể Nhân, cửa Thái Bình sau đổi làm cửa Trấn Bình). Lấy biền binh ở Kinh và ở Thanh Nghệ, Bắc Thành, quân và dân Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định sung làm việc. Ưu cấp tiền gạo (mỗi người mỗi tháng cấp tiền 1 quan 5, gạo 1 phương 15 bát).

    Dựng Văn miếu. Lăng Triệu tổ Tĩnh hoàng đế [Nguyễn Kim] gọi là lăng Trường Nguyên (truyền văn rằng Tĩnh hoàng hậu hợp táng ở đó); lăng Thái tổ Gia dụ hoàng đế [Nguyễn Hoàng], gọi là lăng Trường Cơ; lăng Gia dụ hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Cơ; lăng Hy tông Hiếu văn hoàng đế [Nguyễn Phúc Nguyên] gọi là lăng Trường Diên; lăng Hiếu văn hoàng hậu gọi lăng Vĩnh Diên; lăng Thần tông Hiếu chiêu hoàng đế [Nguyễn Phúc Lan] gọi là lăng
    Trường Diên; lăng Hiếu chiêu hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Diên; lăng Thần tông Hiếu triết hoàng đế [Nguyễn Phúc Tần] gọi là lăng Trường Hưng; lăng Hiếu triết hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Hưng, cũng là lăng Quang Hưng; lăng Anh tông Hiếu nghĩa hoàng đế [Nguyễn Phúc Trăn] gọi là lăng Trường Mậu; lăng Hiếu nghĩa hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Mậu; lăng Hiển tông Hiếu minh hoàng đế [Nguyễn Phúc Chu] gọi là lăng Trường Thanh; lăng Hiếu minh hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Thanh; lăng Túc tông Hiếu ninh hoàng đế [Nguyễn Phúc Trù] gọi là lăng Trường Phong; lăng Hiếu ninh hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Phong; lăng Thế tông Hiếu võ hoàng đế [Nguyễn Phúc Khoát] gọi là lăng Trường Thái; lăng Hiếu võ hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Thái; lăng Duệ tông Hiếu định hoàng đế [Nguyễn Phúc Thuần] gọi là lăng Trường Thiệu; lăng Hiếu khang hoàng đế [Nguyễn Phúc Noãn] gọi là lăng Cơ thánh.

    Thái miếu, miếu Triệu tổ, miếu Hoàng khảo làm xong. (Thái miếu, nhà chính và nhà trước đều 13 gian 2 chái, hai nhà vuông, hai sở tế tả hữu ; giữa sân có gác Mục Thanh ba tầng, bên tả là cửa Diên Hy, trên là gác chuông, bên hữu là cửa Quang Hy, trên là gác trống ; phía trước đặt tả vu, hữu vu để thờ các vị tòng tự ; tường chung quanh có năm cửa, phía trước là
    cửa Thái miếu, bên tả là cửa Hiển Thừa, bên hữu là cửa Túc Tướng, phía tả đằng sau là cửa Nguyên Chỉ, phía hữu đằng sau là cửa Trường Hựu. Trên phía bắc là miếu Triệu tổ, nhà chính và nhà trước đều 3 gian 2 chái, đằng sau bên tả là cửa Tập Khánh, bên hữu là cửa Diễn Khánh. Nhà vuông bên tả nay là điện Long Đức, tế sở bên tả nay là điện Chiêu Kính, tế sở bên hữu nay là điện Mục Tư, gác Mục Thanh nay là gác Tuy Thành).

    Sửa Nguyên miếu.

    Dựng đàn Nam giao (ở xã Dương Xuân về phía nam Kinh thành). Đàn làm ba tầng (tầng thứ nhất đàn tròn, cao 6 thước 8 tấc, chu vi 30 trượng 3 thước 5 tấc ; tầng thứ hai đàn vuông ; cao 2 thước 5 tấc, mỗi chiều 19 trượng 5 thước 7 tấc ; tầng thứ ba đàn vuông, cao 1 thước 9 tấc, mỗi bề 37 trượng 5 thước ; chung quanh ba tầng đều có lan can).
    Đàn tròn tầng thứ nhất để tế Trời [Hiệu thiên thượng đế] Đất [Hoàng địa kỳ]. Đàn vuông tầng thứ hai tế tám tòng vị [tám vị được dự thờ] ở tả nhất là Mặt trời, tả nhị là các Tinh Tú, tả tam là các thần Gió, Mưa, Mây, Sấm ; tả tứ là sao Thái tuế(1), thần Nguyệt tướng(2), hữu nhất là Mặt trăng, hữu nhị là các thần Núi, Biển, Sông, Chằm [Sơn Hải Xuyên Trạch] (năm Minh Mệnh thứ 9 đổi làm Sơn Hải Giang Trạch), hữu tam là các thần Cồn, Gò, Bờ nước, Bãi bằng, hữu tứ là các thần kỳ trong cả nước. Tầng thứ ba,phía đông nam đặt sở Phần sài(1), phía tây bắc đặt sở ế khảm(2). ở ngoài ba tầng thì làm nền vuông, trồng thông khắp cả, ngoài nền vuông thì xây tường chung quanh. Cửa bốn mặt xây cột gạch. ở ngoài đàn về phía hữu thì đặt Trai cung làm nơi vua ăn chay.

    Dựng đàn Xã Tắc (ở bên hữu Hoàng thành) ; sai các thành và dinh trấn đều phải cống đất địa phương để đắp. Đàn làm hai tầng. (tầng thứ nhất cao 2 thước, vuông mỗi chiều 15 trượng ; tầng thứ 2 cao 1 thước 5 tấc, vuông mỗi chiều 29 trượng. Chu vi hai tầng đều có lan can, ngoài trồng cây, xây tường chung quanh). Tầng thứ nhất để tế thần Thái xã Thái tắc (đều hướng về bắc), bên hữu phối thờ thần Hậu thổ Câu Long thị, bên tả phối thờ Hậu Tắc thị (đông tây hướng vào nhau); tầng thứ hai thì phía tây bắc đặt sở ế Khảm. Sai Chưởng quân Phạm Văn Nhân trông coi công việc. Rồi sai bộ Lễ bàn định về phép thờ tự, mỗi năm cứ ngày mậu về tháng trọng xuân và trọng thu thì tế. (Tháng trọng xuân thì ngày mậu sau ngày tế Nam giao, tháng trọng thu thì ngày mậu đầu tháng).

    Dựng điện Cần chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Đức.

    Bính dần, Gia Long năm thứ 5 [1806], mùa hạ, tháng 5, ngày Kỷ mùi, vua lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa. Lấy hành thổ(1) tượng trưng cho đức vua nên chuộng sắc vàng. Trước 6 ngày là ngày Giáp dần, kính cáo trời đất. Ngày Bính thìn kính cáo các miếu. Đúng ngày, đặt nghi vệ đại triều ở điện Thái Hòa. Bầy tôi dâng sách vàng lên. Lời sách nói : “Bọn thần trộm nghe : Có đức tốt của thánh nhân, tất được ngôi báu của thánh nhân ; dựng ngôi chính trong thiên hạ, tất được tiếng rạng của thiên hạ. Cho nên Hồng phạm thì để văn “kiến cực”(2) mà Xuân thu thì trọng nghĩa “chính thủy”(3). Lớn thay nước Việt, đóng ở phương Nam. Nền khai thác tự tiên vương mở rộng, công đức chứa góp như trời không cùng ; mối gây dựng đo liệt thánh siêng năng, ơn trạch sâu dày ở người nhớ mãi. Nhiều phúc tổ để lại từ trước; lên ngôi vua gặp lúc vận hay. Kính nghĩ Vương thượng bệ hạ, anh hùng quán cổ, trí dũng hơn đời. Buổi sấm mây vượt bước gian truân, nên nghiệp lớn thương dân đánh giặc ; cơn gió chớp ra tay uy võ, kiêm khó khăn sáng nghiệp trung hưng. Búa cờ họp được công to ; chuông giá không rời vật cũ. Nhất thống cả cõi bờ nước Việt, ngợi ca chầu yết theo về ; nhật nguyệt lại sáng tỏ giữa trời, Xã Tắc thần người có chủ. ức triệu dân cùng đều nhờ cậy ; hai ba lần khẩn khoản bày xin. Nhưng Thánh thượng nhún nhường, đức rồng thua khiêm tốn : duy thần dân kính mến, vẻ hùm vẫn ngóng trông. Thấy ngôi cả đã đúng điềm, nền đại đồng vừa nhịp tốt. Bọn thần kính cẩn phụng sách dâng tôn hiệu Hoàng đế, cúi mong : ngôi Bắc thần(1) yên chốn, sao Tử vi(2) sáng soi, để nhận tiếng khen to, định yên phúc cả. Đức tốt rộng dày cao sáng, ví trời đất không
    cùng ; nghiệp lớn yên vững dài lâu, trải bao đời còn mãi
    ”.

    Vua lên ngôi hoàng đế, xuống chiếu bố cáo trong ngoài. Bầy tôi dâng biểu chúc mừng. Lời chiếu nói :“Trẫm nghĩ : Đức vua mặt trời làm tượng, vương giả lấy đấy mà hướng đến quang minh ; đạo kiền thống trị cả trời, thánh nhân nhân đấy mà noi theo phép tắc. Lớn thay nhà nước ta, trùm cả cõi Nam ! Vua thánh đời trước, dựng nghiệp dốc lòng, gắng sức xây nền, hai trăm năm lẻ, thánh hiền tiếp nối, công đức rõ nêu. Bỗng chốc cơ trời đen tối, vận nước suy vi. Trẫm tuổi trẻ, gặp lúc đau thương, khắp nơi xa lánh. Rồi từ Gia Định lên giữ ngôi vương, lo nối cơ đồ, tạm yên nhân vọng. Ngày đêm lo nghĩ, rất sợ để thẹn phúc xưa. Nhờ được uy linh Tôn Miếu Xã Tắc và sức mạnh của tướng tá, giết được quân thù, lấy lại nghiệp cũ, mở rộng bờ cõi, giúp trẫm nên được công lớn. Nối chí noi việc là chức phận của trẫm, chứ đâu dám ở ngôi cao. Nhưng các thân công đại thần có công lao đánh dẹp bàn nói ở triều, nhiều lần tâu rằng trách nhiệm yên dân trời đã giao cho trẫm mà lịch số vô cùng cũng duy có trẫm nối dõi, cố xin trẫm lên ngôi hoàng đế để rõ mối giềng. Vậy để hợp lời xin của mọi người, định đến ngày mồng 7 tháng này kính cáo Trời Đất, ngày 9 kính cáo Tôn Miếu, ngày 12 nhận sách văn tôn ngôi hoàng đế. Phàm có chế sách, ở đầu sẽ dùng những chữ “Thừa thiên hưng vận”(3) để mở rộng mối lớn của nước Việt ta. Trong ngoài gần xa đều cùng đổi mới. Đặc biệt ban xuống tám điều ân xá. (1. Thóc tô ruộngđất công tư ở các dinh trấn năm nay tha 5 phần 10 ; 2. Những quan điền, quan đồn điền, quan điền trang, quan trại, cùng ruộng ngụ lộc và ruộng đất ngụy phạm đã sung công, thì lệ tiền và thóc lương năm nay tha 5 phần 10 ; 3. Chính hộ khách hộ, các hạng tráng, quân, dân, biệt nạp, biệt tính, lão, tật, tiền thuế thân dung năm nay tha 5 phần 10 ; 4. Các dinh thuộc Gia Định, trước đã có chiếu tha tiền thuế sai dư năm năm Quý hợi, Giáp tý, ất sửu, Bính dần, Đinh mão, nay lại tha thêm cho một năm Mậu thìn là sáu năm ; 5. Hai dinh Bình Hòa, Bình Thuận, trước đây có chiếu tha bớt 2 phần 10 tiền thuế sai dư trong năm năm Quý hợi, Giáp tý, ất sửu, Bính dần, Đinh mão, trong 8 phần phải thu nay lại tha cho một nửa ; 6. Nghệ An, Thanh Hoa và các trấn Bắc Thành, tiền thuế thân dung năm nay tha 5 phần 10 ; 7. Những người Man, người Nùng, người Thanh ở các trấn Bắc Thành, người Lũng Nùng(1) sáu khu do phụ đạo thêu làm công, lệ bạc tiền [họ phải nộp] năm nay tha cho 5 phần 10 ; 8. Tù đồ đày đi làm việc đều chiếu theo hạn năm giảm cho một nửa ; bị tội đồ suốt đời mà tuổi đến 65 thì được tha cả ; ngoài ra tù phạm tội nhẹ phải giam giữ đều tha cả ; duy kẻ phạm tội thập ác, cố ý giết người, ăn trộm của công, đầu đảng ăn cướp, cưỡng gian, phạm gian, cố ý đốt nhà người, đào mả, làm sắc thư ấn tín giả dối, cố ý tha người có tội buộc người không tội, lấy của đút lót mà xử trái phép hay không trái phép, cùng là án đã xử giam đợi chết, đều không được dự lệ khoan xá này). Ôi ! Dựng ngôi lớn để phúc cho dân, thiên “Hồng phạm” hãy còn ghi chép ; trời cho phúc giúp ta trị nước, như âu vàng bền vững dài lâu”

    Sai Lễ bộ bàn định nơi thờ các công thần ở đền Hiển trung Gia Định, cộng 1.015 người, gửi cho lưu trấn thần chế bài vị để thờ.

    Gia tặng Tôn Thất Hạo làm Dực vận đồng đức tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái phó quốc công, thụy là Trung nghĩa ; Tôn Thất Đồng làm Dực vận minh nghĩa tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái sư quốc công, thụy là Trung tiết ; Tôn Thất Mân làm Dực vận tuyên lực tôn thần khai phủ phụ quốc nguyên soái thiếu phó quận công, thụy là Trung liệt, Tôn Thất Điến làm Dực vận tĩnh nạn tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái bảo quốc công, thụy là Trung mẫn. (Bốn người đều là con Hưng tổ (phụ thân của Gia Long Đế), ra trận tử tiết).

    Cấp ruộng tự điền cho các vị tôn thân. Tuyên vương mục vương tự điền đều 100 mẫu (ở xã Hà Trung huyện Phú Lộc), Thái phó Tôn Thất Huy 80 mẫu, Cai đội Tôn Thất Chương, Cai cơ Tôn Thất Bảo và Thiện Long giáo chủ Tống Sơn quận quân Ngọc Dao đều 15 mẫu (đều ở hai xã Kế Môn và Đại Lộc huyện Phong Điền). Sai bọn Tôn Thất Diệu, Tôn Thất Quân, Tôn Thất Sài, mỗi năm thu tiền thóc để thờ cúng. (Tôn Thất Chương, Tôn Thất Bảo và Ngọc Dao là do Hiếu Võ hoàng hậu sinh ra).
    Cho bầy tôi tôn thất là Tôn Thất Khê, Tôn Thất Hiệp, Tôn Thất Hạo, Tôn Thất Đồng, Tôn Thất Mân, Tôn Thất Điến, Tôn Thất Huy 7 người và công thần là Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Kính, Võ Tánh, Ngô Tòng Chu 6 người, được tòng tự ở Thái miếu.

    (Tả vu có bảy án: án tả nhất thờ Tá lý tôn thần đặc tiến thượng trụ quốc bình chương quân quốc đại sự tổng trấn Tường quận công, thụy Trung Nghị, Tôn Thất Khê ; án tả nhị thờ Minh nghĩa tuyên lực tôn thần khai phủ phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự thiếu úy quận công, thụy Toàn Tiết, Tôn Thất Hiệp ; án tả tam thờ Dực vận
    đồng đức tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái phó quốc công, thụy Trung Nghĩa, Tôn Thất Hạo ; án tả tứ thờ Dực vận minh nghĩa tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái sư quốc công, thụy Trung Tiết, Tôn Thất Đồng ; án tả ngũ thờ Dực vận tuyên lực tôn thần khai phủ phụ quốc nguyên soái thiếu phó quận công, thụy Trung Liệt, Tôn Thất Mân ; án tả lục thờ Dực vận tĩnh nạn tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái bảo quốc công, thụy Trung Mẫn, Tôn Thất Điến ; án tả thất thờ Dực vận tá mệnh tôn thần chưởng Tả quân dinh thiếu phó đặc tiến thượng trụ quốc Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự thái phó chưởng dinh quận công, thụy Trung Tĩnh, Tôn Thất Huy. Hữu vu có sáu án : án hữu nhất thờ Hiệp mưu đồng đức công thần đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu nội tán Lộc Khê hầu, thụy Trung Lương, Đào Duy Từ ; án hữu nhị thờ Hiệp mưu tán lý công thần đặc tiến Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự tiết chế Thuận quận công, thụy Chính Cần, Nguyễn Hữu Tiến ; án hữu tam thờ Tán trị tĩnh nạn công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Tả quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự Lưu Đồn đạo đốc suất chưởng dinh Chiêu quận công, thụy Càn Tiết, Nguyễn Hữu Dật ; án hữu tứ thờ Tuyên lực công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Ty đô chỉ huy sứ đô đốc phủ chưởng phủ sự phó tướng chưởng cơ Lễ Tài hầu, thụy Tuyên Vũ, Nguyễn Hữu Kính ; án hữu ngũ thờ Khâm sai chưởng Hậu quân bình Tây tham thặng đại tướng quân tặng Dực vận công thần đặc tiến phụ quốc đại tướng quân thái úy quốc công, thụy Trung Liệt, Võ Tánh ; án hữu
    lục thờ Khâm sai Lễ bộ tặng Tán trị công thần đặc tiến trụ quốc kim tử vinh lộc đại phu Đại lý tự khanh thái tử thái sư quận công, thụy Trung ý, Ngô Tòng Chu).

    Định ra cấp bậc Văn giai và Võ giai từ lớn xuống bé

    Lấy Hồ Công Diệu làm Chánh đốc học Quốc tử giám, Nguyễn Thế Trực lãnh ất Phó đốc học, Trương Chi Lý làm Đốc học Gia Định, Võ Xuân Biều và Hoàng Công Xuân làm Giáp ất Phó đốc học, Nguyễn Đăng Ngạn làm Hàn lâm viện chế cáo, lãnh Đốc học Quảng Nam, Nguyễn Duy Hợp làm Phó đốc học, Bùi Dương Lịch làm Đốc học Nghệ An, Phan Bảo Đĩnh làm Đốc học Thanh Hoa.

    Lại hạ chiếu tìm những sách chứa riêng ở nhà dân. Lê Duy Thanh người đất Duyên Hà (tên xã thuộc huyện Duyên Hà) là đem sáu quyển Tạp lục và hai quyển Quần thư khảo biện của cha là Bãng nhãn nhà Lê Lê Quý Đôn để dâng.

    Bàn soạn sách Quốc triều thực lục. Triệu Thị trung học sĩ là Phạm Thích, Đốc học Sơn Nam thượng là Nguyễn Đường, Đốc học Hoài Đức là Trần Toản về Kinh, sung chức biên tu ở Sử cục. Lại thấy Lê Duy Thanh là người Duyên Hà có văn học, cùng triệu về Kinh, rồi cho chức Đông các học sĩ.


    Đắp tám đoạn đê mới ở Bắc Thành. Sai xây các cửa thành Thăng Long (cửa Đông Nam, cửa Tây Nam, cửa Đông, cửa Tây và cửa Bắc), mỗi cửa đều dựng bia để ghi. Đổi thành Thăng Long, làm thành Thăng Long, phủ Phụng Thiên làm phủ Hoài Đức, huyện Quảng Đức làm huyện Vĩnh Thuận.

    Vua thấy địa thế Gia Định rộng lớn, sai đình thần bàn kỹ việc kinh lý để giữ gìn bờ cõi cho vững mạnh. Bèn đổi Gia Định trấn làm Gia Định thành, dinh Phiên Trấn làm trấn Phiên An, dinh Trấn Biên làm trấn Biên Hòa, dinh Vĩnh Trấn làm trấn Vĩnh Thanh, dinh Trấn Định làm trấn Định Tường; thuộc trấn Phiên An thì huyện Tân Bình làm phủ Tân Bình, tổng Bình Dương làm huyện Bình Dương, tổng Tân Long làm huyện Tân Long, tổng Phúc Lộc làm huyện Phúc Lộc, tổng Bình Thuận làm huyện Thuận An; thuộc trấn Biên Hòa thì huyện Phúc Long làm phủ Phúc Long, tổng Tân Chính làm huyện Phúc Chính, tổng Bình An làm huyện Bình An, tổng Long Thành làm huyện Long Thành, tổng Phúc An làm huyện Phúc An; thuộc trấn Vĩnh Thanh thì châu Định Viễn làm phủ Định Viễn, tổng Bình An làm huyện Vĩnh An, tổng Bình Dương làm huyện Vĩnh Bình, tổng Tân An làm huyện Tân An; thuộc trấn Vĩnh Tường thì huyện Kiến An làm phủ Kiến An, tổng Kiến Đăng làm huyện Kiến Đăng, tổng Kiến Hưng làm huyện Kiến Hưng, tổng Kiến Hòa làm huyện Kiến Hòa, hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang cũng đặt hai huyện Long Xuyên và Kiên Giang, mỗi huyện đều đặt hai tổng.

    Dời trấn thành Thanh Hoa và Nghệ An đi nơi khác. Trước là khi vua Bắc tuần, xa giá đi qua lỵ sở hai trấn ấy. (Lỵ sở Thanh Hoa cũ ở xã Dương Xá huyện Đông Sơn, lỵ sở Nghệ An cũ ở xã Dũng Quyết huyện Chân Lộc), bàn muốn dời đi nơi khác, bèn trải xem địa thế, định lấy Thọ Hạc (tên xã, thuộc huyện Đông Sơn) làm trấn lỵ Thanh Hoa, An Trường (tên xã, thuộc huyện Chân Lộc) làm trấn lỵ Nghệ An, đến nay bắt dân xây đắp.

    Xuống chiếu lấy Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình làm bốn dinh trực lệ, đổi dinh Quảng Ngãi làm trấn Quảng Ngãi, dinh Bình Định làm trấn Bình Định, dinh Phú Yên làm trấn Phú Yên, dinh Bình Hòa làm trấn Bình Hòa, dinh Bình Thuận làm trấn Bình Thuận.

    Đắp đập Hà Trữ (tên phường, thuộc huyện Phú Lộc). Vua thấy đất ấy gần biển, thường bị nước mặn thấm vào, sai Giám thành phó sứ Nguyễn Đức Sĩ cùng với dinh thần Quảng Đức đi xem xét đo đạc, đắp đập để ngăn [nước mặn], nông dân lấy làm tiện lợi.

    Lại xuống chiếu sắc phong tặng ông cha các đại thần. Chiếu rằng : “Thưởng người có công, đền người khó nhọc, đó là điển lớn của triều đình. Nay võ công đã định, khôi phục non sông, nghĩ tới những bầy tôi huân cựu, suy ơn đến gốc, nên phong tặng cho ông cha ba đời theo thứ bực khác nhau”. (Quan nhất phẩm phong tặng ba đời, cha hàm nhị phẩm, ông hàm tam phẩm, cố hàm tứ phẩm, quan nhị phẩm phong tặng hai đời, cha hàm tam phẩm, ông hàm tứ phẩm ; quan tam phẩm phong tặng một đời, cha hàm tứ phẩm. Còn sống thì suy phong, chết rồi thì được truy tặng. Những mẹ, bà và cố bà đều theo phẩm hàm của cha, ông, cố. Nếu cha, ông, cố đã có chức hàm rồi mà phẩm cao hơn con cháu, thì được tiến một bực, phẩm còn thấp thì theo chức hàm con cháu mà phong tặng. Phàm người được dự phong tặng thì phải có huân lao chính tích và có ân chỉ thì mới được cấp).

    Lại tịch thu hết tất cả binh khí và vật dụng bằng đồng của nhà Tây Sơn trong cả nước đúng chín khẩu thần công đặt dưới chân Hoàng Thành, trước cửa Ngọ Môn để chứng tỏ hùng oai đại định, Gọi là Cửu vị thần công hay Thần Oai Vô Địch Thượng tướng quân. Đặc tên cho mỗi khẩu theo Tứ thời và Ngũ hành là: Xuân – Hạ - Thu – Đông và Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/12/10
  14. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi Kết

    Giết công thần, đế vượng hẹp lượng
    Lập Thế tử, bất hảo đại thần


    Đặng Trần Thường vì có nhiều công lao, hiến nhiều mưu kế để đánh bại nhà Tây Sơn được cho giữ chức Tán Lý sau tham gia Binh bộ thăng Kinh Lược Sứ Bắc Thành cùng với Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành đảm trách công việc các trấn phía Bắc. Sau ĐẶng Trần Thường còn được kiêm Tổng Lý trông coi việc đắp đê chính ở Bắc Thành.

    Gia Long Đế thấy Đặng Trần Thường ở Bắc Thành đã lâu bèn triệu về Kinh, phong giữ chức Binh Bộ Thượng Thư. Bổng có cáo giác Đặng Trần Thường lũng nhạm quyền hành khi ở Bắc Thành, Gia Long liền truyền bắt giam Đặng Trần Thường để tra xét.

    Nguyên Tham tri Lễ bộ Nguyễn Gia Cát làm sớ tâu về sự tích Bách Thần. Quan lại Bắc Thành là Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát giao việc ấy cho Thiêm sự Vũ Quý Đĩnh và Nguyễn Dục (con của Nguyễn Gia Cát) và Cống sĩ Tô Văn Dâu (em vợ Nguyễn Gia Cát) lo liệu. Bọn Vũ Quý Đĩnh làm giả sắc gian phong cho ông cha và bố mẹ vợ làm phúc thần, bọn Nguyễn Dục và Tô Văn Dâu cũng dựa thế làm gian khiến điển thờ đảo lộn, nhầm lẫn rất nhiều. Việc phát ra, truy xét hơn 560 đạo sắc, bọn Vũ Quý Đĩnh đều nhận tội. Trong số đạo sắc có lẫn cả sắc phong cho Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc là Bình Nam Đại Tướng quân của họ Trịnh ở Bắc Hà, năm Giáp Ngọ đem quân đánh vào phía Nam lấy Phú Xuân. Đặng Trần Thường trước ở Bắc Thành biết việc ấy đem dấu đi, liệt lẫn vào đều thờ, Nguyễn Gia Cát cũng phụ theo mà phong là “Thanh danh văn võ thánh thần đại vương”. Việc đã truy xét rõ ràng, Đặng Trần Thường liền nhận tội, bèn giao xuống Hình bộ nghị tội. Lễ bộ Thượng thư Phạm Như Đăng cho tội Đặng Trần Thường phải cách chức, Nguyễn Gia Cát phải xử tử. Tham tri Hình bộ Lê Bá Phẩm nói tội hai người như nhau, phải xử chết cả. Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành xin cho Đặng Trần Thường lấy công chuộc lỗi theo điều Bát Nghị, Thượng thư Hộ bộ Lê Quang Định, Tham tri Công bộ Nguyễn Đức Huyên, Hữu Tham tri Hộ bộ Nguyễn Hữu Thận đều xin theo lời của Nguyễn Văn Thành. Thượng Thư Lại bộ Trần Văn Trạc, Trịnh Hoài Đức lại xin theo lời Phạm Như Đăng. Bàn mãi, cuối cùng Gia Long theo lời Lê Bá Phẩm phạt án Vũ Quý Dĩnh bị tội trãm, Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát trãm giam hậu, bọn Nguyễn Dục bị tội đồ, những người liên quan đến đều bị phạt và giáng chức. Lại hạ chiếu thu lại sắc thần, giao cho Lễ bộ bàn lại việc phong tặng.

    Sau Gia Long xét lại các trọng án, nghĩ thương Đặng Thần Thường đã có nhiều công đánh dẹp, bèn tha cho tội chết, chỉ xóa tên trong quan tịch, cho sinh sống ở Kinh Thành.

    Sau khi Lê Chất ra làm Tổng trấn Bắc Thành thay Nguyễn Văn Thành, lại phát hiện ra Đặng Trần Thường ẩm lậu thuế đầm ao đinh điền. Đặng Trần Thường lại bị hạ ngục. Trong lúc bị giam, uống rượu say lại nói những lời phạm thượng. Đình thần nghị thẩm án đều cho là phải chết. Gia Long Đế đọc án sớ càng tức giận, ra lệnh xử giảo Đặng Trần Thường và tịch biên gia sản. Đặng Trần Thường trong ngục hay tin Gia Long Đế bội ân, xử chết mới nhớ lại lời thơ của Ngô Thì Nhậm khi trước “Vị Ương cung cố sự, Diệc nhĩ thị thu trường” thì đã muộn. Bèn ngậm ngùi làm bài thơ hoài cảm Hàn Vương Tôn Phú, tự ví mình như Hàn Tín rồi treo cổ chết. Năm ấy Đặng Trần Thường được 59 tuổi.

    Trong Hàn Vương Tôn Phú có câu:
    Ta nay xem xem pho Cựu sử, đọc truyện nhân thần, thấy câu “ Hán đắc thiên hạ, đại để giai Tín chi công”. Chưa từng chẳng “Thán tích Hàn vương tôn chi anh tài, mà thâm trách Hán Cao Hoàng chi sai kỵ

    Dịch nghĩa:

    Ta nay xem sách sử xưa, đọc truyền nhân thần, có câu: Nhà Hán được thiên hạ, thì phụ bạc Hàn Tín tướng quân. Cũng chăng than tiếc cái tài của Hàn Vương tôn mà chỉ sâu trách cái lòng nghi kỵ của Hán Cao Hoàng vậy!

    --------------------------------------------------------
    Hàn Tôn Vương: Đại Tướng quân nhà Hán Hàn Tín.
    Hán Cao Hoàng: Cao Tổ Hoàng Đế nhà Hán Lưu Bang


    Gia Long Đế cũng đã lớn tuổi mà chưa lập thái tử. Quần thần bàn tán ra vào. Tổng trấn Bắc Thành dâng sớ xin lập Thái tử và ban tước hiệu cho các hoàng tử để yên lòng người.

    Nguyên Gia Long Đế có các hoàng tử:

    Đại hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh con của Thừa Thiên Cao Hoàng hậu Tống Thị Lan, trước đã đi sứ nước Pháp làm con tin để cầu viện, sau lập làm Đông Cung Đại Nguyên Soái cùng Gia Long tham gia đánh dẹp Tây Sơn. Chẳng may mắc mất đã mất Năm Tân Dậu (1801) được 22 tuổi.

    Nhị Hoàng tử là Thuận An Công Nguyễn Phúc Hi mất năm Tân Dậu được 20 tuổi

    Tam Hoàng tử là Nguyễn Phúc Tuấn mất năm 12 tuổi

    Tứ Hoàng tử là Nguyễn Phúc Đảm, con của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang

    Ngoài ra còn các hoàng tử khác nữa.

    Bấy giờ trong các hoàng tử còn sống thì Tứ hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm là lớn tuổi nhất. Đông cung Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh trước khi mất cũng có hai người con với vợ là Tống Thị Quyên là Ứng Hòa công Mỹ Đường và em là Thái bình công Mỹ Thùy. Cả hai anh em Mỹ Đường và Mỹ Thuần đều còn nhỏ tuổi.

    Quần thần bấy giờ chia làm hai phe. Một số đại thần muốn lập con nhánh trưởng là cháu của Gia Long Đế, con của Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh tức Ứng Hòa công Nguyễn Phúc Mỹ Đường. Một số đại thần thì chủ trưởng lập vị hoàng tử lớn tuổi là Tứ Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm.

    Các tướng cầm quân khi xưa như Đại tướng Tiền phong dinh Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất nhớ ơn của Đông cung Đại Nguyên soái Nguyễn Phúc Cảnh khi xưa muốn lao động đường phố lập Ứng Hòa Công Nguyễn Phúc Mỹ Đường. Các đại thần và một số văn thần như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Phạm Đăng Hưng thì mong muốn lập Tứ Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm để ổn định đại cuộc.

    Gia Long Đế thầm nghĩ khi xưa dòng tộc họ Nguyễn mình là Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát vì việc lập Duệ Tông Đế tức Định Vương Nguyễn Phúc Thuần khiến triều chính nghiêng ngữa, nhà ngụy Tây Sơn Quang Trung Đế vì lập ấu quân mà bị diệt vong. Xem lại các triều đại cả Nam lẫn Bắc, phàm ấu chúa đều bị đại thần lộng quyền, còn được như Y Doãn nhà Thương, Chu Công Đán nhà Châu chỉ là số ít. Lại thấy Tứ Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm đã lớn tuổi, siêng năng học tập, biết lễ nghĩ suy xét bèn có ý sách lập ở ngôi Đông Cung. Đại thần trong triều biết ý đều phụ theo.

    Chỉ còn Đại tướng Chưởng Tiền quân dinh kiêm Tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành là vẫn một ý quyết lập dòng đích Ứng Hòa công Nguyễn Phúc Mỹ Đường. Một hôm Nguyễn Văn Thành về kinh, mời các quan đại thần trong triều đến tư dinh uống rượu. Rượu được vài tuần, Nguyễn Văn Thành nâng chén nói: “Hoàng tôn đáng được nối ngôi, tôi sắp tâu xin lập đấy”. Các đại thần đều sợ, không ai dám nói gì, chỉ có Lễ bộ Thượng thư Trịnh Hoài Đức sợ vạ lây mình, bèn nói rằng: “Việc lớn của nước nhà, quyết định do ở lòng hoàng thượng, nếu người bầy tôi định kế riêng, tham lấy công to thì tội lại lớn”. Nguyễn Văn Thành bèn thôi bàn trong tiệc nữa.

    Nguyễn Văn Thành lồi lần vào chầu đều dâng sớ sách lập Thái tử. Gia Long Đế im lặng không trả lời, Nguyễn Văn Thành càng ngờ sợ. Gia Long Đế mật nói với các tín thần “Hắn muốn dựng vua nhỏ để dễ khống chế, ngày sau có thể chẹt họng vỗ lưng chăng. Ta há tối tăm nhầm lẫn, không biết đắn đo nên chăng, vội nghe lời hắn mà không vì Xã Tắc chọn người sao!

    Con trai của Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Văn Thuyên vốn có văn tài, đổ Hương Cống, giao thiệp rộng với các danh sĩ Bắc Hà, lại chơi thân với dòng dõi nhà Lê là Diên Tự Công Lê Duy Hoán. Nghe tiếng Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận ở trấn Thanh Hoa có tiếng hay chữ, Nguyễn Văn Thuyên bèn làm bài thơ tặng:

    Văn đạo Ái Châu đa tuấn kiệt,
    Hư hoài trắc tịch dục cầu ty.
    Vô tâm cửu bảo Kinh Sơn phác,
    Thiện tướng, phương tri Ký-bắc Kỳ.
    U-cốc hữu hương thiên lý viễn,
    Cao vương minh-phượng cửu thiên tri.
    Thư hồi được đắc Sơn trung tể,
    Tá ngã kinh-luân chuyển hóa ky
    .”

    Dịch nghĩa là:

    Ái-châu nghe nói lắm người hay,
    Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
    Ngọc phác Kinh-Sơn tài sẵn đó,
    Ngựa Kỳ Ký-bắc biết lâu thay.
    Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
    Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.
    Sơn tể phen này dù gặp gỡ,
    Giúp nhau xoay đổi hội cơ này
    .”

    Có tay môn khách của Nguyễn Văn Thuyên là Nguyễn Trương Hiệu, người trấn Thanh Hoa đem bài thơ ấy tố với Thiêm sự Hình bộ Nguyễn Hựu Nghi trấn Thanh Hoa rằng bọn Nguyễn VĂn Thuyên mưu sự phản nghịch, ngầm kết giao bè đảng. Nguyễn Hựu Nghi sai Nguyễn Trương Hiệu đem bài thơ ấy đến tố nơi cửa của Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vốn thù ghét Nguyễn Văn Thành bèn đen việc ấy trình lên cho Gia Long Đế. Gia Long Đế sai người đi tra xét, bắt Nguyễn Văn Thuyên hạ ngục, lại sai bắt Nguyễn Trương Hiệu và một người môn hạ khác của Nguyễn VĂn Thuyên là Đổ Văn Chương để đối chứng. Nguyễn VĂn Thành càng sợ, bèn vào giải bày với Gia Long Đế.

    Phạm Đăng Hưng cho đối chứng, Nguyễn Văn Thuyên già miệng không chịu nhận, sau đổi cho Lê Văn Duyệt tra xét, Nguyễn Văn Thuyên vì hình án mà chịu tội. Nguyễn Văn Thành cả sợ xin chịu tội. Gia Long Đế bèn tịch thu ấn Đại tướng Chưởng Trung Quân của Nguyễn VĂn Thành. Các đại thần trong triều lại đón ý vua tranh nhau xin hạ ngục Nguyễn Văn Thành, lại đổi tội cho Nguyễn Văn Thành táng mộ mẹ vào đám đất có khí tượng đế vương, ngầm mưu làm phản. Chỉ một mình Tham tri Lại bộ Trần Văn Tuân là không chịu vào hùa.

    Ở Bắc Thành lại xảy ra vụ án Diên Tự Công Lê Duy Hoán làm phản. Diên Tự Công Lê Duy Hoán trước đã được cấp tự điền, tự công để lo hương hỏa cho các vua Lê. Sau có người môn khách đất Khái Châu là Đỗ Danh Hoành đến nói có câu sấm truyền “ Phá Điền, Thiên tử xuất”. Sau đó giới thiệu Đặng Đình Thạch làm mưu chủ, suy tôn Lê Duy Hoán làm Trinh nguyên hội chủ, xưng là vua Lê, cùng nhau uống máu ăn thề, tụ tập bè đảng. Việc phát giác ra, Gia Long Đế truyền bắt giải tất cả về kinh đô Phú Xuân xử tội.

    Đình thần lại cho Lê Duy Hoán làm phản là do Nguyễn Văn Thuyên, con của Nguyễn Văn Thành kết giao xúi giục. Đình thần nghị án bắt Nguyễn Văn Thành nhận tội. Nguyễn Văn Thành một mực không nhận tội, xin vào chầu gặp Gia Long Đế để giải bày. Một hôm Nguyễn Văn Thành vào cung, Gia Long Đế thoáng thấy mặt Nguyễn VĂn Thành thì phất tay áo đi vào trong, sai nội thị đuổi ra không cho gặp. Nguyễn Văn Thành phẫn uất về tư dinh nói với Thống chế Thị trung Hoàng Công Lý rằng: “Án đã xong rồi, vua bắt bề tôi chết, bầy tôi không chết không phải là trung”. Nguyên văn “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung”. Bèn uống thuốc độc chết. Năm ấy, Nguyễn Văn Thành được 59 tuổi.

    Nguyễn Văn Thành chết rồi, Hoàng Công Lý thuật lại lời nói trước khi chết của Nguyễn Văn Thành, rồi đem tờ biểu của Nguyễn Văn Thành trước khi chết trình lên. Gia Long Đế đọc xong thì khóc to: “Nguyễn Văn Thành từ lúc trẻ theo trẫm có công lao to. Nay nhất đán đến nỗi chết, trẫm không bảo hộ được, ấy là trẫm kém đức”. Đoạn lấy hậu lễ an táng.

    Diên Tự Công Lê Duy Hoán và Nguyễn Văn Thuyên (con Nguyễn Văn Thành) đều bị xử tội lăng trì. Các con khác của Nguyễn Văn Thành đều được thả ra.



    Nhà Phụ Nguyễn dựng nên nghiệp đế từ Gia Long, truyền được 13 đời từ đời vua thứ nhất là Gia Long Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ánh cho đến đời vua thứ 13 là Bảo Đại Hoàng Đế Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Kể từ đời vua thứ tư là Dực Tông Hoàng Đế Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức) nước Việt Nam đã bị nước Pháp (Phú Lãng Sa) ở Âu Châu dần dần từng bước thôn tính và đặt quyền Bảo hộ. Cho đến đời vua cuối cùng là Bảo Đại Hoàng Đế, nhà Nguyễn chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, thực chất Việt Nam đã bị nước Pháp thôn tính làm thuộc địa của thực dân.

    Mùa thu năm 1945, Nguyễn Ái Quốc quê ở Nghệ An, lãnh đạo Đảng Cộng Sản Đông Dương và Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) tổ chức toàn dân nổi dậy làm Cách mạng tháng Tám, giành chính quyền từ tay Pháp – Nhật. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Bảo Đại Hoàng Đế thoái vị, Chính phủ lâm thời do Nguyễn Ái Quốc làm Chủ tịch chính thức tuyên bố Việt Nam độc lập.

    Nhà Nguyễn kể từ khi Gia Long lên ngôi đến Bảo Đại thoái vị, tồn tại được 143 năm, có 13 vị vua thuộc 7 thế hệ. Xưa nhà Phụ Nguyễn đánh đổ nhà Tây Sơn vốn gốc họ Hồ sau đổi sang họ Nguyễn (quê gốc ở Nghệ An), gần 150 năm sau, nhà Nguyễn lại mất về tay một người cũng họ Nguyễn (gốc ở Nghệ An) sau đổi tên sang họ Hồ (Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung quê Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An, sau đổi tên thành Hồ Chí Minh). Phải chăng đó là số trời đã định, thiên lý có đạo tuần hoàn.
     
  15. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi ????:

    Bằng Trung Công tận trung tử tiết
    Chiêu Thống Đế mưu sự trung hưng


    Chiêu Thống Đế chạy đến đất Yên Thế. Thổ hào ở đấy là Dương Đình Tuấn tụ họp lâu la được hơn ba ngàn người đến đón xin tôn lao động đường phố. Nguyên Dương Đình Tuấn là thổ hào đất Mục Sơn, vốn là một tay cự phú trong vùng, nổi tiếng khắp lộ Lạng Giang. Phàm những kẻ tù tội hoặc bị oan ức đều đến xin nhờ nơi gia môn của Dương Đình Tuấn, nên môn hạ và thủ hạ dưới trướng rất đông. Bình sinh Dương Đình Tuấn rất ghét quan quân Liêu phủ họ Trịnh nên nay nghe chiếu Cần Vương của Chiêu Thống Đế bèn đem thuộc hạ đến đón hai bên đường xin lấy nghĩa khuông lao động đường phố.
    Chiêu Thống Đế bèn phong Dương Đình Tuấn làm Bình Khấu Tướng quân, ban thưởng cho bọn thuộc hạ để theo giúp rập.

    Bấy giờ quân dưới trướng của Bằng Trung Công Nguyễn Hữu Chỉnh còn được khoảng một vạn người, số quân của Dương Đình Tuấn và Nguyễn Thảng mộ được mới hơn năm ngàn. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng vững tâm bèn tâu với Chiêu Thống Đế:
    - Nay tôi liều mình cùng các tướng ở lại chặn địch. Phiền hoàng thượng cùng các quan đem xa giá dời đến Lạng Giang để phòng ngừa biến rồi phát chiếu Cần Vương đi các trấn mới mong có thể trừ được giặc giữ.

    Chiêu Thống Đế bèn khóc mà từ biệt. Nguyễn Hữu Chỉnh hối thúc các quan văn đưa Chiêu Thống lên xe. Đoạn sai Dương Đình Tuấn đem quân đóng bên tả dựa lưng vào dốc núi, Nguyễn Hữu Chỉnh tự cầm quân đóng bên hữu núi. Con trai của Hữu Chỉnh là Nguyễn Hữu Du làm tiên phong cầm bảy ngàn quân bày trận dàn nơi cánh đồng trước núi để đợi địch. Bùi Dương Lịch và Nguyễn Thảng nắm hậu quân đóng trên cao sau núi để đốc chiến.

    Vũ Văn Nhậm vào thành Thăng Long, tự lưu quân đóng giữ ở đấy rồi sai các tướng đô đốc Nguyễn Văn Hòa làm đại tướng, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân làm tả hữu, Võ Văn Nguyệt làm hậu ứng, đốc quân đuổi theo. Quân Tây Sơn đuổi đến núi Tam Tầng (Tam Tầng Sơn) thì thấy Nguyễn Hữu Chỉnh đã dàn trận đợi sẵn. Các tướng Tây Sơn bèn bày trận rồi tiến đến.

    Nguyễn Văn Hòa đem toàn quân trung tâm vào phá trận. Nguyễn Hữu Du đốc quân ra ngăn địch. Nguyễn Hữu Du cưỡi ngựa phóng ra trước trận chém một lúc hơn mười địch quân. Quân hai bên xung sát, Hữu Du tả xông hữu đột, thế quân Tây Sơn hơi núng. Nguyễn Văn Hòa liền hô quân lùi lại phía sau.

    Dương Đình Tuấn thấy Nguyễn Hữu Du đem quân đánh thắng cánh quân giữa trận của Tây Sơn thì cả mừng, đốc hết quân sĩ dưới quyền mình bỏ vị trí tràn xuống đánh giết. Nguyễn Hữu Chỉnh đóng quân ở mé hữu núi trông thấy thế thầm kêu khổ trong lòng.

    Ngô Văn Sở thấy tả quân của địch tiến đến liền đón đánh. Bấy giờ Nguyễn Hữu Du cũng không dám đuổi theo Tây Sơn đã ra hiệu cho quân mình rút lui. Nguyễn Văn Hòa lập tức dẫn mấy trăm kỵ binh từ trung quân đánh ập vào cánh quân bên tả của Dương Đình Tuấn. Đám quân của Dương Đình Tuấn lâu này chưa từng đánh trận bao giờ, chỉ quen đánh giết cướp bóc bị hai cánh quân Tây Sơn đánh kẹp lại chết gần hết.

    Võ Văn Nguyệt ở phía sau thấy bên tả trận của Nguyễn Hữu Chỉnh đã bỏ trống lập tức đem hơn mấy trăm kỵ binh vòng ra mé sau trận, qua phía tả đánh thẳng lên chổ cắm cờ lệnh đốc chiến của Nguyễn Thảng và Bùi Dương Lịch. Mấy chục quân sĩ đứng phía trước tiến ra ngăn cản đều bị quân Tây Sơn chém chết hết. Bùi Dương Lịch và Nguyễn Thản hỏang sợ bỏ chạy. Võ Văn Nguyệt tế ngựa đến chém gãy lá đại kỳ làm hiệu lệnh đổ xuống.

    Nguyễn Văn Hòa, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân dẫn toàn quân Tây Sơn xông vào chém giết. Quân của Nguyễn Hữu Chỉnh thấy đại kỳ đã đổ hoảng sợ bỏ chạy. Nguyễn Hữu Chỉnh chém chết mấy người vẫn không ngăn cản được. Nguyễn Văn Hòa phi ngựa đến đánh với Nguyễn Hữu Du được mấy hiệp liền chém Nguyễn Hữu Du chết lăn xuống chân ngựa. Tham tri chính sự Nguyễn Kim Khuê đứng lượt trận nơi cánh trung quân của Hữu Du cũng chết trong đám loạn quân.

    Bên tả, quân của Dương Đình Tuấn cũng đại bại. Hai con trai của Dương Đình Tuấn bị chém chết tại trận. Thuộc hạ của Dương Đình Tuấn bị chết gần hết, bèn đánh mở đường máu chạy thoát.

    Bên hữu, quân của Nguyễn Hữu Chỉnh cũng bị Phan Văn Lân đánh tan. Nguyễn Hữu Chỉnh biết kế chống không lại bèn đánh tìm đường thoát ra phía sau. Nguyễn Văn Hòa dẫn mấy mươi kỵ binh gắn sức đuổi theo. Lại lấy súng điểu thương nhăm bắn. Ngựa của Nguyễn Hữu Chỉnh trúng đạn, hất Nguyễn Hữu Chỉnh ngã xuống. Nguyễn Văn Hòa liền áp đến bắt sống Nguyễn Hữu Chỉnh giải về. Trận này quân nhà Lê đại bại, bị chết, bắt sống, hàng và tan rã hết cả. Chỉ có mỗi một mình Dương Đình Tuấn và đám thuộc hạ cùng Bùi Dương Lịch và Nguyễn Thản chạy thoát.

    Nguyễn Văn Hòa áp giải Nguyễn Hữu Chỉnh về Thăng Long. Vũ Văn Nhậm hay tin cả mừng, thân ra ngoài cửa thành đón. Vũ Văn Nhậm đắc chí, cầm roi ngựa gõ vào đầu Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi: “Hữu quân sao lại đến nổi này?”. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng tức giận mắng chưởi lại Vũ Văn Nhậm là “Thằng con rễ vô chủ”. Tả quân Vũ Văn Nhậm tức giận sai Nguyễn Văn Hòa đem Nguyễn Hữu Chỉnh đem ra pháp trường phanh thây. Đô đốc Ngô Văn Sở xin đem giải Nguyễn Hữu Chỉnh về Phú Xuân giao cho Bắc Bình Vương xử lý. Tả quân Vũ Văn Nhậm không nghe mắng: “Ta đã vâng lệnh đi đánh tên phản tặc, còn phải bẩm báo gì nữa”. Ngô Văn Sở nín lặng lui ra. Đô đốc Nguyễn Văn Hòa liền giải Nguyễn Hữu Chỉnh đem ra pháp trường ngoài Bắc môn để xé xác. Nguyễn Hữu Chỉnh đến lúc chết vẫn không ngớt lời chửi mắng Vũ Văn Nhậm và Tây Sơn. Năm ấy Nguyễn Hữu Chỉnh mới 32 tuổi.

    Dân chúng phủ Phụng Thiên thấy Tây Sơn hành hình Nguyễn Hữu Chỉnh, kẻ thì hả dạ bảo Nguyễn Hữu Chỉnh bị báo ứng do tội đem quân ngoài vào phá nước, người lại thương cho Nguyễn Hữu Chỉnh vì lo cho họ Lê mà cả nhà đều chết. Có người lại thầm chê Tây Sơn quá tàn ác. Chiêu Thống Đế nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh và Dương Đình Tuấn cản hậu mới thoát được đến đất Bảo Lộc, nay hay tin Bằng công Đại Tư đồ Nguyễn Hữu Chỉnh đã thọ hình mà chết. Anh rễ là Tham tri Nguyễn Kim Khuê, con trai là Nguyễn Hữu Du cũng đã chết trận thì mới òa khóc, hối hận những chuyện khi trước thì đã muộn.

    Tương truyền, khi còn trẻ, Nguyễn Hữu Chỉnh có hôm bỏ học đi xem đốt pháo, bị thầy bắt được phạt, Nguyễn Hữu Chỉnh xin làm bài thơ “Vịnh Pháo” để chuộc lỗi:

    “Giấy xanh giấy đỏ cậy tay người
    Bao nả công trình tạch cái thôi!
    Kêu lắm lại càng tan xác lắm
    Trước sau cũng một tiếng trên đời.”


    (âm Nôm, từ kêu và Kiêu giống nhau. Kiêu ở đây ám chỉ kiêu căng)

    Người sau cám cảnh Nguyễn Hữu Chỉnh bị Tây Sơn giết, mới họa thêm bài Vịnh Pháo để nhắc để công lao động đường phố tá nhà Lê của Bằng Trung Công Nguyễn Hữu Chỉnh:

    “Pháo mới kêu to một tiếng đùng
    Hỡi ơi xác pháo đã tan không
    Tiếc thay thân pháo không còn nữa
    Nhưng đã tan ra vạn sắc hồng.”


    Dương Đình Tuấn đem thuộc hạ chạy về đất Yên Thế rồi tìm đến đất Bảo Lạc ra mắt Chiêu Thống Đế. Vua tôi gặp nhau vừa mừng vừa tủi, Chiêu Thống lấy lời phủ dụ, dụ Dương Đình Tuấn huy động dân chúng ở Lạng Giang đắp lũy giữ sông Như Nguyệt. Rồi theo lời của Bằng Trung Công Nguyễn Hữu Chỉnh thảo hịch, sai sứ thần gửi đi gửi khắp các tôi thần nghĩa sĩ đất Bắc Hà để cùng mưu việc đánh Tây Sơn. Bấy giờ tôi thần nghĩa sĩ nhà Lê khắp nơi nổi lên hưởng ứng.

    Ở Đông Bắc, có Trần Quang Châu nổi lên ở đất Gia Định, Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú ở đất Chí Linh. Vũ Dung ở đất Tứ Kỳ, Nguyễn Thế Hiển và Nguyễn Hữu Tế ở đất Thanh Hà, Vũ Trí Hanh ở đất Phượng Nhãn. Tất cả đều mộ nghĩa mà lập nghĩa binh để nổi dậy. Chiêu Thống Đế bèn phong thị thần là Vũ Chiêu làm Tuyên dụ sứ để đi vỗ về, yên ủi các đạo.

    Ở trấn Thanh Hoa, hoàng thân là Lê Duy Trọng, Lê Duy Phác vốn đã vâng mật chiếu về quê chiêu binh từ trước, nay được chiếu lệnh, đem quân nổi dậy đánh phá khắc nơi trong trấn. Phiên tù là Bằng quận công ( ) và Thổ hào là Nhâm Vũ ( ) đem hết của cải, gia đinh ra giúp sức.

    Hoàng đệ Lê Duy Chi dấy quân ở Định Châu, Phiên mục, thổ hào ở Thái Nguyên và Tuyên Quang đều hưởng ứng

    Hoàng thân là Quận công Lê Duy Hải (Hải quận công) trước trấn giữ Thái Nguyên, sau nghe tin Thăng Long bị Tây Sơn chiếm, bỏ về vùng Tư Nông và Đồng Hỷ, bí mật chiêu dụ thổ hào các đất ấy dấy quân để đánh nhau với Tây Sơn.

    Đinh Nhạ Hành lập hương binh ở quê nhà là Hàm Giang, thuộc huyện Cẩm Giàng, là dòng dõi thái phó Đinh Văn Phục.

    Ở Sơn Nam, Hoàng Viết Tuyển nắm giữ cũng gửi thư xin theo giúp
     
  16. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi: ??

    Điện Đan Dương, Quang Trung thác con côi
    Hồ Tây Cảnh, Cảnh Thịnh nhận quốc phong


    Quang Trung Đế thấy bệnh mình ngày càng trầm trọng, tự biết không thể qua khỏi bèn triệu các đại thần về lo việc hậu sự về sau. Bấy giờ Đại Tư mã Ngô Văn Sở đang ở Bắc Hà, đang có nhiều việc nên không triệu về. Các tướng Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết .. đều đang trấn nhậm ở các trọng trấn thuộc Bắc Hà. Trọng thần trong triều thì có Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ, Trung thư sảnh Nguyễn Văn Danh, Ngự tiền Đô Tổng quản Phạm Công Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn …. Đô đốc Nguyễn Văn Lộc giữ Quãng Nam. Đô đốc Đặng Tiến Đông và Lê Trung giữ Nghệ An. Trấn thủ Nghệ An Đại đô đốc Trần Quang Diệu được chiếu triệu về, vội bàn giao công việc lại cho hai tướng Đặng Tiến Đông và Lê Trung rồi đi gấp về Phú Xuân.

    Bấy giờ Quang Trung Đế đang nghỉ ở điện Đan Dương. Quang Trung Đế liền cho triệu Thái tử Nguyễn Quang Toản và các đại thần vào điện. Bùi Hoàng Hậu dắt Quang Toản mới được mười tuổi phục lạy trước long sàng. Quang Trung Đế trở Thái tử Quang Toản ứa nước mắt nói:
    - Ta nay đã hết mệnh trời, Thái tử còn nhỏ dại. Phiền các ngươi sớm trông nom, lao động đường phố trợ Thái tử để quét sạch đảng nghịch, giữ nghiệp lớn mà ta đã vất vả gầy dựng.

    Các đại thần đều khóc, phục lạy nói:
    - Chúng thần đâu dám không ra hết sức khuyển mã để báo đáp. Chỉ mong chúa thượng hãy cố bảo trọng để tiếp tục nghiệp lớn.

    Rồi cứ khóc mãi không thôi. Quang Trung Đế thấy vậy thì cười nói:
    - Các ngươi đều là kẻ hào kiệt, bình thường xông vào nơi gươm giáo, mặt không biến sắc. Nay lại học đòi thói đàn bà, con trẻ không khiến người ta chê cười cho à?

    Lại khiến Thái tử Quang Toản lạy bốn vị đại thần phụ chính như bậc sư phó. Bốn viên đại thần ấy là Đại Tổng quản Trần Quang Diệu, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ, Đô Tổng quản Phạm Công Hưng và Trung thư sảnh Nguyễn Văn Danh. Bọn Trần Quang Diệu, Trần Văn Kỷ đều khóc nói:
    - Chúng thần đều là bề tôi, thật không dám nhận lễ.

    Quang Trung Đế răn Thái tử Quang Toản:
    - Sau khi ta mất đi rồi, người phải coi bọn họ như thầy, sớm hôm lắng nghe lời khuyên bảo, nếu làm trái ý ta thì sau này suối vàng đừng có nhìn mặt ta nữa.

    Thái tử Quang Toản cúi đầu vâng dạ. Quang Trung Đế lại gọi Bùi Hoàng hậu đến dặn dò:
    - Ta nay chẳng thể cùng hậu hưởng phúc. Thái tử còn nhỏ tuổi, hãy nên chăm sóc dạy dỗ cho tử tế, đừng nên nuông chiều. Còn các bậc đại thần mà ta sử dụng, đều là người tín cẩn, đừng nên tự ý mà thay đổi.

    Bùi Hoàng hậu khóc mà vâng dạ. Đế lại cho truyền Bắc cung Hoàng hậu Ngọc Hân vào dạy:
    - Ta cùng hậu được tiên đế ban duyên, cứ nghĩ sẽ sớm tối có cùng nhau cho đến trăm năm. Chẳng may mệnh bạc khiến cho hậu phải đơn chiếc. Thái tử và các con còn nhỏ, phiền hậu trông nom dạy dỗ chúng cho nên người.

    Bắc cung Hoàng hậu khóc mãi không thôi. Đế lại cho gọi Hoàng tử Quang Thùy vào dặn dò. Quang Trung Đế nói:
    - Trong số các anh em, ngươi là người lớn nhất, lại thay mặt ta đi sứ phương bắc. Nay em ngươi còn nhỏ, vâng mệnh mà nối ngôi. Ngươi hãy lao động đường phố giúp em người để giữ yên cơ nghiệp. Đừng có bắt chước ta khi trước, đem quân đánh người thân khiến thiên hạ chê cười. Vạn nhất có kẻ nào xúi bẩy thì chém chết ngay đi. Nếu trái lời ta thì sau này đừng có gọi ta là cha.

    Hoàng tử Quang Thùy khóc xin vâng mệnh. Các đại thần nghe thấy lời dạy đều khóc.

    Quang Trung truyền cho Thái tử và các Hoàng hậu lui về phủ, lưu các đại thần ở lại để phó thác việc về sau. Quang Trung Đế lại dặn dò các đại thần:
    - Sau khi ta mất, hãy lập Thái tử tức vị ngay lập tức. Còn việc tống táng hãy làm cho thật mau lẹ, nội trong một tháng. Sau khi ta chết hãy dời đô về Trung đô ở Nghệ An để khống chế thiên hạ. Nếu trái lời. vạn nhất quân nam trở lại, các người sẽ chết không có đất chôn.

    Trần Quang Diệu, Trần Văn Kỷ, Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Danh đều vâng mệnh. Quang Trung Đế nhìn khắp các đại thần rồi ngữa mặt lên trời than:
    - Tiếc thay không có Võ Văn Dũng ở đây để ta dặn dò hắn vài lời.

    Lại cho gọi Hộ giá Nguyễn Văn Huấn đến dặn:
    - Chiếu thư ta đã thảo sẵn. Sau khi ta mất hãy đem thư vào báo tang cho hoàng huynh ta ở Hoàng Đế. Ta cũng đã có mật thư, hãy đem cho Nguyễn Văn Lộc ở Quảng Nam theo đấy mà làm.

    Nguyễn Văn Huấn tuân mệnh. Quang Trung Đế liền sai người giết một con ngựa trắng để cùng các đại thần ăn thề. Đấy là theo các của Hán Cao Tổ Lưu Bang trước khi lâm chung để răn các đại thần cùng nhau đồng lòng giúp sức cho nghiệp lớn.

    Đêm ấy, Quang Trung Đế băng trong cung Đan Dương, hưởng dương 40 tuổi.

    Người đời sau có thơ khen:

    Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân làm bài Ai tư vãn thương tiếc Quang Trung Đế

    “Gió hiu hắt, phòng tiêu lạnh lẽo,
    Trước thềm lan hoa héo ron ron!
    Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
    Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu!
    Nỗi lai lịch dễ hầu than thở,
    Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?
    Sầu sầu, thảm thảm xiết bao,
    Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời!
    Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
    Nghĩa tôn lao động đường phố vằng vặc bóng dương,
    Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
    Thuyền lan, chèo quế thuận đường vu qui.
    Trăm ngàn dặm quản chi non nước,
    Chữ nghi gia mừng được phải duyên,
    Sang yêu muôn đội ơn trên,
    Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.
    Lượng che chở, vụng lầm nào kể,
    Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời,
    Dầu rằng non nước biến dời,
    Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.
    Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
    Khắp tôn thân cũng đội ơn sang,
    Miếu đường còn dấu chưng thường,
    Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
    Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế,
    Đượm hơi dương, dây rễ cùng tươi.
    Non Nam lần chúc tuổi trời,
    Dâng câu thiên bảo, bày lời Hoa phong.
    Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
    Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui,
    Nào hay sông cạn, bể vùi,
    Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly!
    Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
    Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên!
    Xiết bao kinh sợ lo phiền,
    Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
    Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước.
    Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
    Ngán thay, máy Tạo bất bằng!
    Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!
    Cuộc tụ, tán, bi, hoàn kíp bấy!
    Kể sum vầy đã mấy năm nay?
    Lênh đênh chút phận bèo mây,
    Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu!
    Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
    Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
    Trong mong luống những mơ màng,
    Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.
    Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng,
    Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu:
    Vội vàng sửa áo lên chầu,
    Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện chăng!
    Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
    Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi:
    Vội vàng dạo bước tới nơi,
    Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa!
    Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
    Mặt rồng sao cách dán lâu nay!
    Có ai chốn ấy về đây,
    Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được lành?
    Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
    Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen!
    Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
    Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.
    Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
    Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao;
    Mà nay áo vải, cờ đào,
    Giúp dân, dựng nước biết bao công trình!
    Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
    Công đức dày, ngự vận càng lâu;
    Mà này lượng cả, ơn sâu,
    Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.
    Công dường ấy mà nhân dường ấy,
    Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?
    Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
    Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
    Buồn thay nhẽ! sương rơi, gió lọt,
    Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa!
    Tưởng lời di chúc thiết tha,
    Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê!
    Buồn thay nhẽ! xuân về, hoa ở,
    Mối sầu riêng ai gỡ cho xong!
    Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
    Trên rường nào ngại, giữa dòng nào e.
    Còn trứng nước thương vì đôi chút,
    Chữ tình thâm chưa thoát được đi!
    Vậy nên nấn ná đòi khi,
    Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;
    Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo,
    Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
    Theo xa thôi lại theo gần,
    Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
    Đương theo, bỗng tiếng gà sực tỉnh,
    Đau đớn thay, ấy cảnh chiêm bao!
    Mơ màng thêm nỗi khát khao,
    Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi!
    Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
    Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai.
    Xưa sao sớm hỏi, khuya bày,
    Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.
    Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ!
    Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu?
    Xưa sao gang tấc gần chầu,
    Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca,
    Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
    Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh!
    Nửa cung gẫy phím cầm lành,
    Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!
    Nghĩ nông nỗi, ngẩn ngơ đòi lúc,
    Tiếng tử qui thêm giục lòng thương!
    Não người thay cảnh tiên hương!
    Dạ thường quanh quất mắt thường ngóng trông.
    Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
    Thấy mênh mông những nước cùng mây!
    Đông rồi thì lại trông tây:
    Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà!
    Trông nam: thấy nhạn sa lác đác!
    Trông bắc: thấy ngàn bạc màu sương!
    Nọ trông trời đất bốn phương,
    Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi!
    Cậy ai có phép gì tới đó,
    Dâng vật thường, xin ngỏ lòng trung:
    Này gương là của Hán cung,
    Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.
    Duyên hảo hợp xót rày nên lẻ!
    Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu?
    Xin đưa gương ấy về chầu,
    Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.
    Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
    Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
    Cung xanh đang tuổi ấu sung,
    Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương?
    Gót lân chỉ mấy hàng lẩm chẩm,
    Đầu mũ mao, mình tấm ái gai!
    U ơ ra trước hương đài,
    Tường quang cảnh ấy chua cay dường nào!
    Trong sáu viện ố đào, ủ liễu,
    Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê!
    Long đong xa cách hương quê,
    Mong theo: lầm lối; mong về: tủi duyên!
    Dưới bệ ngọc, hàng uyên vò võ,
    Cất chân tay thương khó xiết chi!
    Hang sâu nghe tiếng thương bi,
    Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân?
    Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
    Mạch sầu tuôn, ai tát cho vơi!
    Càng trông càng một xa vời,
    Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?
    Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi:
    Gương Hằng Nga đã bụi màu trong!
    Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
    Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.
    Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn:
    Cánh hải đường đã quyện giọt sương!
    Trông chim càng dễ đoạn trường:
    Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.
    Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy.
    Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu!
    Phút giây bãi biển nương dâu,
    Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?
    Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
    Nỗi đoạn trường còn sống, còn đau!
    Mấy lời tâm sự trước sau,
    Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho


    Chiêu Viễn Hầu Đại đô đốc Võ Văn Dũng đang đi sứ nhà Thanh ở Trung Quốc được tin khóc ngất, sau làm bài thơ tỏ tấm lòng:

    Bố y phấn tích ngũ niên trung
    Mai cổ thi vi tự bất đồng
    Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ
    Bất ư Đường Tống thuyết anh hùng


    Dịch nghĩa:

    Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
    Thời trước thời sau khó sánh cùng
    Trời để vua ta thêm chục tuổi
    Anh hùng Đường Thống hết khoe hùng



    La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đang giữ chức Viện trưởng Sùng Chính Viện viết:
     
  17. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Mục chương Việt Nam Đại Chí Diễn Nghĩa

    Phi Lộ

    Hồi 1:
    Lê Hiển Tông cầu an nơi điện ngọc
    Tĩnh Đô Vương mưu lược định sơn hà


    Hồi 2:
    Nơi ngoại trấn, phiên bang gây hấn
    Chốn nội đình, quốc thích làm càn


    Hồi 3:
    Nguyễn Đình Huấn thống lãnh quân Tam Đạo
    Trình Quốc Anh xâm phạm đất Hà Tiên


    Hồi 4:
    Tuần phủ tham tài mở Vân Đồn
    Anh hùng vì nghĩa làm Biện Lại


    Hồi 5:
    Phá Tạm Vạn, Đoàn Thống lãnh nổi danh
    Mất Trấn Ninh, Lê Đế tử tự sát


    Thất đại thần vâng chỉ lập ấu vương
    Tam phủ binh làm loạn lao động đường phố trưởng tử




    Lập trai đàn, Phạm Quận công chịu khổn
    Dụng gián thư, Nguyễn Tiết chế lấy Phú Xuân


    Dụng thủy quân, Nguyễn Hữu quân chiếm Vị Hoàng
    Sử kỳ binh, Vũ Tả quân đoạt Sơn Nam


    Nhận nhất thống, Lê Hiển Tông xuống chiếu
    Nghĩa tôn phù, Tây Nguyên soái lên xe


    Điện Kính Thiên, nhị đế tương phùng
    Lầu Tiên Tích, đôi tướng chia cách


    Long Nhương Quân lập mưu cướp binh quyền
    Tây Sơn Vương trúng kế về bản thổ



    Đắp Hoàng thành, Tây Sơn Vương lên ngôi đế
    Luyện Hùng binh, Long Nhương quân nhận phong vương


    Giữ nghiệp đế, họ Lê mưu nhất thống
    Tranh ngôi vương, tộc Trịnh rắp nhị tâm




    Truyền Vũ hịch, Nguyễn Hữu Chỉnh tuyển quân
    Lập Đại trống, Phan Huy Ích làm tướng



    Chiêu Thống Đế ra tay đốt Liêu phủ
    Bằng Trung Công cậy công lập Tứ thành



    Dương Trọng Tế vô mưu phải giết
    Hoàng Phùng Cơ cậy dũng bại vong


    Trần Bình Chương nhất ý giữ lòng son
    Long Nhương Tướng nhị tâm giết thần sứ


    Vũ Văn Nhậm đem quân đánh Bắc Hà
    Nguyễn Hữu Chỉnh thu binh về Kinh Bắc


    Bằng Trung Công tận trung tử tiết
    Chiêu Thống Đế mưu sự trung hưng


    Bắc Bình Vương ra tay giết Tả Quân
    Trần Trung Thư nhanh chân tiến Thị Lang


    Chiêu Thống Đế ba phen dấy nghĩa quân
    Đại Tư Mã bốn lần ra binh mạnh





    Cậy kiêu dũng, Phan Nội hầu phải thua chạy
    Khích cường binh, Ngô Thị Lang bàn kế thủ


    Đất Bân Sơn, Bắc Bình Vương lên ngôi đế
    Chốn Hồng Thủy, Quang Trung Đế duyệt tuyển quân



    Tam Điệp Khẩu, Quang Trung Đế phát binh
    ,

    Đánh Loa Sơn, Sầm Nghi Đống tự ải
    Công Hạ Đồn, Hứa Thế Hanh tử thương


    Tôn Đề Đốc thua chạy về cõi bắc
    Quang Trung Đế mưu thu phục đất nam






    Quang Trung Đế mưu lấy đất Lưỡng Quảng
    Phụ Nguyễn Vương khôi phục trấn Gia Định


    Đánh Bình Thuận, chúng tướng bất hòa
    Dựng Trung Đô, chúa tôi hợp sức


    Lê Văn Quân cậy khỏe đánh Diên Khánh
    Võ Hậu Dinh dựa thân về Gia Định


    Phá Phan Rí, Nam binh đắc thắng
    Dựng Lam Lũy, Trung quân thu binh


    Nghị lỗi, Võ Hậu quân giáng chức
    Mắc tội, Lê Tiền quân tự sát


    Dẹp Ai Lao, Phú Xuân phát cường binh
    Đánh Trung Ương, Gia Định duyệt đại quân


    Đất Bảo Lạc, Lê Duy Chi bị bắt

    Đất ,, Chiêu Thống Đế chịu nhục

    Đốt Thị khẩu, Nguyễn Vương dụng kỳ binh
    Phát Hịch triệu, Quang Trung họp đại quân


    Điện Đan Dương, Quang Trung thác con côi
    Hồ Tây Cảnh, Cảnh Thịnh nhận sắc phong


    Võ Tánh phát binh đánh Diên Khánh
    Nguyễn Quang Huy ra sức giữ Phú Yên


    Đánh Quy Nhơn, Nguyễn Gia Vương thêm binh
    Giữ Diên Khánh, Phạm Văn Điềm tổn tướng


    Đánh Đê Phụ, Đào Văn Hổ bị bắt
    Hãm Lệ Dương, Nguyễn Công Thái chịu hàng


    Cầu Phú Xuân, Lê Chất vượt trùng vây
    Cứu Hoàng Đế, Cảnh Thịnh phát binh hùng


    Hoàng Đế Thành, Thái Đức Đế mạng vong
    Thị Nại Khẩu, Lê Đô đốc cãi lệnh


    Đắp Diên Thành, Đặng Trần Thường bàn kế thủ
    Dựng Lương trạm, Lê Văn Duyệt liệu chỉnh quân


    Học Vũ Hầu, Ngô Tòng Châu dụng kế
    Noi Thái Giáp, Đông Cung Cảnh cầm binh


    Lê Thống tướng định kế lấy Phú Yên
    Đông Nguyên soái trù mưu giữ Bình Thuận


    Dối chúa, Bùi Thái Sư lộng quyền
    Trái ý, Trần Trung thư bị biếm


    Vây Thiền Lâm, Vũ Tư Khấu họp tướng
    Dìm Hương Giang, Ngô Tư Mã lầm mưu


    Vạch Hương Giang, Nhị tướng đối binh
    Chung Ấu quân, Tứ thần chịu mệnh


    Trần Thái phó sợ hãi phòng nguy
    Phạm Thái úy lo âu thọ tử


    Lầm tôi nịnh, Nguyễn Thống tướng chết oan
    Chán quyền thần, La Phu Tử trả chức



    Nghe thân mẫu, Nguyễn Bảo lấy Quy Nhơn
    Ngờ chúng tướng, Cảnh Thịnh đánh

    Ngờ phản loạn, Lê Tư lệ chịu hàm oan


    Giận Tây Sơn, Lê Đô đốc về hàng nam

    Hạ Hoàng Đế, cãi tên thành Bình Định


    Dụng hỏa công, Lê Tả quân đốt Thị Nại khẩu
    Đắp trường lũy, Trần Thái phó hãm Bình Định thành


    Đặng Tham tán bày kế lấy cựu đô
    Lê Tiền quân gắng sức đuổi cố chủ


    Giữ cô thành, Võ – Ngô tử tiết
    Tha hàng quân, Trần – Võ rạng danh


    Cải niên hiệu, Bửu Hưng quyết phục thù
    Yết tôn miếu, Nguyễn Vương thề rửa hận


    Thua Trấn Ninh, Tây Sơn quân nhụt chí

    Bỏ Quy Nhơn, nhị tướng đem quân về đất Bắc

    Thành Thăng Long, Tú Đức hầu tận trung
    Đất Bảo lạc, Nguyễn Tuyên Công tự ải


    Lễ Hiến Phù, danh tướng thành thần
    Nghị Văn Miếu, văn sĩ giữ tiết


    Đặt Quốc Hiệu, ra nền nhất thống
    Đúc Thần Công, tỏ rỏ hùng uy


    Hồi Kết:
    Giết công thần, đế vượng hẹp lượng
    Lập Thế tử, bất hảo đại thần



    Còn một số hồi nữa cần phải suy nghĩ cách để đặt tên chương. Sẽ up date sau!
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/1/11
  18. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi :

    Đánh Bình Định, Gia Định lại xuất quân
    Giữ Quy Nhơn, Phú Xuân thêm binh viện


    Tháng 4 Năm Đinh Tỵ (1797), Nguyễn Vương lại đem quân Gia Định xuất chinh. Lấy tướng Cai cơ Nguyễn Văn Nhân, Hộ bộ Phan Thiên Phúc, Trương Đức Khoan, Lễ bộ Ngô Tòng Châu theo quân làm Tham biện cơ vụ, Tham tri Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế và Nguyễn Văn Phú đem thủy quân chở lương tiền theo sau. Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh cũng theo phụ vương xuất chinh. Lưu Đại tướng Tiền quân dinh Tôn Thất Hội ở lại trấn giữ Gia Định.

    Quân Nam Hà tiến đến bãi Cù Mông, trấn [], lệnh cho Đại tướng Hữu quân dinh Hoàng Tường Đức đem binh sĩ bản bộ quân hữu dinh cùng ngự giá đi đánh giặc. Hai Phó tướng Hữu quân dinh là Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Lợi ở lại trấn giữ thành Diên Khánh.

    Đại tướng Thủy quân dinh Nguyễn Văn Trương đem thủy binh mấy trăm chiến thuyền công phá cảng Tiên Châu ở địa đầu trấn trấn Phú Yên. Đô đốc thủy binh Tây Sơn đóng ở đấy là [Nguyễn Văn] Thiêm thua chạy. Nguyễn Văn Trương thừa thắng lại đem binh thuyền đánh tiếp cảng Đạm Thủy trấn Bình Định. Đô đốc thủy binh Tây Sơn [Nguyễn Văn] Tính cũng đem binh thuyền rút lui về Thị Nại Khẩu. Nguyễn Văn Trương nhân thuận gió đánh cướp được sáu chiến thuyền của thủy binh Tây Sơn.

    Đại tướng Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành và Đại tướng Hậu quân dinh Võ Tánh thấy thủy binh đã đắc thắng, không lo bị thủy quân Tây Sơn quấy rối, lập tức cập thuyền vào địa đầu Phú Yên, đốc quân đổ bộ lên bờ đánh phá. Mấy vạn quân ồ ạt tiến đánh tiền đồn quân Tây Sơn ở chợ Hội An, đô đốc Tây Sơn [Nguyễn Văn] Hiếu ít quân, không dám giao chiến, đem binh lùi về La Thai cố thủ.

    Nguyễn Vương ban lệnh cho toàn bộ thủy binh đến đánh phá Thị Nại Khẩu. Các tướng Nguyễn Văn Trương, Vũ Di Nguy, ..[] ngày đêm đem chiến thuyền bắn phá cửa biển Thị Nại. Đại Tư lệ Lê Trung cùng các tướng thủy quân là bọn đô đốc Lê Chất, … chia nhau đóng chặn các chổ hiểm yếu, ngăn cản quân Nam Hà tiến sâu vào bờ.

    Thế thủy quân Nam Hà quá lớn, đại pháo trên thuyền thi nhau bắn vào chiến thuyển của Tây Sơn đậu ở vòng ngoài. Đô đốc thủy binh Tây Sơn Lê Chất phải rút các đại thuyền vào sâu trong cảng, cùng với đại pháo trên bờ nổ súng thần công chống trả.

    Đại Tư Lệ Lê Trung lại sai các tướng Lê Chất, đêm đêm lại kéo chiến thuyền ra đánh úp, thủy binh Nam Hà đêm tối không dám đem thuyền ra giao chiến, chỉ nổ súng đáp trả. Đến sáng thủy quân Tây Sơn lại thu binh vào cửa sông để phòng thủ.

    Tướng Chưởng cơ Nguyễn Văn Nhân bàn:
    - Nay bọn Lê Trung giữ chặt Thị Nại, thủy quân chưa thể công phá ngay được. Mặt bộ ở Phú Yên các tướng Võ Tánh, Nguyễn VĂn Thành vẫn chưa có tin báo về. Đem toàn bộ thủy quân đóng mãi ở đây cũng không phải là kế hay. Chi bằng hãy chia bớt binh đi đánh Quảng Nam. Hễ thủy quân Tây Sơn rút đi thì ta sẽ thừa cơ đánh cửa Thị Nại.

    Nguyễn Vương khen phải, bèn để Nguyễn Văn Trương đem thuyền binh đánh cửa Thị Nại, còn mình tự đem 100 chiến thuyền cùng hơn năm vạn quân cùng các tướng Nguyễn Văn Nhân, [] tiến ra đánh dinh Quảng Nam.

    Nguyễn Văn Nhân đem thủy binh vào đánh cửa Đà Nẵng. Thống lĩnh thủy binh Tây Sơn là Đặng Văn Chân đem hết chiến thuyền lùi sâu vào trong cảng để chống giữ. Trên bộ, Thái bảo Nguyễn Văn Huấn, đem bộ binh dàn dọc bờ biển, chốt chặn mọi nơi hiểm yếu để cùng thủy quân làm kế tương hỗ.

    Nguyễn Văn Nhân lại sai Vũ Di Nguy đem chiến thuyền dàn dọc bờ biển, rồi sai bộ binh dùng thuyền nhỏ đáp vào bờ để tiến đánh. Các đô đốc Tây Sơn đem bộ binh ra cản đều bị pháo thần công từ chiến thuyền bắn phải lui. Nguyễn Văn Nhân sai quân đổ bộ vào lập tức lập doanh trại để chỉnh đốn. Quân hai bên ngày đêm đem quân cùng nhau giao chiến.

    Nguyễn Văn Trương thấy Đại Tư lệ Lê Trung giữ cửa Thị Nại quá chặt bèn để lại một số chiến thuyền ngoài cửa biển nghi binh, còn lại cùng các tướng dưới quyền là Vệ úy Nguyễn Văn Thịnh, Chánh vệ Trần Văn Tứ và Cai cơ Trần Văn Búa đem thủy binh ruỗi đến mũi đât Cu Đê, lên bờ tiến đến sát Hải Vân Quan, chia nhau lựa chổ hiểm đặt đồn để phòng chống quân cứu viện Phú Xuân.

    Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản hay tin quân Gia Định chia đường thủy bộ đánh Quy Nhơn, rồi lại được liền mấy tin cấp báo quân Nam đã tiến đánh Quảng Nam, tiến sát Hải Vân Quan thì cả sợ liền triệu các tướng bàn tính.

    Thái phó Trần Quang Diệu bầy giờ đương ở tư dinh, hay tin cũng đến dự bàn. Cảnh Thịnh Đế toan dùng Trần Quang Diệu, nhưng các tướng Vũ Văn Dũng, Phạm Công Hưng cùng các quan Nội hầu Lê Văn Lợi, Lê Văn Ứng đều sợ Trần Quang Diệu nắm đại quyền bèn xin với Cảnh Thịnh Đế cho Trần Quang Diệu đem bộ binh ra giữ Eo Khẩu đề phòng quân Nam tiến đánh Phú Xuân mà giao cho Đô đốc Lê Văn An đem hai vạn binh Phú Xuân vào Quảng Nam cứu viện.

    Lê Văn An bấy giờ mới hơn hai mươi tư tuổi, nổi tiếng là gan dạ trong các tướng trẻ của Tây Sơn. Lê Văn An liền cùng các tướng đem hai vạn quân vào Quảng Nam để cùng các tướng chống địch. Lê Văn An tự đem bộ binh theo đường lớn tiến ra cứu Chiêm Dinh và Đà Nẵng, còn Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ dẫn các tướng thủy quân và hợp với thủy binh của Tề Ngôi kéo đi cứu Đà Nẵng.

    Nguyễn Vương hay tin Phú Xuân đã đem viện binh vào cứu, lập tức sai người đi thuyền báo tin cho Võ Tánh ở Phú Yên. Sứ thần đến Phú Yên, Võ Tánh xem thư thì thấy đại ý nói:
    “ Giặc đem đem hết quân ra giữ Đà Nẵng, Chiêm Dinh không có phòng bị. Khanh nên kíp tiến cùng Đông cung chiếm đoạt đất ấy, rồi sau đem quân ra mặt sau Đà Nẵng, như thế thì quân giặc sau lưng trước bụng đều bị đánh, lấy dễ như trở bàn tay”

    Võ Tánh liền để Nguyễn Văn Thành ở lại đánh Phú Yên, còn mình đem toàn bộ quân Hậu dinh theo đường biển rút đi hội với quân của Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh để cùng đánh Chiêm Dinh.

    Bấy giờ Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh đã phá xong đồn phòng vệ của Tây Sơn ở chợ Đông An, Hội An, cho quân sĩ lên bờ để đắp đồn chuẩn bị đánh quân Phú Xuân cứu viện.
    Võ Tánh rút quân theo đường biển, đi gấp đến Chiêm Dinh, đến cửa Đại Chiêm thì gặp chiến thuyền của Tây Sơn đang trên đường đi cứu Đà Nẵng. Bấy giờ Võ Tánh đem theo khoảng mười chiến thuyền đi trước, các tướng Tề Ngôi là là Dương Khả Đại, Dương Long Phát thấy quân Nam ít thuyền, đem hơn bốn mươi chiến thuyền vây bọc đón đánh. Võ Tánh sai quân sĩ vừa đánh vừa lùi dần để đợi đại đội chiến thuyền ở sau kéo đến tiếp cứu. Lát sau, đại đội chiến thuyền quân Nam ồ ạt rẽ sóng lướt đến. Các tướng Tề Ngôi kinh hoãng, quay thuyền toan tìm đường thoát. Thủy binh quân Nam liềm đem thuyền nhỏ rượt theo để ngăn chặn. Các tướng Dương Khả Đại, Dương Long Phát cùng toàn bộ binh sĩ với hơn 30 chiến thuyền đều bị quân Hậu dinh của Võ Tánh bắt sống.

    Đô đốc thủy binh Tây Sơn Nguyễn Văn Ngũ đem chiến thuyền tiến phía sau, thấy đại đội chiến thuyền của quân Nam ồ ạt lướt đến, cũng không dám tranh chiến phải từ từ lùi lại về sau.

    Đại Tư lệ Lê Trung thấy thủy quân Gia Định ngày càng ít công phá Thị Nại, biết thủy quân đối phương đã rút đi đánh nơi khác, kịp nhe tin báo nguy của Quảng Nam bèn đem đội đội chiến thuyền toan đón đánh mặt sau quân Gia Định, đồng thời chia thủy binh đi đánh chiếm lại bảo Hội An. Nguyễn Vương lại sợ tài của Lê Trung, thừa cơ bất thần đánh nơi trọng yếu, bèn cho người đưa tin cho Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ở Phú Yên lùi về giữ Bình Khang để giữ nơi căn bản.

    Lê Văn An đem hơn một vạn quân theo đường bộ tiến đến gò đất Phú Gia. Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh đã đắp xong đồn ở các nơi hiểm yếu, Đại tướng Thủy quân Nguyễn Văn Trương cũng đã đem viện binh đến nơi, chia nhau giữ các mặt.
    Nguyễn Văn Trương sai Nguyễn Văn Thịnh đem binh ra đánh nhử, còn mình cùng Trần Văn Tứ và Trần Văn Búa đem binh phục ở ba mặt. Lê Văn An đốc binh đến đánh, Nguyễn Văn Thịnh rút chạy rồi ba mặt phục binh nổi lên đánh giết. Lê Văn An cố sức chống giữ, rồi chia binh đánh phục binh. Nguyễn Văn Trương cùng các tướng thấy quân Phú Xuân đánh rát quá phải rút vào đồn để cố thủ. Lê Văn An kiểm lại binh thấy bị chết và bị thương hơn hai ngàn, đành rút về đất Cu Thai, để tính kế khác.

    Võ Tánh kéo quân đến Đại Chiêm đuổi thủy binh của Tây Sơn đi xong thì đem quân đến hội với Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh. Tham tri Binh bộ là Hồ Văn Định, người đất Mỹ Khê ở đó liền nói:
    - Xin hãy chia quân vượt sông đánh úp ngã sau, còn Đông cung thì đem binh đi đánh viện binh của chúng ở La Qua.

    Võ Tánh theo lời liền để quân hư trương thanh thế mặt trước còn mình thì dẫn bộ binh vượt sông đánh Tiết độ Nguyễn Văn Giáp, hẹn thấy pháo nổ thì hai mặt cùng tiến. Còn Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh thì đem quân bộ thuộc đến La Qua, chọn đường hiểm đặt phục binh để đánh.

    Võ Tánh dẫn quân qua sông lập tức tiến đến mặt sau của danh trại quân Tây Sơn rồi nổ pháo làm hiệu. Tiết độ Nguyễn Văn Giáp dẫn quân ra phía trước sông chống cự, lập tức Võ Tánh đem binh đánh úp doanh trại. Hai mặt trước sau nổ sung, quân Tây Sơn hoảng hốt bỏ chạy.

    Tượng binh của Tây Sơn đóng ở La Qua thấy Mỹ Khê có tiếng súng giao tranh lập tức đem mấy ngàn quân cùng mấy chục thớt voi đi cứu. Đến chổ đất phục, Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh liền nổ súng làm hiệu, quân phục bốn mặt nổi dậy. Mấy ngàn quân cứu binh đều bị giết, số còn lại đều bỏ chạy tứ tán. Mấy chục thớt voi cũng trúng đạn phục mà chết.

    Nguyễn Vương thấy cả hai mặt thủy binh và bộ binh cứu viện của Tây Sơn đều đã thua thì mừng rỡ, sai tướng là Phạm Văn Nhân đem thêm chiến thuyền giữ chặt cửa Đại Chiêm rồi cho hai tướng là Võ Bá Diên và Nguyễn Công Thái đem bộ binh lên bờ hợp binh với Võ Tánh và Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh. Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh liền sai Võ Bá Diên đem quân cùng mình đóng đồn ở Phú Chiêm, còn Nguyễn Công Thái thì đóng đồn ở Tam Thai. Võ Tánh vẫn đóng giữ Mỹ Khuê. Quân ba hướng Phú Chiêm, La Qua, Mỹ Khê chỉ đợi quân Tây Sơn ở Quảng Nam sơ hở là đánh úp mặt sau.

    Nguyễn Vương thấy Nguyễn Văn Nhân đánh Đà Nẵng mãi chưa được liền sai Vệ úy Nguyễn Văn Khiêm và Olivi (người Phú Lãng Sa) đem binh thuyền đến trợ chiến. Olivi đến nơi liền sai người đóng hơn hai mươi chiếc thuyền sam bản, đầu mũi đóng cọc nhọn để đâm vào thuyền đối phương, trên thuyền chứa đầy rơm rạ, lưu huỳnh và thuốc nổ. Đến đêm, các tướng sai quân tâm chiến, cưỡi thuyền thuận dòng xông vào thủy trại của Tây Sơn rồi châm lữa phóng hõa. Thuốc súng bốc cháy gặp đồ dẫn hỏa đều bốc cháy bùng lên, chiến thuyền Tây Sơn đều bắt hỏa, thủy trại rối loạn. Các tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Giáp và Đặng Văn Chân phải bỏ thủy trại kéo quân lên bờ đễ giữ.

    Đại Tư lệ Lê Trung đem thủy binh ra cửa Thị Nại đuổi theo thủy binh của Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Vương. Lại sai Đại đô đốc Lê Chất và Đoàn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn Xuân và [Nguyễn Văn] Hàn đem hai ngàn quân cùng 40 thớt voi đi cứu viện cho Quảng Nam. Thái bảo Nguyễn Văn Huấn thấy cứu binh đã đến, liền đem quân ra đánh.

    ---------- Post added at 12:08 ---------- Previous post was at 11:54 ----------

    Hồi:
    Phù Ly Công mưu toan phục vị
    Tam Phủ Vương ứng nghĩa dấy quân


    Bấy giờ Tham tán Từ Văn Tú theo việc binh ở Quy Nhơn. Từ Văn Tú nguyên là tướng dưới quyền của Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc khi trước. Khi Thái úy Phạm Công Hưng và Hộ giá Nguyễn Văn Huấn (nay thăng Thái bảo) vào thành Hoàng Đế thì các tướng Quy Nhơn của Thái Đức đều bị tước binh quyền. Đến khi Thái Đức Đế mất rồi, Thái tử Nguyễn Bảo bị phế làm Phù Ly Công, các tướng cũ của Quy Nhơn đều bất bình. Từ Văn Tú cùng các tướng là Đoàn Văn Cát, Nguyễn Văn Thiệu, Lê Chất đã ngầm mưu đánh úp thành Hoàng Đế để giết các tướng Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn nhưng sau nhờ Đại Tư Lệ Lê Trung và Đại Thống tướng Lê Văn Hưng can ngăn nên việc mới không thành. Tham tán Từ văn Tú cùng các tướng Quy Nhơn của Thái Đức đều được cho giữ chức nhưng binh quyền đều bị cắt nen lòng ất uất hận, đến nay vì quân Nam đánh rát nên mới được khởi phục lưu dụng.

    Tham tán Từ Văn Tú gửi mật thư đến quân Nam xin hàng. Nguyễn Vương bàn với Lễ bộ Ngô Tòng Chu. Ngô Tòng Chu đáp:
    - Một mình Từ Văn Tú về hàng thì Tây Sơn cũng chẳng yếu đi mà quân ta cũng chẳng mạnh lên được. Thần có cách này khiến cho Tây Sơn không đánh cũng phải tự tan.

    Nguyễn Vương bèn hỏi kế sách, Ngô Tòng Chu đáp:
    - Quy, Quảng, Phú, Bình vốn là địa bàn cai quản của Nguyễn Nhạc. Xưa Nguyễn Huệ chiếm Quảng Nam, chúng tướng Quy Nhơn đã bất bình nhưng còn sợ uy của Huệ và sợ quân uy Đại vương nên không dám hai lòng. Đến khi Quang Toản chiếm Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc uất ức mà chết, Nguyễn Bảo bị phế, chúng tướng của Tây Sơn đều thất vọng. Nếu nay bệ hạ chiêu hàng được Nguyễn Bảo thì Tây Sơn không đánh cũng có thể chế thắng được.

    Nguyễn Vương đáp:
    - Ta với Nhạc, Huệ có mối thù bất cộng đái thiên, sao có thể chiêu hàng con cháu của chúng được.

    Ngô Tòng Chu đáp:
    - Bậc đế vương mưu cầu đại nghiệp thì phải biết bỏ qua oán thù, rộng lòng với kẽ sĩ, tha thứ cho kẻ tiểu nhân. Nếu đại vương lấy sự báo thù làm trọng thì thiên hạ cũng sợ hãi, cố chết chống giữ. Chừng đó, quân sĩ hai bên còn phải gắng sức chiến đấu, thắng bại chưa biết về tay ai, mà mối thù của Đại vương cũng chưa chắc có thể trả được.

    Nguyễn Vương trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu rồi đáp:
    - Ta muốn chiêu hàng Nguyễn Bảo,chỉ hắn chưa chắc đã chịu nghe mà thôi.

    Ngô Tòng Chu bèn đáp:
    - Thần có thể lo liệu việc đó.

    Bèn lấy giấy bút thảo một bức thư đại ý nói “Ta đem đại quân trước lấy Quảng Nam, sau sẽ tiến đánh Quy Nhơn. Ngươi muốn báo thù cho cha ngươi thì hãy chiêu tập quân cũ, chờ đợi dưới thành. Đợi đến khi quân ta tiến đến thì giết Lê Trung chiếm thành lập công mà chuộc tội. Nếu làm được việc ấy thì công con có thể chuộc cái lỗi của cha. Ta quyết không giết kẻ đầu hàng. Ngươi nên sớm quyết để định liệu, nếu không sẽ không hối kịp”.

    Nguyễn Vương xem thư xong gật đầu khen, rồi sai người gửi cho Tham tán Từ Văn Tú dặn khuyên bảo Nguyễn Bảo đầu hàng. Từ Văn Tú đem thư dấu trong người rồi đến huyện Phú Ly viếng thăm Nguyễn Bảo.

    Nhắc lại Thái tử Nguyễn Bảo từ ngày bị phế làm Phù Ly Công, chỉ được ăn lộc một huyện Phù Ly, lại bị các tướng Nguyễn Văn Huấn và Phạm Công Hưng cắt quân canh phòng cẩn mật. Nguyễn Bảo trong lòng rất uất hận, mẹ của Nguyễn Bảo là Thái phi Trần thị thường mắng: “Cha mày xưa dấy nghiệp làm chúa Tây Sơn, ăn lộc bốn phủ. Nay mày bị người ta giam lỏng, phế làm Phù Ly Công, ăn lộc một huyện, sớm tối sống chết trong tay người ta. Nếu một mai chết xuống suối vàng, liệu còn dám nhìn mặt cha mày”.

    Phù Ly công Nguyễn Bảo hay Từ Văn Tú đến thăm liền mời vào phòng kín. Nguyễn Bảo thấy mặt Từ Văn Tú thì khóc, Từ Văn Tú cũng khóc nói bọn Nguyễn Văn Huấn, Phạm Công Hưng ức hiếp người quá đáng. Nguyễn Bảo rút kiếm chém sạt góc bàn, thề giết quân nghịch tặc báo thù. Từ Văn Tú thấy Nguyễn Bảo đã tỏ ý bèn đem bức thư của Nguyễn Vương dâng trình. Nguyễn Bảo đọc thư thì biến sắc nói:
    - Tây Sơn ta với nhà hắn có mối thù bất cộng đái thiên, sao có thể vội tin lời hứa hão mà chấp thuận.

    Tham tán Từ Văn Tú khuyên:
    - Quang Toản đối với Thái tử là tử thù mà Nguyễn Ánh với Thái tử cũng là kẻ thù. Nay hãy mượn tay Nguyễn Ánh, thu thập tướng sĩ cũ để chiếm giữ Quy Nhơn, Phú Yên làm nơi căn bản. Sau đó tùy liệu tình hình để xem thiên hạ chuyển biến. Các tộc Đê, Mường, Mán vẫn đội ơn của tiên vương vạn nhất có thể lưu dùng. Hãy xem Nguyễn Ánh quân thua không còn manh giáp nay cũng có thể gượng dậy, huống hồ tướng sĩ bốn phủ vẫn còn nhớ ơn của Tiên đế.

    Nguyễn Bảo vẫn băn khoăn:
    - Như bọn Nguyễn Văn Huấn, Phạm Công Hưng với ta có mối thù, giết đi còn chưa hả giận. Duy có Lê Trung một lòng trung hậu, Lê Chất với ta có ơn sâu, nỡ lòng gia hại.

    Từ Văn Tú bảo:
    - Chỉ cần Thái tử nêu danh nghĩa phục vị, nếu Lê Trung cãi lệnh thì chém chết không tha, nhược bằng thuận theo thì lưu dụng. Trong các tướng của Quang Toản, bọn Lê Văn Hưng, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng , Nguyễn Văn Tuyết đều là kẻ chịu ơn của Thái Đức Đế, hẳn cũng chưa chắc đã chịu ngồi yên để chịu khống chế. Chỉ cần Thái tử nêu cao nghĩa lớn, thu phục các tướng ấy thì ngôi cũ có thể lấy lại.

    Phù Ly Công Nguyễn Bảo bèn viết mật thư gửi cho các tướng của Thái Đức Đế cũ. Đại ý nói: “Tây Sơn vốn do Tiên đê Thái Đức khởi nghiệp, ta chẳng may bạc phước bị lũ cường thần Phú Xuân hãm hại chiếm mất cơ nghiệp, khiến các tướng cũng chịu họa lây. Nay Cảnh Thịnh ngu tối, Gia Định thừa cơ gây hấn khiến đại nghiệp lìa tan. Ta muốn khởi phục, trước giết bọn Hưng, Huấn, chiếm lấy đất cũ, mưu đồ dựng lại đại nghiệp. Tướng sĩ ai còn nhớ đến ơn cũ, hãy đem quân ứng nghĩa”. Thư viết xong rồi, bèn sai Từ Văn Tú bí mật gửi cho các tướng, hẹn ngày khởi sự.

    Nguyễn Vương thấy Từ Văn Tú đi rồi, lại sợ viện binh Phú Xuân của Lê Văn An đem quân đến được Quảng Nam tiếp cứu, bèn khiến hai tướng dưới trướng là Vệ úy Lê Văn Duyệt, Vệ úy Nguyễn Đức Xuyên đem sáu vệ quân (3000 quân) đến giúp Nguyễn Văn Trương. Nguyễn Văn Trương liền sai Lê Văn Duyệt đem quân ba vệ giữ đồn Trạm Dã, Nguyễn Đức Xuyên đem quân ba vệ giữ đồn Phường Lạc, còn mình đem quân cứu ứng các mặt.

    Trên bộ, Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường đánh mặt nam Phú Yên, chiếm hai đồn Hội An và La Thai. Quân Tây Sơn lùi về giữ thành Phú Yên cố thủ.

    Đại Tư lệ Lê Trung thấy thủy quân của mình yếu không thế công chiến cùng thủy quân Nam Hà bèn sai người thông mưu với Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, tung kỳ binh đánh chặn các đoàn thuyền lương của quân Gia Định. Tướng thủy quân hộ lương của Gia Định là Trương Phúc Luật bị đánh chặn không thể vận lương đến được Quảng Nam.
    Quân Gia Định đi đánh từ tháng tư đến nay đã hơn bốn tháng, Hộ bộ Phan Thiên Phúc báo với Nguyễn Vương, trong quân chỉ còn năm ngày lương mà đoàn lương vận Gia Định vẫn chưa có tin. Nguyễn Vương thở dài nói:
    - Lê Trung, Nguyễn Văn Huấn, Đặng Văn Chân cố thủ không ra đánh là đợi khi chúng ta hết lương, ngược gió để tung quân ra cắt đường về. Nay lương tiếp chưa đến kịp, cố đánh cũng không được việc gì. Đó là ý trời chưa cho ta thu phục cố thổ sao?

    Bèn truyền lệnh cho quân các đạo quân, thu binh lên thuyền để từ từ rút về. Còn mặt Phú Yên, cũng lệnh cho Nguyễn Văn Thành và ĐẶng Trần Thường thu quân về Diên Khánh.

    Nguyễn Văn Trương được lệnh rút quân liền lệnh cho các tướng thu quân lên thuyền rút về. Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh ở Đại Chiêm cũng xếp giáp lên thuyền. Đại quân Gia Định rút về Diên Khánh. Nguyễn Vương thăng cho Đại tướng Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành từ Tổng nhung Cai cơ lên làm Chưởng cơ kiêm Lưu trấn Diên Khánh. Tán lý Đặng Trần Thường làm Hiệp đồng lưu trấn để trù biện việc quân, Phó tướng Tiên phong dinh là Nguyễn Văn Lợi và Nguyễn Văn Tánh, các tướng Hiệu úy Hoàng Văn Khánh, Phó hiệu úy Nguyễn Tiến Nghị, Chánh vệ Phạm Văn Tự đều thuộc quyền. Lại sai người đem sa đoạn ban thưởng cho Tướng quân thượng đạo Phú Yên là Nguyễn Văn Nguyện và bộ khúc. Nguyễn Văn Nguyện đóng giữ ải Gian Nan ở thượng đạo Phú Yên để canh giữ các đường thượng đạo

    Nhắc lại Tham tán Từ Văn Tứ đem mật thư của Thái tử Nguyễn Bảo ngầm đi chiêu dụ các tướng cũ của Thái Đức Đế. Bọn Đô đốc Đoàn Văn Cát, Nguyễn Văn Xuân … [] đều nhận lời, hẹn ngầm chiêu tập binh mã khi trước, đợi ngày khởi sự. Từ Văn Tú lại đến gặp Đại Tư lệ Lê Trung để dò xét. Lê Trung khẳng khái đáp:
    - Thái tử là dòng chính nhưng nay đại địch đang ở trước mặt, nên lo việc liệu địch trước đã.

    Từ Văn Tú biết Lê Trung không chịu giúp bèn về thành Quy Nhơn, thường xuyên vào thăm hỏi Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn và các tướng Phú Xuân để kết thân. Nguyễn Văn Huấn và các tướng Phú Xuân đều trọng tài của Từ Văn Tú nên tin tưởng không đề phòng.

    Từ Văn Tú mật bàn với Nguyễn Văn Huấn:
    - Lê Trung là thuộc hạ của Trần Quang Diệu khi trước, Lê Văn Hưng vốn cũng chơi thân với Trần Quang Diệu. Nay hai người ấy đều cầm đại quân đóng ngay sát thành Quy Nhơn này. Nếu chợt có biến, thật không phải là có lợi cho tướng quân.

    Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn liền lệnh cho Đại Tư lệ Lê Trung đem thủy quân ra giữ Thị Nại khẩu. Lê Trung liền đem tướng sĩ ra đóng ở cửa khẩu Thị Nại.
    Con rễ của Đại Tư lệ Lê Trung là Đô đốc Lê Chất nói:
    - Thái bảo Nguyễn Văn Huấn cùng Đại Tư đồ Võ Văn Dũng vốn ngờ sợ nhạc nhụ và Thống tướng Lê Văn Hưng. Nay vô cớ bắt dời binh đi ắt có mưu hại.

    Lê Trung gạt đi nói:
    - Theo ý ngươi thì ta phải làm như thế nào?

    Lê Chất đáp:
    - Nay trong triều Cảnh Thịnh còn nhỏ, đại thần chia bè kết đảng, không lo chống địch. Chỉ có Nguyễn Ánh ở Gia Định là có hùng tài, chi bằng đem thủy quân theo đầu mới mong toàn được mạng.

    Đại Tư lệ Lê Chất tức giận rút gươm chỉ mặt Lê Chất mắng:
    - Nếu người còn nhắc đến việc đầu hàng quân Nam một lần nữa thì ta chém chết không tha.

    Đoạn đuổi Lê Chất ra ngoài. Lê Chất ra khỏi quân trướng thở dài nói:
    - Nhạc phụ cầm đại quân trong tay mà không chịu quyết, vạ tất đến nơi.

    Từ đó đã muốn bỏ Tây Sơn mà đi nhưng lòng lại không nỡ, dùng dằng không dứt ra được.

    Tham tán Từ Văn Tú thấy Lê Trung đã đi rồi, lại bàn với Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn:
    - Địa đầu Phú Yên là nơi hiểm yếu, tiếp giáp với Diên Khánh. Nay hai tướng Đô đốc Đoàn Văn Cát, Nguyễn Văn Thiệu thông thuộc nơi ấy, xin cho cùng Thống tướng Lê Văn Hưng đem binh ra đóng ở đấy để phụ giúp Phạm Văn Điềm trấn giữ. Từ Văn Tú lại mật dặn hai tướng kết thân với Lê Văn Hưng để chia binh quyền.

    Bấy giờ trong triều Phú Xuân, các đại thần vẫn nghi kỵ nhau. Các võ tướng Đại Tư đồ Võ Văn Dũng, Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh, Thái bảo Nguyễn Văn Huấn, Thái phó Trần Quang Diệu đều lập đảng riêng. Cảnh Thịnh Đế còn nhỏ tuổi, chính sự không thể quyết được. Mọi việc phải dựa vào ý của Thái hậu Bùi thị.

    Thái hậu Bùi Thị là chị em cô cậu với Đô đốc Tượng binh Bùi Thị Xuân, phu nhân của Thái phó Trần Quang Diệu. Đại Tư đồ Võ Văn Dũng, Đại tư mã Nguyễn Văn Danh hiềm vì việc biến Thiền Lâm khi trước nên tìm cách ngăn cản Trần Quang Diệu quay lại nắm đại quyền quân chính.
    Văn thần cũng chia làm bè đảng. Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ, Binh bộ Thượng thư Ngô Thời Nhậm lấy lời chính trực để khuyên nhủ, Nội hầu Lê Văn Lợi, Kiểm điểm Trần Viết Kết ngã theo ý Thái phi Bùi thị, Thái phủ Lê Văn Ứng, Thượng thư Lại bộ Hồ Công Diệu lại xu phụ theo Cảnh Thịnh Đế. Người nào cũng nghi kỵ lẫn nhau.

    Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản vốn là con trưởng của Thái hậu Phạm thị đã mất sớm, được Thái phi Bùi Thị chăm nuôi từ lúc mới lên ba. Cảnh Thịnh Đế vốn tư chất thông minh, lại hiếu thuận nên đối với Thái phi Bùi thị vừa kính vừa sợ. Muốn dựa vào bên họ ngoại Phạm thị và các tướng Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh lại sợ mích lòng Thái phi Bùi thị và Thái phó Trần Quang Diệu. Huống hồ Trần Quang Diệu lại là cố mệnh đại thần của Tiên đế. Muốn dùng Thái phó Trần Quang Diệu lại bị các tướng Đại Tư đồ Võ Văn Dũng và Thái bảo Nguyễn Văn Huấn ngăn trở. Lại ngầm sợ các tướng bất mãn đồng mưu phế để lập hoàng huynh là Khang Công Nguyễn Quang Thùy ở Bắc Thành, lại e dè các tướng Quy Nhơn tôn lập Phù Ly Công Nguyễn Bảo.

    Vua thì nhỏ, đại thần nghi ngờ lập bè đảng, đánh giết lẫn nhau. Chính sự ngày càng đổ nát, tham quan ô lại ở địa phương thừa dịp chèn ép dân đen, ngay cả binh lính cũng có kẻ cậy thế đi bắt nạt kẻ yếu. Lòng người đều chán nản.

    Đại Tư lệ Lê Trung vốn thân với Thái phó Trần Quang Diệu, sợ trong triều có nội biến bèn đem quân từ Thị Nại Khẩu kéo về Phú Xuân để giảng hòa các tướng. Đô đốc Lê Chất can ngăn không được bèn ở lại giữ Thị Nại. Quân của Lê Trung về đến Quảng Nam, triều đình Phú Xuân náo loạn. Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh sai các tướng Đô đốc Lê Văn An, [Phạm Công] Định, Nội hầu Lê Văn Lợi đem quân ra ngăn lại.

    Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản sợ các tướng đem binh giao chiến bèn vời tất cả các đại thần vào triều nghị. Vũ Văn Dũng, Nguyễn Văn Danh đều nói: “muốn Lê Trung lui binh, chỉ có Trần Quang Diệu mới khuyên giải được”. Cảnh Thịnh Đế bèn khóc mà sai Thái phó Trần Quang Diệu viết thư khuyên giải. Trần Quang Diệu cũng khóc nói: “ Thần và Lê Trung một lòng tận trung với bệ hạ, đâu dám hai lòng”, bèn viết thư, sai người gửi Lê Trung bảo dừng binh. Đại Tư lệ Lê Trung được thư cũng dừng binh ở Quảng Nam, rồi sai người đưa tấu biểu vào triều, đại ý nói: “Nay quốc thù đang ở trước mặt, họa hoạn chưa biết khi nào lường, cúi xin bệ hạ sớm nắm thực quyền, đại thần cùng nhau chung sức để giết giặc”.

    Tham tán Từ Văn Tú ở Quy Nhơn thấy Lê Trung đã đem thủy binh đi Quảng Nam, Quy Nhơn chỉ còn mấy ngàn binh mã, lập tức sai người bí mật đón Thái tử Nguyễn Bảo ở Phù Ly rồi, triệu tập các tướng cũ của Thái Đức Đế hẹn đến canh ba đêm ấy sẽ khởi sự.

    Tham tán Từ Văn Tú sai người mở tiệc ở tư dinh rồi mời Thái bảo Nguyễn Văn Huấn, Thái phủ Lê Văn Mân, Tổng quản Lê Văn Thanh ở thành Quy Nhơn đến dự tiệc. Thái bảo Nguyễn Văn Huấn đến tiệc dùng vài tuần rượu rồi cáo từ về quân doanh, chỉ còn Thái phủ Lê Văn Mân, Tổng quản Lê Văn Thanh ngồi thù tạc với Từ Văn Tú.
    Canh ba đêm ấy, Thái tử Nguyễn Bảo cùng các đô đốc [] đem quân đánh úp quân doanh của Thái bảo Nguyễn Văn Huấn và đánh thành Hoàng Đế. Thái bảo Nguyễn Văn Huấn đang đêm bị đánh úp, quân sĩ tử thương và ra hàng, còn mình dắt quân sĩ bản bộ trung thành chạy đi []. Thái phủ Lê Văn Mân ở trong thành may nhờ có quân sĩ hộ vệ chạy thoát ra được []. Tổng quản Lê Văn Thanh ở trong tư dinh bị bắt sống. Quân sĩ trong thành Quy Nhơn nghe Thái tử Nguyễn Bảo đã về đều lớn tiếng reo hò hoan hỉ.
    Nguyễn Bảo cùng các tướng sĩ vào thành hạ lệnh chiêu an, lệnh cho các tướng sĩ triều cũ đều theo chức tước cũ mà mà nhận việc. Lại điều các tướng [] đem quân ra đóng ở Quảng Ngãi để ngăn ngừa quân của Đại Tư lệ Lê Trung.

    Hai đô đốc Đoàn Văn Cát và Nguyễn Văn Xuân được mật thư của Từ Văn Tú từ trước cũng đem quân đánh chiếm thành Phú Yên. Thống tướng Lê Văn Hưng đem binh đóng ở ngoài được tin Quy Nhơn đã bị chiếm, trước sau đều bị chặn bèn đóng quân án binh bất động.

    Tham tán Từ Văn Tú bàn với Thái tử Nguyễn Bảo:
    - Cảnh Thịnh hay tin mất Phú Xuân tất sẽ đem đại binh đến đánh. Nay gần đây nhất có hai tướng Lê Trung ở Quảng Nam và Lê Văn Hưng ở Phú Yên nếu hai người ấy chịu theo giúp thì việc lớn ắt thành.

    Nguyễn Bảo bèn viết thư sai người đem đi chiêu dụ hai tướng. Lại sai Đô đốc Đoàn Văn Cát ở Phú Yên báo tin cho Đại tướng Tiền quân dinh Nguyễn Văn Thành ở Diên Khánh để đem quân ứng cứu, hẹn sẽ làm tiên phong để đánh Phú Xuân theo lời ước khi trước.

    Đô đốc Lê Chất ở Thị Nại hay tin Thái tử Nguyễn Bảo đã chiếm thành Hoàng Đế lập tức kéo quân về thành. Lê Chất một mình cưỡi ngựa vào thành ra mắt Thái tử Nguyễn Bảo nguyện xin theo lao động đường phố. Nguyễn Bảo bèn sai Lê Chất viết thư khuyên dụ Đại Tư lệ Lê Trung, Lê Chất bèn viết thư gửi đi.

    Nguyễn Bảo toan chém Tổng quản Lê Văn Thanh. Tham tán Từ Văn Tú can:
    - Tội là ở các tướng Nguyễn Văn Huấn, Phạm Công Hưng. Hắn chẳng qua vâng lệnh mà thôi.

    Lê Chất vốn chơi thân với Lê Văn Thanh nên cũng xin giúp, Nguyễn Bảo bèn truyền giam Lê Văn Thanh chờ xét xử.

    Đại Tư lệ Lê Trung nhận được thư của Thái tử Nguyễn Bảo thì than:
    - Nếu ta đem binh về giúp Quy Nhơn thì bội ơn chúa cũ mà đem binh giúp Phú Xuân thì không nỡ ngồi nhìn Thái tử chết thảm, thực khó thay.
    Bèn truyền đóng binh lại ở Quảng Nam.

    Thái bảo Nguyễn Văn Huấn cùng Thái phủ Lê Văn Mân trốn thoát ra khỏi thành Hoàng Đế lập tức sai người đem binh phù triệu Thống tướng Lê Văn Hưng đem quân về Quy Nhơn dẹp loạn. Nguyễn Bảo cũng sai người đem thư đến chiêu hàng. Thống tướng Lê Văn Hưng đang trù trừ chưa quyết chợt có tin báo Đoàn Văn Cát, Nguyễn Văn Xuân giữ thành Phú Yên đã thông với Nguyễn Văn Thành ở Diên Khánh đem quân đầu hàng.

    Thống tướng Lê Văn Hưng cả giận nói:
    - Nếu Phú Yên mà mất thì Quy Nhơn lâm nguy. Ta thà chết chứ không ngồi yên nhìn Tây Sơn sụp đổ.

    Bèn cũng các tướng Phạm Sĩ Hoàng, Phạm Cần Chánh đem binh đi vây đánh thành Phú Yên, lại cho người đi gọi Phạm Văn Điềm về để cùng giữ Phú Yên.

    Nhắc lại Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản hay tin Phù Ly Công Nguyễn Bảo đã nổi dậy chiếm Quy Nhơn, Phú Yên thất thủ lòng lo lắng không yên. Các tướng Nguyễn Văn Danh, [Phạm Công] Định, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều lo sợ quân Nam thừa cơ đánh úp. Bèn ép Cảnh Thịnh Đế thân chinh cầm quân đi đánh Quy Nhơn. Điểm bốn vạn quân ở Phú Xuân ngày đêm kéo đi Quảng Nam. Các tướng Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Danh, Đặng Văn Chân, Lê Văn An, … đều theo quân. Lưu Đại Tư đồ Vũ Văn Dũng cùng Tư Khấu [Phạm Công] Định ở lại giữ Phú Xuân.

    Đại quân đến Quảng Nam, Thái phó Trần Quang Diệu xin đi gặp Đại Tư lệ Lê Trung để thu quân. Trần Quang Diệu đến nơi, Lê Trung ra đón. Trần Quang Diệu hỏi:
    - Tướng quân theo Phú Xuân hay Quy Nhơn?

    Lê Trung đáp:
    - Tôi chỉ xin theo lệnh của Thái phó.

    Trần Quang Diệu thở dài đáp:
    - Nồi da xáo thịt là đại họa cho quốc gia. Ta tiếc thay phải trông thấy cảnh này.

    Bèn thu lấy ấn Đại đô đốc của Lê Trung, tự mình cầm cánh quân ấy rồi sai người về báo với Cảnh Thịnh Đế chia binh tiến đánh Quảng Ngãi.
    Các tướng [] quân sĩ vốn là quân Phú Xuân, đua nhau quay giáo quy hàng quân nhà, các tướng thế cô đều thua trận bỏ chạy, lớp bỏ về nhà, lớp ra hàng. Đại quân Phú Xuân trong mấy ngày đã tiến sát Quy Nhơn.

    Thái tử Nguyễn Bảo và Tham tán Từ Văn Tú thấy đại sự đã vỡ bèn cùng nhau tìm đường trốn vào nam, Thái bảo Nguyễn Văn Huấn và Thái phủ Lê Văn Ứng đem quân lùng bắt được giải về. Lại cho người thả Tổng quản Lê Văn Thanh trong ngục ra.

    Thống tướng Lê Văn Hưng cùng các tướng đánh thành Phú Yên, hai Đô đốc Đoàn Văn Cát và Nguyễn Văn Xuân binh ít thế cô, liệu không giữ nổi thành bèn đánh phá vây rồi đem hơn một trăm quân sĩ trốn đi Diên Khánh đầu hàng Nguyễn Văn Thành.

    Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản hài tội Nguyễn Bảo. Thái tử Nguyễn Bảo cũng mắng chưởi lại. Thái bảo Nguyễn Văn Huấn bèn đem Thái tử Nguyễn Bảo dìm sông chết, còn Tham tán Từ Văn Tú thì đem chém bêu đầu làm lệnh. Người đời gọi Nguyễn Bảo là Tiểu triều..

    Nguyễn Văn Huấn lại muốn trị tội tất cả các tướng tham gia biến loạn. Thái phó Trần Quang Diệu can ngăn:
    - Chúng ta hết lòng với vua thì bọn họ cũng hết lòng vì chủ. Nếu ép người quá thì nhân tâm mất hết, lòng quân càng loạn.

    Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản theo lời bèn ra lệnh tha tội cho các tướng sĩ. Đô đốc Lê Chất cũng tham gia biến loạn tội đáng phải trị nhưng Trần Quang Diệu và Lê Trung xin cho, Tổng quản Lê Văn Thanh cũng xin giúp, Cảnh Thịnh Đế bèn tha tội cho Lê Chất. Mấy người con Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc và con của Thái tử Nguyễn Bảo khi biến loạn đều trốn chạy vào các tộc người Đê, được Ya Hầu cứu giúp, một số được các tướng sĩ thân tín của Thái Đức Đế che dấu. Sau Cảnh Thịnh Đế hay tin, hạ lệnh tha tội cho tất cả con cháu của Thái Đức Đế.

    Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản lấy Thái bảo Nguyễn Văn Huấn làm Đại Trấn phủ Quy Nhơn, Thái phủ Lê Văn Ứng và Tổng quản Lê Văn Thanh là Phó Trấn thủ lưu ba vạn quân giữ thành Hoàng Đế. Thống tướng Lê Văn Hưng làm Trấn thủ Phủ Yên, Tham đốc Phạm Văn Điềm làm An sát sứ Phú Yên, các tướng Phạm Cần Chánh, Lê Sĩ Hoàng chia binh phòng giữ đề phòng quân Nam. Đoạn đem đại binh về Phú Xuân.

    Thái phủ Lê Văn Ứng vốn hận Đại Tư lệ Lê Trung và Đô đốc Lê Chất, mật gửi thư về triều báo vụ biến loạn Tiểu triều thực chất là do Đại Tư lệ Lê Trung xúi giục. Cảnh Thịnh Đế sai người triệu Lê Trung về triều rồi sai giáp sĩ bắt trói lại. Đại Tư lệ Lê Trung một mực kêu oan, Thái phó Trần Quang Diệu cũng xin tha cho Lê Trung. Thái bảo Nguyễn Văn Huấn, Thái phủ Lê Văn Ứng, Nội hầu Lê Văn Lợi và Kiểm điểm Trần Viết Kết đều bảo Lê Trung tự tiện cầm quân về Quảng Nam, uy hiếp triều đình, tội đánh chém. Cảnh Thịnh Đế hỏi Trung thư lệnh kiêm Phụng chính Trần Văn Kỷ:
    - Tội Lê Trung có đáng chết không?

    Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ đáp:
    - Tội Lê Trung đáng chết

    Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản bèn sai áp giải Đại Tư lệ Lê Trung ra cửa Bắc môn để chém đầu. Đại Tư lệ Lê Trung trước khi chết sa nước mắt nói:
    - Ta theo Tiên đế từ năm mười bảy tuổi, đánh hơn trăm trận, tiếc thay không được chết nơi sa trường mà lại chết oan ức như vậy.

    Đoạn ngảnh lại bảo quân hầu:
    - Ta chết đi chỉ sợ con rễ ta là Lê Chất làm hỏng mất tấm lòng trung nghĩa của ta mà thôi.

    Võ sĩ vung đao, Đại Tư lệ Lê Trung thành thần, Năm ấy Lê Trung mới được hơn 40 tuổi. Quân sĩ Tây Sơn thấy Lê Trung chết thảm, ai cũng thương tiếc. Người sau có thơ khen:

    Quân sĩ vào báo lại lời nói trước khi chết của Lê Trung, Cảnh Thịnh Đế gạt nước mắt than:
    - Ta chém lầm người trung nghĩa mất rồi.

    Bèn truyền tha tội cho cả nhà Lê Trung, lại lấy hậu lễ mai táng. Thái phủ Lê Văn Ứng thấy Lê Trung đã thọ hình, sợ Đô đốc Lê Chất nắm thủy binh ở Thị Nại làm phản bèn sai quân lùng bắt. Lê Chất hay tin hoảng sợ, đang đêm bỏ quân, trốn về nhà đưa thân mẫu là Đào thị trốn vào rừng sâu ẩn nấp, quân theo hầu chỉ có hai mươi mấy người thuộc hạ tâm phúc. Lê Văn Ứng vẫn không tha, truy bắt rất gấp. Lê Chất bèn cho một người thuộc hạ có tầm vóc, khuôn mặt giống mình, mặc áo thường phục của mình rồi giết chết, băm nát mặt. Lại đổ đồ đạc tư trang vương vãi ra xung quanh để ngụy tạo, rồi cho người báo cho quan quân.

    Lê Chất sống lẫn lút khốn cùng, lại lo cho mẹ già bèn sai thuộc hạ đến tìm xin Đại Tổng quản Lê Văn Thanh để theo hầu. Lê Văn Thanh ngạc nhiên nói:
    - Lê Chất đã chết còn đâu?

    Người ấy đáp:
    - Hễ dùng Chất thì Chất còn sống, còn không dùng Chất thì Chất chết.

    Đại Tổng quản Lê Văn Thanh đồng ý giúp, Lê Chất đem thuộc hạ đều phục, khóc mà nói:
    - Nhạc phụ của tôi bị oan, Thái phủ không dung. Đội ơn quân hầu cứu mạng, xin nguyện theo dưới trướng.

    Lê Văn Thanh đáp:
    - Đại Tư lệ chết oan, tướng sĩ ai cũng thương tiếc. Triều đình cũng đã tha tội cho cả nhà, trọng dụng con của tướng quân. Ngươi cứ yên tâm ở dưới trướng lo việc quân.
    Bèn bảo Lê Chất cải họ tên, quản việc quân dưới trướng của mình. (Nguyên con của Đại Tư lệ Lê Trung là Lê Văn Từ cũng tham gia quân Tây Sơn thuộc quyền của Thái phó Trần Quang Diệu, được gia phong Đô đốc).

    Nguyễn Văn Huấn trấn thủ Quy Nhơn, tướng sĩ của Thái Đức Đế cũ nhiều người sợ vạ lây, bỏ chức về nhà. Quân sĩ cũng nhiều người bỏ trốn, lòng quân dao động. Thủy binh Tây Sơn dưới trướng của Lê Trung khi trước nhiều người cũng không phục Nguyễn Văn Huấn. Kiểm điểm Trần Viết Kết xin Cảnh Thịnh Đế triệu hồi về triều để thu phục lòng người ở Quy Nhơn. Cảnh Thịnh Đế nghe lời triệu Nguyễn Văn Huấn về triều mà giao cho Thái phủ Lê Văn Ứng làm Trấn thủ Quy Nhơn.

    Nguyễn Văn Huấn cậy công lao động đường phố tá, đánh dẹp loạn Tiểu Triều, kiêu căng với các tướng, nay bị triệu về kinh mất binh quyền thường tỏ ý bất bình. Thượng thư Hồ Công Diệu xin
    Cảnh Thịnh Đế mưu trừ đi để trừ họa. Nguyên Hồ Công Diệu là con của Thượng thư Lại bộ Hồ Đồng quân Nam Hà khi trước. Hồ Đồng thua trận bị bắt, Quang Trung Đế yêu tài của Hồ Đồng mà lưu dùng dưới trướng, con là Hồ Công Diệu đến triều Cảnh Thịnh cũng được phong làm Thượng thư giúp việc trong triều. Hồ Công Diệu có ý theo Nguyễn Vương ở Gia Định nên hay tìm lời chia rẽ các tướng ở Phú Xuân. Thái bảo Nguyễn Văn Huấn trước làm Hộ giá cho Quang Trung Đế, sau lại làm Hộ giá cho Cảnh Thịnh Đế, sau vụ biến Thiền Lâm được gia thăng Thái bảo, mấy lần cầm đại quân chống đánh quân Gia Định, uy tín trong quân cũng rất lớn. Hồ Công Diệu rắt tâm trừ đi nên tìm lời xúc xiểng với Cảnh Thịnh Đế. Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản tin lời sai người bắt Thái bảo Nguyễn Văn Huấn đem giết đi. Đến khi Đại Tư đồ Võ Văn Dũng, Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh hay tin thì đã muộn.

    Tướng sĩ Tây Sơn thấy Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản liên tiếp giết hai vị Đại Đô đốc là Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn, thảy đều kinh sợ. Đại Tư lệ Lê Trung với Thái bảo Nguyễn Văn Huấn đều từng lập công lớn đánh quân Nam Hà, nay bị giết tướng soái đều dao động.

    Nhắc lại hai Đô đốc Đoàn Văn Cát và Nguyễn Văn Xuân khi đem quân đánh úp lấy thành Phú Yên và giữ đồn Hội An, sai người đem thư đến Diên Khánh xin phát binh cứu giúp. Nguyễn Văn Thành và Tán lý Đặng Trần Thường chưa được lệnh của Nguyễn Vương nên không dám tự tiện xuất binh, sai người về Gia Định báo tin.
    Nguyễn Vương triệu các tướng bàn tính, Nội úy Cai cơ Lê Văn Duyệt nói:
    - Tây Sơn có nội biến là phúc của nước nhà. Nhưng nếu nay xuất quân ứng cứu ngay thì bọn chúng sẽ đồng tâm hiệp lực để chống lại quân ta, chưa phải là cách hay.

    Lễ bộ Ngô Tòng Châu cũng nói:
    - Cứ nên để cho Nguyễn Bảo cùng các tướng Quy Nhơn và Quảng Toản cùng các tướng Phú Xuân đánh lẫn nhau. Hai hổ tranh nhau tất có một con bị thương, chừng đó xuất quân cũng chưa muộn.

    Nguyễn Vương liền sai Nội úy Cai cơ Lê Văn Duyệt tạm ra thành Diên Khánh lãnh việc quân thay Đại tướng Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành, và triệu Nguyễn Văn Thành về Gia Định để nghị bàn. Nguyễn Văn Thành về đến Gia Định nói:
    - Nguyễn Bảo nổi dậy chiếm Quy Nhơn, Đoàn Văn Cát, Nguyễn Văn Xuân chiếm Phú Yên. Dịp may hiếm có, nên xuất binh cứu viện.

    Nguyễn Vương cùng các tướng đều cho là nên đợi để xem diễn biến rồi sau sẽ liệu. Nguyễn Văn Thành cố nài xin, Nguyễn Vương bèn triệu Lê Văn Duyệt về mà cho Nguyễn Văn Thành trở lại Diên Khánh cùng Tán lý Đặng Trần Thường kéo quân vào Phú Yên để cứu viện. Quân kéo đến sông Đà Diễn ở Phú Yên thì Nguyễn Bảo đã bị bắt giết, hai tướng Đô đốc Đoàn Văn Cát và Nguyễn Văn Xuân bị Thống tướng Lê Văn Hưng cùng các tướng Phạm Cần Chánh và Phạm Sĩ Hoàng đánh bại phải tìm đường bỏ trốn đến Diên Khánh xin hàng. Nguyễn Văn Thành bèn lưu hai tướng dưới trướng, rút quân về, rồi sai người báo tin về Gia Định.

    Bấy giờ Bình Tây Đại tướng Tiền quân dinh là Quận công Tôn Thất Hội đã bị bệnh mất trong quân. Nguyễn Vương rất thương tiếc, thường xem Tôn Thất Hội và Nguyễn Văn Thành là hai cánh tay rường cột của nước nhà. Tôn Thất Hội hai lần hộ giá sang thành Vọng Các, đến khi về Gia Định cầm quân đánh Tây Sơn, công trạng rực rỡ, tính nghiêm trang, giữ gìn lễ độ, các tướng đều kính mà sợ. Đến bấy giờ chết, Nguyễn Vương rất thương tiếc truy tặng Nguyên phụ công thần đặc tiến Thượng trụ quốc Chưởng dinh (sau truy phong Lạng Giang quận công). Bèn lấy Đại tướng Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành làm Bình Tây Đại tướng Tiền quân dinh, thăng Phó tướng Tiên phong dinh Nguyễn Văn Tánh làm Đại tướng Tiên phong dinh.

    Nguyễn Văn Thành ở Diên Khánh báo tin tướng sĩ Tây Sơn ở Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên nhiều người dưới triều Thái Đức khi trước hận Quang Toản và quân Phú Xuân, bỏ vào Diên Khánh xin hàng khá nhiều. Nguyễn Vương cho là có thể đánh lấy được Quy Nhơn bèn bàn việc xuất chinh. Tham mưu Đặng Đức Siêu bàn:
    - Trước xin cho một tướng đem quân đến Diên Khánh hợp quân với Nguyễn Văn Thành, phao tin là đánh lấy Phú Yên. Tây Sơn ở Quy Nhơn tất phải chia binh để cứu. Khi đó ta đem thủy binh thừa cơ đánh nơi sơ hở của chúng.

    Đặng Đức Siêu nguyên
    Đặt đài phong hỏa ở các cửa biển ở Bình Thuận và Bình Khang
    Khâm sai thống nhung cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Thịnh làm Phó trấn


    Nguyễn Vương bèn cho Đông cung Nguyễn soái Nguyễn Phúc Cảnh đem quân sĩ Tả quân dinh cùng hai Phó tướng tả quân là Tống Viết Phước và Nguyễn Công Thái đi trước ra thành Diên Khánh, lại lấy Bá Đa Lộc làm Tham mưu đi theo quân trợ giúp cho Đông cung Nguyên soái. Bấy giờ Phó tướng Tả quân dinh Tống Viết Phước tính tình rất nóng nảy, thường hay uống rượu, kiếm cớ đánh đập sĩ tốt, nhất là các hàng tướng Tây Sơn. Ngay cả Bá Đa Lộc cũng thường bị Tống Viết Phước xúc phạm. Quân sĩ nhiều người oán thán, Nguyễn Vương liền lệnh cho Tống Viết Phước về lại Gia Định để răn đe, rồi lại dặn Đông cung Nguyên soái phải nghiêm trị tướng sĩ dưới trướng.
    Tán lý Đặng Trần Thường cùng với Đại tướng Tiên phong quân dinh Nguyễn Văn Tánh kiểm duyệt lại tướng sĩ của dinh Tiên phong, chỉnh bị khí giới chỉ đợi Đại tướng Tiền quân dinh Nguyễn Văn Thành chỉnh bị xong quân từ Gia Định tiến ra Diên Khánh là lập tức theo sai khiến.
    Tán lý Đặng Trần Thường lại dâng thư xin kết liên với Xiêm La để đánh thông đường Vạn Tượng nhằm chia quân cứu ứng của Phú Xuân. Nguyễn Vương bèn sai hai tướng là Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phước Tường làm Chánh, phó sứ sang Xiêm để kết liên, hẹn điều động quân ba nước Xiêm, Chân Lạp, Vạn Tượng theo đường thượng đạo đánh thẳng xuống Nghệ An để cắt đừng đường cứu viện của quân Bắc Hà vào. Xiêm Vương đồng ý nhận lời, truyền hịch cho các Man trưởng ở thượng đạo chuẩn bị sẳn quân, voi và khí giới để chờ dịp tiến đánh.

    Nguyễn Vương lệnh cho Thượng đạo Tướng quân Nguyễn Long đem quân sở bộ đến đóng chặt ba đèo Đại Lãnh, Sầm Dương và Gian Nan để tuyệt đường thượng đạo và đề phòng gian tế, tùy thuộc quyền sai khiển của Đông cung Nguyên soái Nguyễn Phúc Cảnh.

    Các hàng tướng Tây Sơn mới về hàng là Đại đô đốc Trương Văn Luân, Nguyễn Công Điền đều nhận lệnh chiêu mộ binh lính bộ thuộc khi trước theo Đại tướng Nguyễn Văn Thành lo liệu việc quân. Đại đô đốc Nguyễn Công Điền được thăng làm Phó tướng Hậu quân dinh, chức cai cơ.

    Tháng 3 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Vương lại cử đại quân tiến đánh Quy Nhơn lần thứ ba. Lưu Nhị hoàng tử Nguyễn Phúc Hy ở lại trấn giữ thành Gia Định, để các tướng Chưởng cơ Nguyễn Văn Nhân, Hình bộ Nguyễn Tử Châu, Lể bộ Nguyễn Thái Nguyên ở lại cùng giúp việc. Lưu Giám thành sứ Tô Văn Đoài cùng các tướng Hoàng Văn Khánh, Trần Đại Luật ở lại bảo vệ hoàng cung. Công bộ Trần Văn Thái sắp sẵn chiến thuyền ở các bến đợi lệnh. Đại khởi sáu vạn quân, ban 32 điều quân chính, từ Gia Định tấn phát. Lệnh cho tướng sĩ từ trên xuống dưới, ai vi phạm quân lệnh, lập tức chém chết. Cho Đại tướng Thủy quân dinh Nguyễn Văn Trương lãnh thủy binh đi trước làm tiền phong, Nguyễn Vương cùng Đại tướng Hữu quân dinh Huỳnh Tường Đức, Đại tướng Hậu quân dinh Võ Tánh và các thuộc tướng đi trung quân, tướng Cai cơ Nguyễn Văn Thịnh và Tham tri Hộ bộ Trịnh Hoài Đức chở quân lương đi theo tiếp ứng.

    Bình Tây Đại tướng Tiền quân dinh Nguyễn Văn Thành đã đem bộ quân đi trước ra thành Diên Khánh. Đại quân Nam Hà theo đường thủy tiến đến bãi Cù Huân thuộc trấn Diên Khánh, lập tướng lệnh cho Nguyễn VĂn Thành tiến đánh Phú Yên.

    Nguyễn Văn Thành kiêm thống lĩnh hai dinh Tiền quân và Tiên phong quân, tổng số hơn hai vạn, hợp cùng với Xiêm binh hơn một vạn, các tướng Đại tướng Tiền phong dinh Nguyễn Văn Tánh, Tướng Tượng Chưởng cơ Nguyễn Đức Xuyên và Tán lý Đặng Trần Thường đều theo đánh Phú Yên.

    Đông cung Nguyên soái Nguyễn Phúc Cảnh cùng các Phó tướng Tả quân Nguyễn Đình Đắc, Nguyễn Công Thái thống quản quân sĩ Tả dinh cùng theo Nguyễn Vương đi đánh Quy Nhơn.

    Triệu Nguyễn Long về trấn giữ thành Diên Khánh, để Nguyễn Văn Nguyễn trấn giữ tam đèo, cho Nguyễn Xuyến giữ kho lương Cù Huân.

    Đại tổng quản Lê Văn Thanh ở Quy Nhơn hay tin quân Nam lại ra, lệnh cho các tướng sĩ nghiêm phòng cẩm mật. Phạm Văn Điềm, Nguyễn Quang Huy giữ Phú Yên.
    Trước Thái phủ Lê Văn Ứng làm Trấn thủ Quy Nhơn, Lê Văn Ứng vốn thân với các quan nội hầu Lê Văn Lợi, Thượng thư Hồ Công Diệu, được Cảnh Thịnh Đế tin tưởng. Còn Đại tổng quản Lê Văn Thanh thì thân với Đại tư đồ Võ Văn Dũng và Thái phó Trần Quang Diệu. Thái phủ Lê Văn Ứng cậy quyền, kiêu ngạo, Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu mưu giết đi. Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản sai Thái phủ Lê Văn Ứng đem một vạn quân vào Quy Nhơn giúp Đại Tổng quản Lê Văn Thanh giữ thành. Đại Tư đồ Võ Văn Dũng và Thái phó Trần Quang Diệu xin với Cảnh Thịnh Đế cho Lê Văn Ứng đem quân vào trước, còn mình đem thủy quân tiến sau. Cả hai mật hẹn với Đại tổng quản Lê Văn Thanh đem viện binh vào cửa Thị Nại, đợi Lê Văn Ứng ra tiếp đón thì bắt giết đi. Thượng thư Hồ Công Diệu sai người mật báo với quân Nam. Thủy binh của Gia Định của Nguyễn Văn Trương trương cờ hiệu Tây Sơn kéo đến cửa Thị Nại, nổ ba tiếng súng rồi kéo ùa vào.

    Đại Tổng quản Lê Văn Thanh ngờ là thủy quân của Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu đã đến, giục Lê Văn Ứng ra đón. Thái phủ Lê Văn Ứng nghi sợ không dám đi. Đến khi quân báo về thì quân Nam đã kéo hết vào cửa Thị Nại, đổ lên bờ tiến đánh. Lê Văn Thanh và Lê Văn Ứng đành kéo quân ra đóng giữ Thốc Lộc và Đê Phụ để chống giữ.

    Nguyễn Vương sai Võ Tánh và Huỳnh Tường Đức đem quân đóng ở Phú Trung, rồi vượt Càn Dương đánh Cựu Phụ. Hai trận đều thắng. Thái phủ Lê Văn Ứng sợ không dám ra đánh, cố giữ Thốc Lộc. Đại quân Gia Định bèn tiến lên đóng ở Trúc Khê.

    Bấy giờ viện binh của Tây Sơn do Thái phó Trần Quang Diệu và Đại Tư đồ Võ Văn Dũng đã tiến đến Quãng Nam. Nguyễn Vương bàn với các tướng: “Muốn lấy Quy Nhơn tất phải đánh viện binh trước”. Bèn sai tướng thuộc Hậu quân dinh Lê Văn Duyệt và Binh bộ Nguyễn Đức Thiện đem binh đến trấn giữ Tân Quan, chốt chặn các đèo ải Cung Quăng và Thạch Tân để ngăn đường. Lại cho hàng tướng là Đại đô đốc Đoàn Văn Cát đem quân đi giữ hai đồn Thái An và Vĩnh Thuận để làm thế ỷ dốc. Nguyễn Văn Trương đem thủy binh ngược Thị Nại ra biển, tuần phòng bờ biển dinh Quảng Ngãi để cứu ứng cho bộ binh.

    Tướng Cai cơ Phạm Văn Nhung và Tham tri Lễ bộ tri Lễ bộ Nguyễn Cửu Hanh thu hết lương thảo bốn thuộc (An Nghĩa, Nhân Ân, Hà Nghiêu, Hà Bạc) huyện Tuy Viễn về chứa ở đồn Hàm Thủy để ngăn đường lương quân Tây Sơn đóng ở Quy Nhơn.

    Võ Tánh cùng Hoàng Tường Đức đem hai vạn quân giao chiến với quân Tây Sơn ở đồng Thị Dã. Thái úy Trương Tấn Thúy thua chạy, quân Gia Định đuổi đến cầu Tân An, các tướng Tây Sơn lại quay lại đánh tiếp. Vệ úy Tôn Thất Nông của quân nam bị giết tại trận, bên phía Tây Sơn, Đô đốc Nguyễn Thực cũng bị chém chết.
    Các tướng Tây Sơn đắp đồn lũy để bảo vệ thành Quy NHơn, hàng ngày quân hai bên đều giao chiến. Quân Tây Sơn giữ Tây Sơn đều gắn sức cố thủ để đợi viện binh.

    Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Thiện đem binh đi ngăn quân cứu viện của Tây Sơn, tiến đánh kho lương Đạm Thủy. Đoàn luyện [Nguyễn Văn] Giảng đem quân ra giao chiến, Lê Văn Duyệt thúc voi đánh rấn, chém [Nguyễn Văn] Giảng ngay tại trận. Quân Tây Sơn tan vỡ, Lê Văn Duyệt đốt kho lương rồi đem binh đóng chốt ở Tân Quan.

    Tướng Cai cơ Nguyễn Tiến Huyên và Tham mưu Nguyễn Tử Chính đem quân đến ứng viện cho Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt sai hai tướng đem quân đóng giữ hang Hôn Cốc và núi Sa Lung, phụ dụ các sách người Đê để ngăn quân Tây Sơn. Các sách người Đê trước giúp Thái Đức Đế khởi binh, nay Cảnh Thịnh Đế bức hiếp Thái Đức Đế, giết Thái tử Nguyễn Bảo, các tộc Đê lại quay mặt xem quân Phú Xuân của Cảnh Thịnh Đế như kẻ thù.

    Mặt nam Phú Yên, Nguyễn Văn Thành vây đánh Phú Yên, Tham đốc Tây Sơn Phạm Văn Điềm cô thế phải ra hàng

    Hồi:

    Giận Tây Sơn, Lê Đô đốc ra hàng
    Tiệt binh viện , Nam quân hạ hoàng thành



    Đô đốc Tây Sơn là Lê Chất bấy giờ đang theo việc quân dưới trướng của Đại Tổng quản Lê Văn Thanh. Lê Chất thấy quân Nam đã tiến sát đến thành Quy Nhơn, bèn viết một phong thư gửi lại cho Đại Tổng quản Lê Văn Thanh. Đại ý nói: “Kẻ mạt tướng này đội ơn quần hầu che chở được toàn mạng mà lưu hầu dưới trướng. Nhưng nay khí số Tây Sơn đã hết, trong nhà thì anh em đánh giết lẫn nhau, tướng tá nghi kỵ. Cảnh Thịnh ngu tối, chẳng biết thị phi. Chất này nặng mối thù nhà, không thể không báo. Ngày sau nếu có còn được gặp, xin đội cỏ để đáp ơn sâu.”

    Đoạn đem theo quân tùy tùng thuộc hạ mấy trăm người, mở cửa đồn đến doanh trại của Đại tướng Hậu quân dinh Võ Tánh xin hàng. Lê Chất khi còn làm tướng Tây Sơn dưới trướng Đại Tư lệ Lê Trung, nổi tiếng là gan dạ, thiện chiến, giỏi dùng binh, tướng sĩ Gia Định có nhiều người thân bỏ mạng dưới tay Lê Chất. Các tướng dưới quyền của Võ Tánh muốn giết Lê Chất cho hả giận, Võ Tánh không cho, rồi dẫn Lê Chất đến doanh trướng của Nguyễn Vương để ra mắt.

    Đại Tổng quản Lê Văn Thanh suốt mấy hôm không thấy Lê Chất đến, liền sai người đi vời. Kẻ dưới trướng đem thư về dâng, Lê Văn Thanh đọc xong thư bèn thở dài than: Lê Chất quả đi thật rồi, Ta đâu phải không biết khí số nhà Tây Sơn đã hết nhưng phận làm tướng mang tiếng hàng thần đâu dễ gì chịu được”. Bèn đốt thư, dấu kín chuyện đấy.

    Nguyễn Vương thấy Lê Chất đến hàng thì mừng lắm, lấy lời phủ dụ vổ về, lại trao vàng bạc ban thưởng, sai theo Đại tướng Hậu dinh quân Võ Tánh để sai khiển. Lại bảo các hàng tướng là Đại Đô đốc Trương Văn Luân, Đoàn Văn Cát, các Đô đốc Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Công Điền đến an ủi Lê Chất. Lê Chất đem hết sở trường sở đoản của tướng sĩ Tây Sơn từng người trong thành Quy Nhơn kể rõ cho Nguyễn Vương và các đại tướng Võ Tánh, Hoàng Tường Đức biết. Quân thế Tây Sơn giữ Quy Nhơn vốn đã nhụt, tướng sĩ nghe tin Lê Chất còn sống, theo hàng quân Gia Định thảy đều hoang mang, dao động.

    Đại tướng Nguyễn Văn Thành đem toàn bộ quân Tiền dinh, Đại tướng Nguyễn Văn Tánh đem toàn bộ quân Tiền phong dinh từ Phú Yên đến đánh mặt nam Quy Nhơn. Mặt bắc có quân Hậu dinh của Đại tướng Võ Tánh, quân Hữu dinh của Huỳnh Tường Đức. Bốn đạo quân bủa vây bốn mặt, thế quân Tây Sơn ở Quy Nhơn ngày càng núng, vòng vây ngày càng khép chặt.

    Sai Nguyễn Văn Thụy, Lưu Phước Tường đi Xiêm xin viện binh.



    Nguyễn Vương nghe tin viện binh Tây Sơn thế lớn, truyền cho hai tướng Nguyễn Văn Thành và Tống Viết Phước rút lui, lựa địa thế hiểm yếu chống đỡ. Hai tướng vỗ ngực nói: “Có hai chúng tôi ở đây, xin chúa thượng đừng lo”.

    Thái phó Trần Quang Diệu đem quân đến trước núi Thạch Tân, thấy quân Nam đã đóng đồn tựa nơi núi cao để giữ, thế vững chắc. Trần Quang Diệu nói với Đại Tư Đồ Võ Văn Dũng:
    - Tôi sẽ đem binh hư trương đánh mặt trước. Tướng quân đem quân ngầm vượt Chông Hàm mà đánh mặt sau.

    Đại Tư đồ Võ Văn Dũng bèn dẫn hơm một vạn quân cùng các tướng theo lối Chông Hàm vượt giữa các khe núi mà tiến. Bấy giờ Phó tướng Tả quân Tống Viết Phước chỉ có hơn năm ngàn quân đóng giữ các khe núi, lệnh cho quân sĩ đào thật nhiều hầm hố ở các đường hẽm, dưới đặt chông chà, trên phủ đất cỏ. Lại cắm thật nhiều cờ quạt để nghi binh. Tống Viết Phước chia quân ra hơn mười đạo, chia cho các bộ tướng điều khiển, còn mình cắm cờ đứng trên núi cao phất cờ, đốt lữa làm hiệu lệnh.

    Quân Tây Sơn theo các lối mòn từ từ mà tiến, thấy vách núi cheo leo hiểm trở, đường lối quanh co, lại thấy cờ quạt của quân Nam căm chi chít lòng rất e sợ. Đại Tư đồ Võ Văn Dũng nghiêm lệnh cho toàn quân giữ đội hình, lựa đường mà tiến. Tống Viết Phước ở trên núi cao thấy quân Tây Sơn đã tiến sâu vào trận địa liền phất cờ cho các đạo quân ra đánh chặn. Mười đạo quân thay nhau quấy rối khiến cho quân Tây Sơn không phút nào được yên nghĩ. Đêm xuống, Tống Viết Phước đích thân dẫn mười cánh quân tập kích quân Tây Sơn, đại quân Tây Sơn náo loạn, dày xéo lên nhau kiếm đường mà chạy. Lớp bị tên bắn, lớp sa hầm chông, lớp đạp nhau mà chết. Hơn một vạn quân chỉ còn hơn ba ngàn thoát ra được. Từ khi Võ Văn Dũng cầm quân đến nay chưa có trận nào thảm bại đến vậy.

    Tống Viết Phước thừa thắng đem quân đuổi sát phía sau. Thái phó Trần Quang Diệu hay tin quân của Đại Tư đồ Võ Văn Dũng lâm nguy, liền cho Đô đốc Lê Danh Phong đem ba ngàn quân đi tiếp cứu. Tống Viết Phước thấy cứu binh Tây Sơn đã đến lập tức rút lui, rồi thu nhặt khí giới và giải hàng binh về.

    Đại Tư Đồ Võ Văn Dũng đem vài ngàn quân chiến bại đến doanh trại của Thái phó Trần Quang Diệu cảm tạ. Bấy giờ, cánh quân của Võ Văn Dũng đã mất hết vũ khí, lương thảo, tướng sĩ nhiều người bị thương, bản thân Võ Văn Dũng cũng bị mấy vết. Thái phó Trần Quang Diệu liền lấy lời úy lạo, khuyên giải, lại đem ba ngàn quân dưới quyền mình giao cùng quân nhu cấp cho Đại Tư đồ Võ Văn Dũng quản lý, dấu nhẹm việc thua trận không báo về triều. Võ Văn Dũng nhớ lại những chuyện xung khắc của mình với Trần Quang Diệu khi trước, lòng rất hổ thẹn, cảm khích rơi cả nước mắt bèn nguyện kết làm anh em thề cộng sinh đồng tử. Thái phó Trần Quang Diệu vui mừng nhận lời, tướng sĩ bộ thuộc của hai người ai cũng lấy làm vui mừng.

    Tả quân Phó tướng Tống Viết Phước sai người giải hàng binh về Quảng Ngãi. Nguyễn Vương mừng rõ, khen ngợi Tống Viết Phước và quân sĩ. Nguyễn Vương thấy hàng quân Tây Sơn người nào cũng đội một cái mũ mo cau lấy làm lạ hỏi. Có người biết trả lời đó là mũ che nắng của người đi đường, quân Tây Sơn ở Phú Xuân, Quãng Nam ai cũng có một cái như thế. Đặng Đức Siêu nói:
    - Hãy cho các hàng binh này đội mũ mo cau, giải đến quân thứ ở Quy Nhơn, thả cho chúng về thành. Quân Tây Sơn ở Quy Nhơn thấy binh viện đã bị đánh thua, hàng binh không bị giết tất sẽ dao động, không đánh mà hàng. Đấy là cái kế lấy Kinh Châu của Lữ Mông khi trước.

    Nguyễn Vương nghe theo, sai quân giải hàng binh về Quy Nhơn, lại chọn lấy năm trăm hàng binh cho thả về thành Bình Định
    Bấy giờ quân Hậu dinh của Võ Tánh và quân Hữu dinh của Huỳnh Tường Đức đóng đồn phía đông bắc, quân Tiền dinh của Nguyễn Văn Thành và Tiên phong dinh của Nguyễn Văn Tánh đóng đồn phía đông nam, tất cả đều theo lệnh Võ Tánh thống quản, hai mặt đánh ép lại. Ngày nào hai bên cũng đem quân đánh nhau, nhưng quân của Tây Sơn ở Quy Nhơn thua luôn, vòng vây mỗi lúc một khép chặt lại.

    Bấy giờ viện binh Phú Xuân của Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bị chặn lại ở Quảng Ngãi chưa tiến lên được mà thế quân ngày mỗi núng. Chỉ có Thái phủ Lê Văn Ứng cầm 6000 quân cùng 50 thớt voi đã ra đóng đồn ở ấp Tây Sơn Thượng, chứa quân lương ở đó để làm thế ỷ dốc với quân trong thành của Đại Tổng quản Lê Văn Thanh, làm kế đánh lâu dài chờ viện binh.

    Đại tướng Hậu quân dinh Võ Tánh bàn với các tướng Huỳnh Tường Đức, Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Tánh:
    - Quân kia cố thủ trong thành chỉ cậy có quân ứng cứu của Lê Văn Ứng mà thôi. Nay đem quân đánh phá Lê Văn Ứng, bọn kia thấy tuyệt đường tất phải chịu hàng. Bèn chia nữa số quân, để Huỳnh Tường Đức và Nguyễn Văn Tánh ở lại vây quân Lê Văn Thành. Võ Tánh tự mình cầm quân, hợp binh với Nguyễn Văn Thành kéo đi vây đánh Lê Văn Ứng ở Tây Sơn Thượng. Võ Tánh tự mình đi cánh giữa, sai Đại tướng Tiền quân dinh Nguyễn Văn Thành và Tướng Chưởng Tượng cơNguyễn Đức Xuyên đi tả đạo, Phó tướng Hữu quân Nguyễn Công Điền và Lê Chất đi hữu đạo. Đem hết tượng binh của Nguyễn Đức Xuyên hơn hai trăm thớt voi chia đôi, một nữa để cho Nguyễn Đức Xuyên quản lãnh, một nữa giao cho Lê Chất thống quản. Cả ba đạo hơn một vạn quân rầm rồ kéo đến Tây Sơn Thượng.

    Các tướng [] ở trong thành thấy quân Nam kéo đi vội chia quân đánh để cứu nguy. Huỳnh Tường Đức cùng Nguyễn Văn Tánh đốc quân đánh chặn, lại đem toàn bộ các tay súng hổ mai và thần công bắn rát, quân của các tướng [] không sao thoát được ra ngoài.

    Thái phủ Lê Văn Ứng thấy quân ba đạo tiến đến mà quân của mình quá ít, bèn chiếm lấy đất Cà Đáo, tựa nên đồi cao để cố thủ. Các tướng Lê Chất, Nguyễn Công Điền, Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Văn Thành, Võ Tánh ba mặt đánh dồn, mấy trăm thớt voi lướt đất mà tiến. Lê Chất với Lê Văn Ứng có cái thù khi trước, tự mình ngồi trên bành voi thúc quân đánh rấn. Toàn quân của Lê Văn Ứng tan vỡ, bị giết hơn một nữa, số con lại đều quăng súng, bỏ giáo mà đầu hàng. Thái phủ Lê Văn Ứng cùng một số thuộc hạ thân tín bỏ quân, chạy thoát lên Tây Sơn Thượng, nấp trong núi trốn thoát. Lê Chất không bắt được Lê Văn Ứng rất lấy làm tức giận.

    Võ Tánh sai người thả mấy chục hàng binh của Thái phủ Lê Văn Ứng về thành, Nguyễn Vương cũng sai người đưa mấy trăm hàng binh đội mũ mo cau của Đại Tư đồ Võ Văn Dũng bị bắt khi trước đến. Các tướng trong thành Quy Nhơn cùng Đại Tổng quản Lê Văn Thanh trông thấy đều bàng hoàng lo sợ. Các tướng [] còn muốn đánh tiếp, nhưng Thái úy Trương Tấn Thúy, Binh bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phác cùng bọn Đô đốc [] đều cho rằng đánh nữa vô ích, quân lương cạn kiệt, binh viện đã vỡ, nên đầu hàng thì hơn. Đại Tổng quản Lê Văn Thanh mật vời các tướng [] đến rồi nói:
    - Các ngươi một lòng trung nghĩa thật đáng khen, nhưng nay quân lương đã cạn kiệt, có chết cũng vô ích. Chi bằng tạm đầu hàng để lưu mạng sống. Năm sau thế nào quân ta lại đến, khi đấy tìm cách theo về để trả thù cũng chưa muộn.

    Các tướng đều khóc mà tuân theo lời dạy. Đại Tổng quản Lê Văn Thanh cùng Thái úy Trương Tấn Thúy bèn kéo cờ trắng lên bốn cổng thành rồi sai người đến xin hàng Võ Tánh, xin tha mạng cho toàn quân. Nguyễn Vương hay tin liền sai Tham tri Lại bộ Nguyễn Bảo Tiến và Tham mưu Trần Quang Thái đem chỉ dụ vào thành cho Đại Tổng quản Lê Văn Thanh, đại ý nói: “Bọn ngươi đã biết quy thuận, ta cũng lấy lòng thành tiếp đãi, ngày trước là cừu địch, ngày nay là vua tôi, đều không nên ngờ sợ gì nữa”.
    Nguyễn Vương cùng các tướng Võ Tánh, Huỳnh Tường Đức, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Tánh kéo quân vào thành. Đại Tổng quản Lê Văn Thanh, Thiếu úy Trương Tấn Thúy, Binh bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phác cùng các tướng và hơn một vạn ba trăm người đều tự trói lạy phục hai bên cổng thành. Nguyễn Vương tha tội cho các hàng tướng, đem bộ khúc chia vào các dinh quân để cai quản, đoạn mở tiệc khao thưởng tướng sĩ.

    Các tướng đều đến lạy mừng, Nguyễn Vương bèn đổi tên thành Hoàng Đế thành thành Bình Định (nghĩa là đã bình định được). Tên thành Bình Định bắt đầu có từ đấy.
    Viện binh của Trần Quang Diệu và Võ Văn Dung vẫn đánh phá các đồn lũy ở Quảng Nam. Các tướng đều xin đem binh đi tiếp ứng cho Lê Văn Duyệt và Tống Viết Phước. Nguyễn Vương bèn lệnh cho Nguyễn Hoàng Đức đem Hữu quân đến đóng ở Thạch Tân [Bến Đá], Nguyễn Văn Thành đem Tiền quân đóng ở Hôn Cốc, [Hang tối], Nguyễn Văn Tánh đem quân Tiên phong đóng ở Sa Lung, Nguyễn Đức Xuyên đem tượng binh theo Đông cung Nguyên soái Nguyễn Phúc Cảnh đi giữ Châu Dã. Nguyễn Vương thì đóng ở thành Bình Định để tiếp cứu cho các đạo.
     
  19. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Sau đây là một hồi đang viết, khá ưng ý, về giai đoạn hỗn chiến ở Bắc Hà.

    Các anh em đọc nhé!

    Hồi :

    Bằng Trung Công tận trung tử tiết
    Chiêu Thống Đế mưu sự trung hưng


    Nội dung:
    - Nguyễn Hữu Chỉnh thua trận bị giết, Chiêu Thống hạ chiếu Cần Vương
    - Quân nhà Lê nổi lên đánh phá
    - Hoàng Viết Tuyển và Nguyễn Viết Khang hợp quân đánh Tây Sơn

    Nhắc lại Đô đốc Nguyễn Văn Hòa kéo quân đến Điềm Xá vừa gặp quân Bắc Hà kéo đến, Tướng tiền phong Bắc Hà là Tự Trung hầu Nguyễn Trọng Hoàn tung quân ra đánh, Nguyễn Văn Hòa phải lùi lại hai dặm. Tả quân Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm và Tư mã Ngô Văn Sở cùng đại đội binh mã ồ ạt kéo đến, Đô đốc Nguyễn Văn Hòa cũng hồi quân lại đánh. Bên phía Bắc Hà, Nguyễn Như Thái, Tải Vũ, Triệu Vũ cũng vừa đến. Quân hai nhà lao lên hỗn chiến, cát mụi mù trời, tiếng hô dậy đất.

    Tướng tiền phong của Đô đốc Đặng Giản là Đô đốc Đặng Quỳnh đem ngàn kỵ binh tiến ra trấn lỵ Sơn Nam, nghe tin quân nhà đang giao chiến ở Điềm Xá, vội đem quân đi cứu ứng. Bấy giờ Vũ Văn Nhậm và Ngô Văn Sở, Nguyễn Văn Hòa thấy quân Bắc Hà đánh rát quá, kéo quân lùi lại. Tự Trung hầu Nguyễn Trọng Hoàn liền đốc các tướng đuổi theo. Quân Bắc Hà, bỏ đội ngũ, ùa theo truy sát. Chợt khinh kỵ của Đô đốc Đặng Quỳnh ập đến phía sau thế như vũ bão, Thái Lĩnh hầu Nguyễn Như Thái thúc ngựa ra tiếp chiến. Phía trước ba tướng Tây Sơn thấy có cứu binh lập tức quay đánh ngược trở lại. Tải Vũ, Triệu Vũ mình dính chục vết thướng, gắng sức tử chiến đều bị giết. Tự Trung hầu Nguyễn Trọng Hoàn kinh hoãng tháo lui, tìm đường chạy trốn. Thái Lĩnh hầu Nguyễn Như Thái cũng không dám ham đánh, thu quân bỏ chạy về hướng Gián Khẩu. Các tướng Tây Sơn thừa thắng đuổi theo.

    Thái Lĩnh hầu Nguyễn Như Thái chạy về Gián Khẩu thì hay tin Đô đốc Đặng Giản đã đánh úp chiếm lấy Sơn Nam, toàn quân tan vỡ. Thái Lĩnh hầu Nguyễn Như Thái phải thu nhập tàn quân, chạy đi Sơn Miêng, mưu chiếm lại trấn Sơn Nam.

    Tàn quân ở trấn Sơn Nam chạy về Thăng Long báo tin. Bấy giờ quan quân ở Thăng Long thấy quân nhà thất trận liên tiếp, lòng người đều hoảng loạn, đưa nhau đem của cải, bồng bế vợ con đi lánh nạn. Đại Tư đồ Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh hoảng hốt, vào cung xin với Tự hoàng tự mình làm tướng kéo đi chống giặc. Tự hoàng liền cho Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh làm Tiết chế, đem hết quân ở kinh thành, quân của các hoàng thân và tướng sĩ các đạo đều thuộc quyền thống quản, được hơn ba vạn. Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh nói với con là Bái Đình hầu Nguyễn Hữu Du:
    - Chiến tướng của ta chỉ có bốn người là Nguyễn Trọng Duật, Nguyễn Như Thái, Hoàng Viết Tuyển, Nguyễn Cảnh Thước. Nguyễn Trọng Duật tử trận, Nguyễn Như Thái chưa biết sống chết thế nào, Nguyễn Cảnh Thước ở Kinh Bắc không về cứu kịp, Hoàng Viết Tuyến thì đóng thủy sư không chịu tiếp ứng. Ngươi hãy đem năm ngàn thủy quân cùng châu sư tiến ra giữ vững mặt bắc sông Thanh Quyết, chớ để quân Tây Sơn qua sông. Ta sẽ đem đại quân đến sau.
    Bái Đình hầu Nguyễn Hữu Du liền đem năm ngàn quân với 50 chiến thuyền chất đầy hỏa khí kéo đến giữ sông Thanh Quyết. Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh cùng các tướng kéo quân đến phía sau bờ sông hạ mười đại trại, lập kế chống giữ.

    Đô đốc Phan Văn Lân, Đô đốc Đặng Quỳnh đem quân đến bờ sông Thanh Quyết, thấy chiến thuyền Bắc quân đậu bên kia sông, quay đầu vào bờ. Đô đốc Phan Văn Lân liền sai Đô đốc Đặng Quỳnh đem hơn ba trăm quân, cởi trần đợi đến đêm lội xuống sông, lấy dây thừng lớn quẳng lên thuyền kéo hết về bờ Nam. Bấy giờ tiết trời đang lạnh căm, thủy quân của Nguyễn Hữu Du bỏ thuyền lên bờ đốt lửa sưởi rét, thấy chiến thuyền tự nhiên trôi về bờ nam đều hoảng hốt bỏ chạy về phía sau lũy.
    Đô đốc Phan Văn Lân lại sai quân sĩ cởi bè, nhắm vào mặt lũy, lựa nơi có đốt lửa mà bắn. Quân giữ lũy vì sợ trời lạnh túm lại ở các nơi ấy đều bị trúng đạn, sợ hãi bỏ cả lũy mà chạy về. Nguyễn Hữu Chỉnh hay tin lo sợ, thấy tiến lui đều khó, bèn bàn với các tướng rút lui giữ Châu Cầu. Nửa đêm đốt lửa xem sách, xem một quẻ có câu: “Nước có giặc lớn, nguyên nhung thua trận”. Đang lo lắng chợt có đám ong rừng bay đến đốt vào cổ, đau nhức cả mặt. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy toàn điềm gở, lại thêm đau nhức không tính được việc quân, bèn hạ lệnh thu quân rút lui về Thăng Long. Toàn quân không hiểu nguyên do, đều hoảng hốt tranh giành nhau, tan vỡ mà chạy. Bao nhiêu vũ khí, gươm giáp, nghi trượng đều vứt bỏ ngổn ngang đầy đường. Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh cùng con là Bái Đình hầu Nguyễn Hữu Du đem ba trăm quân kỵ chạy về Thăng Long, gặp Tự hoàng.

    Sáng hôm sau Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm thấy Nguyễn Hữu Chỉnh đã thu quân chạy, bèn sắp quân tề chỉnh, tiến sang sông rồi thẳng tiến ra Thăng Long. Lại viết một bức thư sai Đô đốc Đặng Giản cho người đem đi gửi cho Trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Cảnh Thước.
    Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh chạy về đến Thăng Long vội sau Nguyễn Kim Khuê vào cung tâu với Tự hoàng ngày mai dời xa giá sang Kinh Bắc. Lại về Lượng phủ sai gia nhân thu thập hết hành trang để dời đi trước.

    Chiêu Thống Đế Lê Duy Khiêm muốn dời đi trấn Sơn Tây. Trấn đấy vẫn còn do hai bộ công cụ lao động̉a Thạc Vũ công Hoàng Phùng Cơ là Hoàng Phùng Vạn, Hoàng Phùng Gia đóng binh ở đấy. Bằng côngNguyễn Hữu Chỉnh sợ không có lợi cho mình, bèn nói:
    - Thăng Long trống trải không phải là nơi chống địch. Nay hãy tạm qua Kinh Bắc, nơi đấy có thành quách vững chãi, có sông Nhị Hà ngăn trở có thể giữ được. Rồi bệ hạ hạ chiếu Cần Vương, đem quân các trấn về đoạt lại Thăng Long. Việc đã gấp, không thể chậm trể được.

    Tự hoàng bèn sai người đưa cung quyến qua sông.

    Tự hoàng bèn sai người đến dinh tìm gặp Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh trả lời

    Chiêu Thống Đế thấy sự đã kíp bèn sai các quan đến dinh của Bằng Công Nguyễn Hữu Chỉnh để bàn cách chống giữ. Các quan đến tư dinh, thấy Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn cười nói như không.

    Chiêu Thống Đế Lê Duy Khiêm bèn sai em là Lê Quy Chi và Lê Quýnh đưa Thái hậu, và cung quyến đi trước lên Thái Nguyên.

    Chiêu Thống Đế Lê Duy Khiêm được Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh đem ba ngàn quân Vũ Thành hộ tống qua sông Nhị Hà đến trấn Kinh Bắc, sai người triệu Trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Cảnh Thước đến liệu việc.

    Trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Cảnh Thước vốn đã nhận được thư của quân Tây Sơn do Đô đốc Đặng Giản gửi đến. Nguyễn Cảnh Thước giở ra xem thì thấy đại ý nói:
    - Nguyễn Hữu Chỉnh chống lại Tây Sơn, ép Tự hoàng đi trốn, tất chạy qua đấy. Nếu vâng lệnh bắt Nguyễn Hữu Chỉnh, đưa Tự hoàng về kinh thì cho giữ chức cũ, gia thưởng. Nhược bằng cất quân chống lại thì giết cả ba họ.

    Nguyễn Cảnh Thước cũng như Nguyễn Hữu Chỉnh, Hoàng Viết Tuyển đều để gia quyến lại trấn Nghệ An, đọc thư rất sợ, sai người đóng chặt bốn cổng thành, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chợt có người của Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh đến đòi gặp, Nguyễn Cảnh Thước bất đắc dĩ vời vào, rồi theo người ấy đến quân doanh của Nguyễn Hữu Chỉnh ở ngoài thành. Đến nơi thấy quân sĩ của Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh đóng trại vẫn tề chỉnh, lòng lo lắng liền nói:
    - Trong thành có năm ngàn quân có thể giữ được. Tôi sẽ đón Tự hoàng về thành, tướng quân mau qua sông Như Nguyệt, thu thập quân các đạo giữ lấy vùng Hà Bắc. Tôi sẽ thu thập quân mã, lương thảo giữ lấy đất này.

    Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh theo kế ấy, thu quân qua sông Như Nguyệt, sai Nguyễn Cảnh Thước hộ tống Chiêu Thống Đế. Nguyễn Cảnh Thước vâng dạ rồi hối Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh đi mau.

    Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh đi rồi, Nguyễn Cảnh Thước đóng chặt cổng thành không chịu tiếp kiến Chiêu Thống Đế. Chiêu Thống Đế vừa khóc vừa hận chạy đến bờ sông Luống, thì không có thuyền. Thủ hạ của Nguyễn Cảnh Thước nhân thế cướp đoạt hết hành lý và đồ ngự dụng. Các quan ai cũng tức giận, thề giết Nguyễn Cảnh Thước. Nguyên Nguyễn Cảnh Thước vì thế bất đắc dĩ, không dám theo Chiêu Thống Đế, thả ra lại sợ Vũ Văn Nhậm trị tội, giết vua thì sợ mang tiếng với thiên hạ, bèn đòi đồ quốc bảo làm con tin. Chiêu Thống Đế gạt lệ sai mở hòm thì chỉ còn lại cái ấn truyền quốc và bốn mươi lạng bạc. Nguyễn Cảnh Thước đòi lấy chiếc ấn, Chiêu Thống Đế khóc mà nói:
    - Chẳng thà ngươi giết ta đi thì hơn.

    Nguyễn Cảnh Thước toan ép vua về lại Kinh Bắc, Chiêu Thống Đế không chịu, đám thị thần đều dương mắt lên toan liều chết với Nguyễn Cảnh Thước. Nguyễn Cảnh Thước bất đắc dĩ lột chiếc áo hoàng bào mà Chiêu Thống Đế đang mặc để làm tin, đem về dâng nạp.
    Các thị thần tìm mãi mưới được một chiếc thuyền đưa Chiêu Thống Đế qua sông. Báy giờ bề tôi còn lại chỉ còn sáu, bảy người là Nguyễn Đình Giản, Phạm Đình Dữ, Chu Doãn Lệ, Trương Đăng Quỷ, Vũ Trinh và Bùi Dương Lịch. Vua tôi đưa nhau đi đến đất Mục Thị huyện Yên Dũng.

    Tri huyện Yên Dũng là Nguyễn Thản hay tin đem hơn trăm hương binh đến hộ giá. Bấy giờ Nguyễn Thảng đã hơn 60 tuổi, nghe tin Nguyễn Cảnh Thước làm phản, rất tức giận, xin với Chiêu Thống Đế cho người đi giết Nguyễn Cảnh Thước. Chiêu Thống Đế khen là khẳng khái, ban cho Nguyễn Thảng chức Khoa cấp sự trung.

    Hoàng đệ Lê Duy Chi và Thị thần Lê Quýnh cũng đưa được Thái hậu, Nguyên tử và tôn thất đến. Chiêu Thống Đế bèn sai Lê Duy Chi và Lê Quýnh đưa Thái hậu, Nguyên tử và tôn thất hơn ba mươi người lên Cao Bằng, Thái Nguyên trú ngụ, lại cho kiêm quản hai trấn ấy để lo việc cần vương. Nhân đấy hỏi Nguyễn Thản:
    - Gần đây có binh mã của ai có thể kêu gấp đến không?
    Nguyễn Thản thưa:
    - Trấn nay loạn lạc đã lâu, vương pháp không với đến. Gần đây chỉ có một tay hào mục là Dương Đình Tuấn có thuộc hạ hơn 3000 người, quanh đây không ai dám động đến.

    Chiêu Thống Đế bèn sai Nguyễn Thản đem thư đi chiêu dụ Dương Đình Tuấn, lại cho Trương Đăng Quỹ đi gọi Nguyễn Hữu Chỉnh đem binh đến để hộ giá
    Nguyên Dương Đình Tuấn là thổ hào đất Mục Sơn, vốn là một tay cự phú trong vùng, nổi tiếng khắp lộ Lạng Giang. Phàm những kẻ tù tội hoặc bị oan ức đều đến xin nhờ nơi gia môn của Dương Đình Tuấn, nên môn hạ và thủ hạ dưới trướng rất đông. Bình sinh Dương Đình Tuấn rất ghét quan quân Liêu phủ họ Trịnh nên nay nghe chiếu Cần Vương của Chiêu Thống Đế bèn đem thuộc hạ đến đón hai bên đường xin lấy nghĩa khuông lao động đường phố. Chiêu Thống Đế bèn phong Dương Đình Tuấn làm Bình Khấu Tướng quân, tước Quận công, ban thưởng cho bọn thuộc hạ để theo giúp rập.

    Bấy giờ quân dưới trướng của Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh còn được khoảng một vạn người, số quân của Dương Đình Tuấn và Nguyễn Thảng mộ được mới hơn năm ngàn. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng vững tâm bèn tâu với Chiêu Thống Đế:
    - Nay tôi liều mình cùng các tướng ở lại chặn địch. Phiền hoàng thượng cùng các quan đem xa giá dời đến Lạng Giang để phòng ngừa biến rồi phát chiếu Cần Vương đi các trấn mới mong có thể trừ được giặc dữ.

    Chiêu Thống Đế bèn khóc mà từ biệt. Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh hối thúc các quan văn đưa Chiêu Thống lên xe. Đoạn đem quân đến Tam Tầng Sơn sai Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn đem quân đóng bên tả dựa lưng vào dốc núi, Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh tự cầm quân đóng bên hữu núi. Con trai của Nguyễn Hữu Chỉnh là Bái Đình hầu Nguyễn Hữu Du làm tiên phong cầm bảy ngàn quân bày trận dàn nơi cánh đồng trước núi để đợi địch. Bùi Dương Lịch và Nguyễn Thảng nắm hậu quân đóng trên cao sau núi để đốc chiến.

    Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm kéo quân từ Sơn Nam vào thành Thăng Long, dọc đường không ai còn dám ngăn trở nữa. Vũ Văn Nhậm tự lưu quân đóng giữ ở đấy, sai Đô đốc Đặng Quỳnh đem quân đóng giữ trấn Sơn Nam, rồi sai người đi chiêu hàng các trấn. Sai [] đem quân đi đánh trấn Sơn Tây, [] đem quân đi đánh Thái Nguyên. Đoạn sai các tướng Đô đốc Nguyễn Văn Hòa làm đại tướng, Tư mã Ngô Văn Sở, Đô đốc Phan Văn Lân làm tả hữu, Đô đốc Võ Văn Nguyệt làm hậu ứng, đốc quân đuổi theo Nguyễn Hữu Chỉnh. Quân Tây Sơn đuổi đến núi Tam Tầng (Tam Tầng Sơn) thì thấy Nguyễn Hữu Chỉnh đã dàn trận đợi sẵn. Các tướng Tây Sơn bèn bày trận rồi tiến đến.

    Đô đốc Nguyễn Văn Hòa đem toàn quân trung tâm vào phá trận. Bái Đình hầu Nguyễn Hữu Du đốc quân ra ngăn địch. Nguyễn Hữu Du cưỡi ngựa phóng ra trước trận chém một lúc hơn mười địch quân. Quân hai bên xung sát, Nguyễn Hữu Du tả xông hữu đột, thế quân Tây Sơn hơi núng. Đô đốc Nguyễn Văn Hòa liền hô quân lùi lại phía sau.

    Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn thấy Nguyễn Hữu Du đem quân đánh thắng cánh quân giữa trận của Tây Sơn thì cả mừng, đốc hết quân sĩ dưới quyền mình bỏ vị trí tràn xuống đánh giết. Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh đóng quân ở mé hữu núi trông thấy thế thì kêu khổ trong lòng.

    Tư mã Ngô Văn Sở thấy tả quân của địch tiến đến liền đón đánh. Bấy giờ Nguyễn Hữu Du cũng không dám đuổi theo Tây Sơn đã ra hiệu cho quân mình rút lui. Đô đốc Nguyễn Văn Hòa lập tức dẫn mấy trăm kỵ binh từ trung quân đánh ập vào cánh quân bên tả của Dương Đình Tuấn. Đám quân của Dương Đình Tuấn lâu này chưa từng đánh trận bao giờ, chỉ quen đánh giết cướp bóc bị hai cánh quân Tây Sơn đánh kẹp lại chết gần hết.
    Đô đốc Võ Văn Nguyệt ở phía sau thấy bên tả trận của Nguyễn Hữu Chỉnh đã bỏ trống lập tức đem hơn mấy trăm kỵ binh vòng ra mé sau trận, qua phía tả đánh thẳng lên chổ cắm cờ lệnh đốc chiến của Nguyễn Thảng và Bùi Dương Lịch. Mấy chục quân sĩ đứng phía trước tiến ra ngăn cản đều bị quân Tây Sơn chém chết hết. Bùi Dương Lịch và Nguyễn Thản hỏang sợ bỏ chạy. Đô đốc Võ Văn Nguyệt tế ngựa đến chém gãy lá đại kỳ làm hiệu lệnh đổ xuống.

    Nguyễn Văn Hòa, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân dẫn toàn quân Tây Sơn xông vào chém giết. Quân của Nguyễn Hữu Chỉnh thấy đại kỳ đã đổ hoảng sợ bỏ chạy. Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh chém chết mấy người vẫn không ngăn cản được. Đô đốc Nguyễn Văn Hòa phi ngựa đến đánh với Nguyễn Hữu Du được mấy hiệp liền chém Nguyễn Hữu Du chết lăn xuống chân ngựa. Tham tri chính sự Nguyễn Kim Khuê đứng lượt trận nơi cánh trung quân của Nguyễn Hữu Du cũng chết trong đám loạn quân.

    Bên tả, quân của Dương Đình Tuấn cũng đại bại. Hai con trai của Dương Đình Tuấn bị chém chết tại trận. Thuộc hạ của Dương Đình Tuấn bị chết gần hết, bèn đánh mở đường máu chạy thoát.

    Bên hữu, quân của Nguyễn Hữu Chỉnh cũng bị Đô đốc Phan Văn Lân đánh tan. Nguyễn Hữu Chỉnh biết thế chống không lại bèn đánh tìm đường thoát ra phía sau. Đô đốc Nguyễn Văn Hòa dẫn mấy mươi kỵ binh gắn sức đuổi theo. Lại lấy súng điểu thương nhắm bắn. Ngựa của Nguyễn Hữu Chỉnh trúng đạn, hất Nguyễn Hữu Chỉnh ngã xuống. Đô đốc Nguyễn Văn Hòa liền áp đến bắt sống Nguyễn Hữu Chỉnh giải về. Trận này quân nhà Lê đại bại, bị chết, bắt sống, hàng và tan rã hết cả. Chỉ có mỗi một mình Dương Đình Tuấn và đám thuộc hạ cùng Bùi Dương Lịch và Nguyễn Thản chạy thoát.

    Đô đốc Nguyễn Văn Hòa áp giải Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh về Thăng Long. Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm hay tin cả mừng, thân ra ngoài cửa thành đón. Vũ Văn Nhậm đắc chí, cầm roi ngựa gõ vào đầu Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi:
    - “Hữu quân sao lại đến nổi này?”.

    Nguyễn Hữu Chỉnh cũng tức giận mắng chưởi lại Vũ Văn Nhậm:
    - “Thằng con rễ vô chủ”.

    Tả quân Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm tức giận sai Đô đốc Nguyễn Văn Hòa đem Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh đem ra pháp trường phanh thây. Tư mã Ngô Văn Sở xin đem giải Nguyễn Hữu Chỉnh về Phú Xuân giao cho Bắc Bình Vương Nguyễn Văn Huệ xử lý. Tả quân Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm không nghe mắng:
    - “Ta đã vâng lệnh đi đánh tên phản tặc, còn phải bẩm báo gì nữa”.

    Tư mã Ngô Văn Sở nín lặng lui ra. Đô đốc Nguyễn Văn Hòa liền giải Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh đem ra pháp trường ngoài Bắc môn để xé xác. Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh đến lúc chết vẫn không ngớt lời chửi mắng Vũ Văn Nhậm và Tây Sơn. Năm ấy Nguyễn Hữu Chỉnh mới 47 tuổi.

    Dân chúng phủ Phụng Thiên thấy Tây Sơn hành hình Nguyễn Hữu Chỉnh, kẻ thì hả dạ bảo Nguyễn Hữu Chỉnh bị báo ứng do tội đem quân ngoài vào phá nước, người lại thương cho Nguyễn Hữu Chỉnh vì lo cho hoàng tộc nhà Lê mà cả nhà đều chết. Có người lại thầm chê Vũ Văn Nhậm quá tàn ác. Chiêu Thống Đế nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh và Dương Đình Tuấn cản hậu mới thoát được đến đất Bảo Lộc, nay hay tin Bằng công Đại Tư đồ Nguyễn Hữu Chỉnh đã thọ hình mà chết. Anh rễ là Tham tri Nguyễn Kim Khuê, con trai là Bái Đình hầu Nguyễn Hữu Du cũng đã chết trận thì mới òa khóc, hối hận những chuyện khi trước thì đã muộn.

    Tương truyền, khi còn trẻ, Nguyễn Hữu Chỉnh có hôm bỏ học đi xem đốt pháo, bị thầy bắt được phạt, Nguyễn Hữu Chỉnh xin làm bài thơ “Vịnh Pháo” để chuộc lỗi:
    “Giấy xanh giấy đỏ cậy tay người
    Bao nả công trình tạch cái thôi!
    Kêu lắm lại càng tan xác lắm
    Trước sau cũng một tiếng trên đời.”
    (âm Nôm, từ kêu và Kiêu giống nhau. Kiêu ở đây ám chỉ kiêu căng)

    Người sau cám cảnh Nguyễn Hữu Chỉnh bị Tây Sơn giết, mới họa thêm bài Vịnh Pháo để nhắc để công lao động đường phố tá nhà Lê của Bằng Công Nguyễn Hữu Chỉnh:
    “Pháo mới kêu to một tiếng đùng
    Hỡi ơi xác pháo đã tan không
    Tiếc thay thân pháo không còn nữa
    Nhưng đã tan ra vạn sắc hồng.”

    Bắc Bình Vương Nguyễn Văn Huệ ở Phú Xuân hay tin Tiết chế Tả quân Vũ Văn Nhậm đã tự ý giết Hữu quân Vũ Văn Nhậm, không nén nổi lòng tự viết đôi câu viếng Nguyễn Hữu Chỉnh:
    Gạo Phục Ba khéo chất hình non, đường Thục Đạo rõ bầy nơi hiểm dễ ,
    Dây Nhược Thủy hay dò đáy nước, sông Nhị Hà tỏ mạch chốn sâu nông .

    Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn đem thuộc hạ chạy về đất Yên Thế rồi tìm đến đất Bảo Lạc ra mắt Chiêu Thống Đế. Vua tôi gặp nhau vừa mừng vừa tủi, Chiêu Thống Đế lấy lời phủ dụ, dụ Dương Đình Tuấn huy động dân chúng ở Lạng Giang đắp lũy giữ sông Như Nguyệt. Rồi theo lời của Bằng Công Nguyễn Hữu Chỉnh thảo hịch, sai sứ thần gửi đi khắp các tôi thần nghĩa sĩ khắp Bắc Hà để cùng mưu việc đánh Tây Sơn. Bấy giờ tôi thần nghĩa sĩ nhà Lê khắp nơi nổi lên hưởng ứng.

    Ở vùng Đông Bắc, hai trấn Kinh Bắc, Hải Dương có Trần Quang Châu nổi lên ở đất Gia Định, Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú ở đất Chí Linh. Vũ Dung ở đất Tứ Kỳ, Nguyễn Thế Hiển và Nguyễn Hữu Tế ở đất Thanh Hà, Vũ Trí Hanh ở đất Phượng Nhãn. Tất cả đều mộ nghĩa mà lập nghĩa binh để nổi dậy. Chiêu Thống Đế bèn phong thị thần là Diên Trạch hầu Vũ Chiêu làm Tuyên dụ sứ để đi vỗ về, yên ủi các đạo.

    Ở trấn Thái Nguyên, Quản Vũ hầu Nguyễn Đăng Tiến, nguyên trước làm Trấn thủ đất ấy, chiêu quân, mộ hào mục trong vùng cùng người Hoa là Lý Chấn Lôi và đám phu phen người Hoa đang đào mỏ bạc dấy quân ở Tư Nông. (Chỉ huy Giáo – con em nhà chú Đô Vũ bá)

    Ở trấn Thanh Hoa, hoàng thân là Lê Duy Trọng, Lê Duy Phác vốn đã vâng mật chiếu về quê chiêu binh từ trước, nay được chiếu lệnh, đem quân nổi dậy đánh phá khắc nơi trong trấn. Phiên tù là Bằng quận công ( ) và Thổ hào là Nhâm Vũ ( ) đem hết của cải, gia đinh ra giúp sức.

    Hoàng đệ Lê Duy Chi dấy quân ở Định Châu, Phiên mục, thổ hào ở Thái Nguyên và Tuyên Quang đều hưởng ứng

    Hoàng thân là Quận công Lê Duy Hải (Hải quận công) trước trấn giữ Thái Nguyên, sau nghe tin Thăng Long bị Tây Sơn chiếm, bỏ về vùng Tư Nông và Đồng Hỷ, bí mật chiêu dụ thổ hào các đất ấy dấy quân để đánh nhau với Tây Sơn.

    Đinh Nhạ Hành lập hương binh ở quê nhà là Hàm Giang, thuộc huyện Cẩm Giàng, là dòng dõi thái phó Đinh Văn Phục.

    Ở Sơn Nam, Hoàng Viết Tuyển nắm giữ cũng gửi thư xin theo giúp

    Tả quân Vũ Văn Nhậm thấy quân Bắc Hà hưởng ứng chiếu Cần Vương của Chiêu Thống Đế, đâu đâu cũng cất quân ứng nghĩa, bèn chia quân cho các tướng đi các trấn cự địch. Đô đốc Đặng Quỳnh đi đóng Hiến doanh giữ Sơn Nam, Tư mã Ngô Văn Sở đi đóng Vĩnh doanh giữ Thanh Hóa, Ngô Văn Sở đem quân về giữ Thanh Hóa????

    Trấn thủ Yên Quảng nhà Lê là Nguyễn Viết Khang đóng quân ở trấn Yên Quảng hay tin đem binh về hội với Hoàng Viết Tuyển, cùng đánh Vũ Văn Nhậm, trước thắng sau thua.
    Trấn thủ Yên Quảng Nguyễn Viết Khang nhận được chiếu Cần Vương, bàn với chư tướng:
    - Nay Bằng công đã mất, quân Cần vương các đạo nổi lên chống Tây Sơn. Ta muốn ứng nghĩa cất quân để chống Tây Sơn, các ngươi thấy thế nào?
    Chư tướng đều cho là phải, lại khuyên nên hợp quân với các nơi khác để tăng thanh thế. Bấy giờ gần nhất thì có Liễn Vũ hầu Đinh Tích Nhưỡng, nhưng chư tướng đều cho Đinh Tích Nhưỡng là kẻ bất trắc, lòng dạ bất lương. Ngoài ra chỉ có Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển ở Sơn Nam là mạnh hơn cả. Nguyễn Viết Khang bèn đem thủy sư hơn hai trăm chiếc, một vạn quân xuống thuyền thẳng đến trấn Sơn Nam hội binh với Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển.
    Hoàng Viết Tuyển với Nguyễn Viết Khang là chổ quen thân, cùng vào sinh ra tử dưới trướng của Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Viết Khang đem việc đánh Tây Sơn bàn với Thước Vũ hầu Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển, Hoàng Viết Tuyển còn ngần ngừ chưa quyết, Nguyễn Viết Khang rút gươm ra đưa cho Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển rồi nói:
    - Kinh thành thất thủ, Tự vương phải long đong trong cơn gió bụi, cha con Bằng công đều chết vì nước là lỗi ở ai? Nay giặc không có thuyền bè gì, mà chư tướng của ta đều hăng hái. Vậy ta không đánh còn để làm gì? Nếu huynh muốn giết Viết Khang này thì cứ tùy ý, rồi đi hàng địch. Bằng không, chúng tôi sẽ bắt huynh, trói nơi đầu thuyền để quyết đi đánh Tây Sơn.

    Bộ tướng của Nguyễn Viết Khang nghe thế đều rút gươm ra cầm tay, các bộ tướng của Hoàng Viết Tuyển cũng trừng mắt lên nhìn Hoàng Viết Tuyển tỏ ý tức giận. Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển thấy chúng tướng đều quyết ý như vậy, đành thở dài, nhận lời kéo đi đánh Tây Sơn. Hai tướng đem hết thủy sư hơn năm trăm chiếc từ Vị Hoàng kéo đi đánh cửa Lục Giang.

    Tướng Tây Sơn giữ trấn Sơn Nam là Đô đốc Đặng Quỳnh đang cầm quân giữ Hiến doanh, hay tin vội đem tám ngàn quân bộ binh xuống hết hai trăm chiến thuyền lẫn thương thuyền mới cướp được tiến ra Lục Giang ngăn cản. Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển chia chiến thuyền xếp thành mười hàng, đầu thuyền đặt súng lớn luân phiên bắn phá. Mười chiếc thuyền đi đầu của Tây Sơn đều chìm nghỉm. Nguyễn Viết Khang nhân gió thuận, gương buồm căn, xông sang đánh phá. Thuyền Tây Sơn nhỏ bé, lại không thạo thủy chiển, đổ vở tan tành, bộ quân trên thuyền lớp chết, lớp nhảy xuống nước để thoát thân. Đô đốc Đặng Quỳnh kéo quân tàn bại chạy về Hiến doanh đắp lũy, đóng cửa cố thủ.

    Tả quân Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm được tin thua từ trấn Sơn Nam, bèn điều quân từ Thăng Long rầm rộ đi cứu viện. Hàng tướng là Đinh Công Trinh, Hoàng Phùng Gia cũng kéo quân đi cứu ứng cho Đô đốc Đặng Quỳnh. Bên phía quân Cần Vương, Hoàng Viết Tuyển, Nguyễn Viết Khang chia quân mấy đường đến đánh Hiến doanh, hào mục Sơn Nam nổi lên hưởng ứng rất đông, hai tướng có hơn ba vạn quân. Các cánh quân của Hà Phạm Bân và Hải Nam hầu nhà Lê nghe tiếng đều đến hội. Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm lại sợ hai tướng bất thần cướp đường đánh ra Thăng Long bèn phái các tướng hiệu đi đắp lũy Xích Đằng , lũy Nhị Hà và lũy Bán Nguyệt để đề phòng.

    Có người bàn với Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển:
    - Thủy quân của ta mạnh hơn, mà bộ quân lại kém hơn quân địch. Giặc từ sau khi thua trận ở Lục Giang thuyền bè mất sạch, chúng ta thì nắm được thế thuận lợi ở sông lớn. Bây giờ chi bằng để một tướng ở lại đây kìm chân giặc, khiến hắn phải tự lo lấy việc phòng thủ. Còn tướng quân thì thân đem đại đội chu sư, tiến lên chiếm giữ bờ bắc Nhị Hà bên thành Thăng Long, cắt lấy nửa đất trung nguyên. Như thế thì các hào kiệt vùng đông bắc tự nhiên đều hưởng ứng, đất đai trong mấy trấn có thể không đánh mà bình định được. Sau đấy, mới đón rước thiên tử, kiến lập triều đình, có thể làm xong việc lớn. Nếu tướng quân chỉ ngồi giữ Sơn Nam, đánh vào chỗ chắc của địch, uổng phí ngày giờ, làm hao sức quân, tốn kém tiền của, thế là tự mình thắt bó sức mình, không phải là kế hay đâu.

    Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển gạt đi, nói:
    - Ngươi khinh Vũ Văn Nhậm ư. Ta từng theo Tây Sơn biết rõ tài của hắn. Nếu ta ra Thăng Long chưa chắc đã thắng được hắn, chi bằng cứ giữ lấy Sơn Nam mà chờ biến chuyển.

    Bèn chia quân đánh gấp Hiến doanh, bên kia Đô đốc Đặng Quỳnh cũng gắn sức chống giữ. Quân hai bên đánh nhau cả tháng trời không phân thắng bại.

    Kỳ đạo Tướng quân Đinh Nhạ Hành đem nghĩa quân đến đóng ở Ngự Thiên. Trước Đinh Nhạ Hành thua trận ở Vọng Khẩu, bèn thu tàn quân chạy về Ngự Thiên rồi đến Hải Triều chiêu tập nghĩa binh được hơn 3000 người. Đến đây, dựa mặt sông đắp lũy rồi đưa thư cho Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển kết liên để sách ứng cho nhau.

    Thái Lĩnh hầu Nguyễn Như Thái sau khi bại trận Điềm Xá, thu quân về Cổ Đế, chiêu tập lính sơn cước và nghĩa binh ở hai huyện Hoài An và Chương Đức phủ Hà Tây. Đoạn kéo quân toan đi lấy phủ Ứng Thiên. Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm hay tin, sai Đô đốc Vũ Văn Nguyệt đem quân đi đánh. Đến chợ Vân Đình, hai bên gặp nhau giáp chiến. Quân của Thái Lĩnh hầu Nguyễn Như Thái mới mộ, lâm trận được một lúc đều tháo chạy. Thái Lĩnh hầu Nguyễn Như Thái cố đánh, bị bắt sống, giải về Thăng Long. Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm hài tội, sai chém đầu làm lệnh.


    Bắc Bình Vương Nguyễn Văn Huệ thấy Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm chiếm được Thăng Long mà dư đảng nhà Lê nổi lên khắp nơi, liền sai Tư mã Ngô Văn Sở, Đô đốc Vũ Văn Dũng dẫn binh từ Nghệ An ra tiếp ứng. Tư mã Ngô Văn Sở liền dẫn Đô đốc Đặng Giản , Vũ Văn Dũng đem một vạn quân từ Vĩnh Doanh thẳng ra Thăng Long để tiếp ứng cho Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm. Đến nơi, vào ra mắt Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Nhậm tỏ ý không hài lòng. Mưu sĩ [Vũ] Khải bảo với Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm:
    - Bắc Bình Vương sai Ngô Văn Sở ra giúp, thực chất là để kiềm chế minh công, sao không để hắn đi đánh bọn Tuyển, Khang. Minh công thì giữ Thăng Long mà tự lập.
    Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm bèn sai các tướng Ngô Văn Sở, Vũ Văn Dũng, Đặng Giản đem binh đi đóng ở Phú Xuyên, Hải Thiên để chống nhau với Hoàng Viết Tuyển, Nguyễn Viết Khang và Đinh Nhạ Hành, mọi lương thảo đều phải tự lo liệu lấy. Tư mã Ngô Văn Sở hậm hực cùng Đô đốc Vũ Văn Dũng kéo quân ra Phú Xuyên để cự với Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển, Nguyễn Viết Khang, còn Đô đốc Đặng Giản thì kéo quân ra đất Hải Thiên cự nhau với Kỳ đạo Tướng quân Đinh Nhạ Hành.

    Tư mã Ngô Văn Sở đến Phú Xuyên, sai người đi báo tin cho Đô đốc Đặng Giản ở đất Hải Triều :
    - Bên mé kia sông có đạo quân của Đinh Nhạ Hành chống giữ. Ông hãy đem quân phá địch, ta sẽ giữ quân ở đây cắt đường tiếp viện của bọn Tuyển, Khang.

    Đô đốc Đặng Giản đem ba ngàn quân kéo đi đánh Hải Thiên. Kỳ đạo Tướng quân Đinh Nhạ Hành biết mưu ấy, sai người liên kết với nghĩa binh hai xã Hải Thiên, Hỉ Phiến , chờ cho quân Tây Sơn qua nữa sông, đổ ra đánh úp hai mặt trước sau. Đô đốc Đặng Giản phải kéo quân bỏ chạy về Phú Xuyên.

    Đô đốc Đặng Quỳnh giữ Hiến doanh hay tin viện binh đã đến, sai một viên phó tướng [] đem ba ngàn quân bất thần mở lũy đánh úp Hải Thiên. Quân của Đinh Nhạ Hành thua to, xô nhau chạy xuống nước chết đuối vô số, số còn lại cố bơi qua sông. Nguyễn Viết Khang hay tin sai hai tướng Hán Vũ, Soi Vũ đem thủy sư đến cứu. Khi đến nơi thì lũy đã bị hạ, Kỳ đạo Tướng quân Đinh Nhạ Hành đã rút về Hải Triều . Hai tướng Hán Vũ, Soi Vũ bèn đóng quân ở Hỉ Phiến. Từ đấy hai bên ngày đêm lại đổ quân giao chiến với nhau.


    Tả quân Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm đóng quân ở Thăng Long thấy toàn cõi Bắc Hà đâu đâu cũng có quân ứng nghĩa của nhà Lê nổi lên, lòng rất lo lắng. Đô đốc Nguyễn Văn Hòa nói:
    - Đánh rắn phải chặt đầu. Nay Giám quốc Sùng Nhượng Công không được mọi người phục mà chỉ biết có Chiêu Thống. Hễ còn để hắn ở ngoài tất bọn nghĩa sĩ nhà Lê còn nổi lên mãi. Chi bằng đem quân truy bắt giết đi để tiệt đường mong mõi của bọn chúng.
    Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm nghe theo liền cấp quân cho Đô đốc Nguyễn Văn Hòa kéo đi đánh Yên Thế, Bảo Lộc. Lại sai Đô đốc Đặng Giản đóng quân ở ??? Doanh cùng với Chiêu viễn hầu Đô đốc Võ Văn Dũng đem quân đi đánh bọn hoàng thân Lê Duy Trọng, Lê Duy Phác ở Thanh Hóa. Vũ Văn Nhậm lại chưa yên tâm kéo đại quân đi sau để yểm trợ cho Nguyễn Văn Hòa

    Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Hòa đem quân đi đánh Yên Thế. Nguyễn Văn Hòa sai Đô ty là Chu Văn Uyển làm tiên phong đem một ngàn quân quân kéo đi trước, dặn chỉ đánh lấy thua. Chu Văn Uyển kéo quân đến sông Nguyệt Đức thách đánh.

    Bấy giờ, em của Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn là Dương Đình Lung đang đốc thúc quân dân bảy tổng huyện Yên Thế đắp lũy bên bờ bắc sống để đối địch. Chu Văn Uyển đóng quân bên bờ nam lùi lại mười dặm rồi sai người đến thách đánh. Dương Đình Lung ỷ mạnh thấy Tây Sơn ít quân đem hơn hai ngàn quân qua sông lập trận, quay lưng xuống mặt sông, tỏ ý đánh đến chết mới thôi.

    Chu Văn Uyển đem quân đên đánh. Dương Đình Lung cưỡi ngựa ra địch. Quân hai bên giao chiến, Chu Văn Uyển liền giả thua bỏ chạy. Dương Đình Lung đốc dân quân đuổi theo. Chợt thấy hai bên tả hữu có hai đạo quân Tây Sơn tiến ra đánh kẹp lại, rồi Chu Văn Uyển ở phía trước cũng đem binh đánh ngược trở lại.

    Dương Đình Lung vội đem toàn quân chạy ngược trở lại đên mép sông thì thấy bờ lũy bên kia đã dựng rặt cờ đỏ của quân Tây Sơn rồi. Toàn quân của Dương Đình Lung hoảng loạn vỡ tan, Dương Đình Lung vội tìm đường men theo sông để chạy thì bị quân Tây Sơn ùa đến bắt sống.

    Nguyên Đô đốc Nguyễn Văn Hòa liệu trước biết quân ở Yên Thế chỉ cậy có sông Nguyệt Đức và lũy đất để chống giữ nên đã mật dặn Chu Văn Uyển giả thua để dụ địch. Còn mình cầm kỵ binh làm kỳ binh để đánh úp lấy lũy đất bên bờ bắt sông. Quả nhiên quân của Dương Đình Lung phải thua chạy.

    Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn bấy giờ nghe tin Tây Sơn đến đánh, vội từ Bảo Lạc phi ngựa về Yên Thế. Mới được nữa đường thì hay tin doanh lũy Yên Thế đã bị phá sạch, Dương Đình Lung đã bị bắt bèn vội thu thập tàn quân quay trở lại Bảo Lạc. Đến nơi, Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn xin vua sớm dời đi vì quân Tây Sơn sắp đến, quân thế đã vỡ không giữ được lâu. Vua tôi đang còn bàn bạc thì hay tin quân Tây Sơn đã chiếm hết đất Yên Thế, sai người đưa thư đến cho Dương Đình Tuấn dụ hàng.

    Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm sai người giải Dương Đình Lung đến, cởi trói cho rồi sai đem thư về dụ hàng. Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn xem thư thì thấy nội dung đại ý nói: “Tự Hoàng là do nhà Tây Sơn ta lập lên, nay bị Nguyễn Hữu Chỉnh lừa dối đến nỗi phải sợ mà cùng chạy. Tự Hoàng sinh lòng ngờ vực, mê man mà không biết đường quay lại. Nếu bây giờ Tự hoàng biết ăn năn quay lại, trước thì còn có thể chữa lại lối cũ; bằng không, ta sẽ kiếm một người khác làm giám quốc, đứng chủ việc tế tự, thì Tự hoàng không còn có ngày quay xa giá về được nữa và các người cũng sẽ như cây rừng mắc vạ lây”.
    Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn được thư thì khóc, đem dâng cho Chiêu Thống Đế nói:
    - Cả nhà tôi vì ghét họ Trịnh mà tụ tập hào kiệt, xưng bá ở đất Yên Thế này. Nay vì việc nghĩa mà theo lao động đường phố vương thượng, đâu dám hai lòng. Nhưng nay quân ít thế cô, tôi đánh không lại bọn giặc càn rỡ, vương thượng xin sớm dời đến chổ quân mạnh để mưu đồ việc lớn. Còn phần tôi có sống có chết cũng ở đất này đánh quân Tây Sơn, đến chết mới thôi.

    Chiêu Thống thấy vậy thì cảm động mà khóc. Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn bảo với Dương Đình Lung đem thư về nói với Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm: “Sau khi bị thua, mỗi người bỏ chạy một ngả, thật không rõ Tự hoàng ở đâu. Xin cho phép mươi ngày để đi tìm kiếm, rồi sẽ tự tìm đến" để làm kế trì hoãn, rồi lại thúc giục Chiêu Thống Đế lên đường.

    Bấy giờ, Nguyễn Đình Giản thấy Dương Đình Lung đã quay về trại của Tây Sơn, sợ anh em họ Dương hai lòng, lại sợ quân Tây Sơn bất chợt ập đến, bèn mật tâu với Chiêu Thống Đế:
    - Anh em họ Dương nay không thể tin cậy được nữa. Bên cạnh vương thượng có Phạm Đình Dự, Chu Doãn Lệ, Vũ Trinh đều là người Kinh Bắc, nên kíp sai đi chiêu dụ lấy nghĩa quân để tự vệ, rồi dời xa giá đến phủ Thuận An (nay là huyện Thuận Thành, Hà Bắc). Còn các quan Trương Đăng Quỹ, Phạm Văn Lân đều là người Sơn Nam, cũng nên sai về bản quán để mộ quân, chờ lệnh trưng phát.

    Chiêu Thống Đế theo lời, lệnh cho các quan Phạm Đình Dự, Doãn Lệ, Vũ Trinh, Trương Đăng Quỹ, Phạm Văn Lân … về quê trưng tập hương binh để chờ lúc trưng phát. Chỉ để lại Nguyễn Đình Giản làm hộ giá, rồi lén cáo từ Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn rời đi đất Gia Định. Theo hầu chỉ có các Nội Hàn lâm viện là Trần Danh Án, Ngô Thời Chỉ, Vũ Trinh mấy người mà thôi.

    Chiêu Thống Đế đi rồi, Bình khấu Tướng quân Dương Đình Tuấn thở dài, sai người đến Yên Thế gọi em là Dương Đình Lung trở lại, nói thác là bàn việc bắt Tự hoàng. Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm tin lời thả cho Dương Đình Lung đi. Hai anh em bàn nhau đốt sạch trại sách, thâu thập khí giới đem gia quyến và thủ hạ rời lên vùng cao để mưu sự chống lại Tây Sơn dài lâu. Đại Đô đốc Vũ Văn Nhậm biết được anh em họ Dương không chịu hàng thì tức giận, đem bọn thủ hạ của anh em họ Dương thị bắt trước đây ra chém hết rồi sai tướng Chu Văn Uyển đóng quân lại Yên Thế để chống lại quân Dương Đình Tuấn.

    Chiêu Thống Đế đến huyện Gia Định, Hà Bắc. Tiến sĩ Trần Danh Án là người vùng ấy theo hầu nói:
    - Gần đây có Thổ hào xã Kênh Than là Trần Quang Châu. Người ấy là dòng dõi của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải nhà Trần, hiện làm xã trưởng, dũng cảm lại có sức mạnh. Trước đây khi Tây Sơn vào cướp, họ Trịnh đổ rồi, trong ngoài đều loạn lạc. Trần Quang Châu nhân khi loạn lạc, tụ tập đinh tráng để lập ra đội ngũ. Hễ có kẻ nào đến cướp, Trần Quang Châu liền đem quân đến đánh giết. Không ai dám bén mảng đến gây sự, toàn huyện nhờ thế mà yên ổn bèn bầu Trần Quang Châu làm Huyện trưởng. Tây Sơn mấy lần đến cướp phá, Trần Quang Châu cùng đinh tráng giả làm nông phu thừa lúc bất ý đánh giết. Tây Sơn rất sợ hãi, răn nhau không xâm phạm huyện này. Vũ Văn Nhậm mấy lần kéo quân đến, Trần Quang Châu ít quân, đem thủ hạ trốn vào vùng Phượng Nhãn, Chí Linh để chờ thời, chiêu mộ dũng sĩ. Người ở hai vùng đông bắc, theo về với Châu mỗi ngày một nhiều. Châu thường cho người dò la nơi ở của quân Tây Sơn, rồi đêm đến đem quân đi gấp tới nơi, đánh úp giết chết. Quân của Trần Quang Châu khi ẩn, khi hiện như thần, đánh đâu là thắng đấy. Quân Tây Sơn chẳng làm gì được. Châu vẫn muốn khởi nghĩa, nhưng chưa có ai làm chủ. Vậy xin đưa lá thư của bệ hạ đi để chiêu dụ Châu, chắc là Châu sẽ đến ngay.

    Chiêu Thống Đế liền sai Trần Danh Án đem thư đi mời Trần Quang Châu đến hộ giá. Trần Quang Châu được thư thì mừng rõ nói: “ Ta nay mới đúng thực là nghĩa binh”, rồi đem hết thủ hạ dưới trướng đi đón.

    Thổ hào các nơi Đông Bắc là bọn Trần Đĩnh, Hoàng Xuân Tú, Vũ Dung, Nguyễn Thế Hiển, Nguyễn Hữu Tế, Vũ Trí Hanh nghe tiếng đều đem quân đến hội. Quân thế nhà Lê lại nổi lại.

    Đinh Tích Nhưỡng dâng biểu xin theo, bị từ chối, rồi làm phản.

    Đinh Tích Nhưỡng đem quân vây đánh, Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú cứu. Đinh Tích Nhưỡng thua chạy

    Sai Trần Liên đến chỉ đường bắt Chiêu Thống


    Chiếu Thống dời đi Sơn Nam về với Tuyển. có Trương Đăng Quỹ theo.

    - Tự Hoàng đến Siêu loại
    - Giặc đánh Chí Linh
    - Lê Duy Miện, Lê Duy Trọng đánh Thanh Hoa
    - Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Đình Tuy đánh Chí Linh
    - Trần Đĩnh cứu ứng
    - Ánh Sơn hầu Lê Duy Nhượng từ Cao Bằng đi cứu Kinh Bắc, rồi trốn về với Tưu hoàng
    - Tự Hoàng từ Chí Linh đi Giáp Sơn rồi đi Thủy Đường
    - Hoàng Viết Tuyển lui về Vị Hoàng



    Tướng Tây Sơn là Đô đốc Võ Văn Dũng đem quân đến đánh trấn Hải Dương. Các đạo nghĩa binh ở đấy họp sức lại chống cự. Bấy giờ Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú thì giữ Chí Linh, Trần Quang Châu giữ Gia Định, Vũ Dung giữ Tứ Kỳ, Tế Vũ hầu Nguyễn Hữu Tế giữ Thanh Hà, Vũ Trí Hanh giữ Phượng Nhãn đều lập đồn lũy để phòng thủ. Đô đốc Vũ Văn Dũng đem binh trước tiên đến đánh Chí Linh, Trần Quang Châu thấy quân Tây Sơn đông, đóng lũy không chịu giao chiến. Vũ Văn Dũng liền sai hai tướng là [] đi đánh Gia Định và Phượng Nhãn để cắt đường viện binh của Trần Quang Châu.

    Vũ Trí Hanh ỷ mạnh, thấy quân Tây Sơn kéo đến liền đổ ra đánh. Quân Tây Sơn phục binh, đổ ra đánh, Vũ Trí Hanh, trong lúc hoảng hốt, không phòng bị, bị loạn quân giết chết.

    Hoàng Xuân Tú đóng quân ở sườn núi Bạch Nhạn chờ quân Tây Sơn. Bấy giờ quân Tây Sơn kéo đến rất đông, hương binh hoảng sợ bỏ chạy hết. Hoàng Xuân Tú cùng hơn trăm thủ hạ rút gươm đứng lại thề đánh đến chết. Đợi cho quân Tây Sơn đến gần lập tức xông đến chém hơn trăm thủ cấp, chém gãy đại kỳ. Quân Tây Sơn hoảng sợ phải rút.

    Trần Quang Châu ở Gia Định bị vây càng lúc càng ngặt, hương binh bỏ trốn gần hết. Trần Quang Châu cùng 50 thủ hạ đột chiến xông ra vòng vây giết hơn trăm tên, cứ như thế đánh đến vài lần, cuối cùng gỡ được vòng vây mà thoát đi.

    Tây Sơn lại chia quân đến Phao Sơn, rồi cho một cánh thủy quân từ phía sông Lục Đầu đi xuống, định hai mặt đánh bắt Hoàng Xuân Tú. Hoàng Xuân Tú biết mưu ấy, nhân tối trời đem vài chục chiếc thuyền chứa hỏa khí đến gần trại nổi lửa phóng hỏa, rồi thúc trống hò reo. Quân Tây Sơn ở trên bộ và thủy trại đều hoảng sợ mà chạy.

    Tướng Tây Sơn là [] lại đem quân đến đánh đất Thanh Hà. Các đạo nghĩa binh ở đấy là Hiến Vũ hầu Nguyễn Phi Hiển và Phi Vũ hầu Nguyễn Hữu Tế cố sức đánh, sau thế cô đều bị giết cả.

    Quân Tây Sơn vây đánh Chí Linh mỗi lúc mỗi đông. Trần Quang Châu, Hoàng Xuân Tú, Trần Đỉnh phải thu quân, đón Chiêu Thống Đế và các quan trốn tránh, nay nơi này, mai nơi khác trong vùng.
    Nhắc lại Chiêu Thống Đế bấy giờ đang ở huyện Lang Tài, rồi lại dời đi đất Chí Linh, Hải Dương. Quan viên các nơi nghe vua ở đấy lại tìm về. Lê Ban ở Giáp Sơn dắt hơn một trăm quân nghĩa dũng đến yết kiến. Chiêu Thống Đế mừng lắm, phong Lê Ban làm Ngự doanh sứ, tước Trung Nhạc hầu.

    Hoàng thân là Lê Duy Trọng, Lê Duy Miện lẻn về trấn Thanh Hoa chiêu tập nghĩa binh. Phiên mục đất ấy là Bằng quận công và hào mục là Nhâm Vũ đem quân đến họp. Tướng Tây Sơn là Đô đốc Khương đem quân đến đánh, các tướng lựa thế hiểm đặt phục binh giết chết được Tương rồi sai người đi đường tắt đến hành tại báo tin.
    Liễn Vũ Công Đinh Tích Nhưỡng hay tin Chiêu Thống đế ở Hải Dương liền sai người đến dâng biểu xin đem quân giúp một tay Cần Vương. Nguyên trước Đinh Tích Nhưỡng thua trận ở [], cùng Trần Liêm chạy về giữ Yên Quảng, lại bị Nguyễn Viết Khang đem thủy sử đến đánh đuổi. Đinh Tích Nhưỡng và Trần Liêm phải đem quân chạy về trấn Hải Dương. Tính Đinh Tích Nhưỡng tàn ngược, Trần Liêm lại dung túng quân lính cướp bóc, hào mục ở Hải Dương đều chống lại. Nay nghe tin Chiêu Thống Đế ở Kinh Bắc, muốn mượn danh của nhà vua để thu phục các hào mục trong vùng.

    Các quan văn là Vũ Trinh, Trần Danh Án đều bàn:
    - Đinh Tích Nhưỡng là kẻ bất nghĩa. Nói về nghĩa, trước giúp Thụy Quận công Trịnh Lệ sau lại bỏ theo Án Đô vương Trịnh Bồng. Giúp họ Trịnh để chống lại hoàng thượng, nữa chừng lại bỏ đi không nhìn, không thèm nhìn đến, bất nghĩa đến thế là cùng. Nói về tài, hai lần cầm quân chống giặc, một lần thua trận ở Kim Động, một lần thua ở Ngô Đồng, chỉ chạy thoát thân. Vừa không nghĩa khí, lại không có khí độ làm tướng, chỉ cậy thế con nhà tướng mà ức hiếp người khác. Khi mới bề Hải Dương, thả bộ hạ cướp bóc trong xứ. Người người đều coi hắn là giống diều quạ gian giảo và gọi là giặc Nhưỡng. Hào mục các huyện đã viết thư cho nhau kể tội các của hắn, họp nhau trong làng Lai Cách, huyện Cẩm Giàng, hẹn nhau đến đánh phá Hàm Giang. Hắn phải lui quân về huyện Bình Giang, rồi nhân lúc ban đêm, kéo đến làng Lai Cách, giết hại không biết bao nhiêu người mà kể, đến nỗi thây nằm ngổn ngang đầy đồng. Tàn nhẫn như vậy, nên người Hải Dương ai cũng coi hắn là kẻ thù. Nay dung nạp hắn, chẳng những vô ích mà còn mất lòng dân Hải Dương, thật là thất sách.

    Chiêu Thống Đế nghe Đinh Tích Nhưỡng bị các hào mục vây đánh, có lúc cùng quẫn, toan xin hàng Tây Sơn, nên càng nghi ngờ, không chấp thuận biểu tấu. Hào mục ở Hải Dương cũng dâng biểu xin cất quân đánh Đinh Tích Nhưỡng. Đinh Tích Nhưỡng ức quá, mắng Chiêu Thống Đế:
    - Hắn đã không coi ta ra gì, ta cũng không cần vị nể nữa!

    Bèn sai người về Thăng Long xin hàng Tây Sơn, rồi sai Trần Liêm đi kết liên với Trấn thủ Hải Dương của Tây Sơn là Hoàng Đình Tuy, mưu cất quân qua đánh úp để bắt sống Chiêu Thống Đế

    Ở Đông Triều, Liễn Vũ Công Đinh Tích Nhưỡng hay tin, nổi giận, sai Trần Liên đến xin hàng với tướng Tây Sơn là Trấn thủ Hải Dương Hoàng Đình Tuy. Hoàng Đình Tuy bèn hợp binh với Đinh Tích Nhưỡng được hơn một vạn quân kéo đến đánh đất Chí Linh, dâng biểu thác tiến đón ngự giá. Chiêu Thống Đế hối thì đã muộn, ra chiếu dụ khuyên Đinh Tích Nhưỡng lui về. Đinh Tích Nhưỡng không chịu lui, cùng hai em cho nhà chú bác là Đinh Vũ Sầm, Đinh Vũ Kính vây đánh Chí Linh hơn một tháng trời. Nghĩa binh của Trần Tú và Hoàng Xuân Đỉnh nhân lúc đêm tối, lựa chổ sơ hở đánh úp giết được Đinh Vũ Sầm, Đinh Vũ Kính. Đinh Tích Nhưỡng phải bỏ chạy tháo thân. Tướng Tây Sơn là Hoàng Đình Tuy cũng phải rút quân.


    Ai đánh trấn Kinh Bắc : Vũ Văn Nguyệt
    Ai đánh Thái Nguyên: Nguyễn Đăng Tiến

    Áng Sơn Hầu Lê Duy Nhượng hay tin trấn Kinh Bắc đang bị Tây Sơn đánh phá, liền kéo quân về cứu ứng. Nguyên lúc Vũ Văn Nhậm đem quân ra đánh Bắc Hà, Chiêu Thống Đế sai Áng Sơn Hầu Lê Duy Nhượng đi Cao Bằng thu thập binh mã, chiêu dụ các phiên mục. Lê Duy Nhượng gom được 6000 quân, chợt hay tin trấn Kinh Bắc bị đánh phá. Áng Sơn Hầu Lê Duy Nhượng kéo quân đến nơi thì hay tin trấn Kinh Bắc đã mất. Tướng Tây Sơn là Đô đốc Vũ Văn Nguyệt đem quân chận hết các lối về Thăng Long. Toàn quân dưới trướng Áng Sơn Hầu Lê Duy Nhượng đều lo sợ, Áng Sơn Hầu Lê Duy Nhượng đem quân giao chiến mấy lần đều bị Đô đốc Vũ Văn Nguyệt đẩy lui. Áng Sơn Hầu Lê Duy Nhượng thấy đóng quân mãi ở đấy bất lợi mà lương thảo lại thiếu, bèn sai các tỳ tướng đem quân quay về giữ lấy trấn Cao Bằng. Áng Sơn Hầu Lê Duy Nhượng cải trang làm thường dân trốn về trấn Hải Dương, tìm ra mắt Chiêu Thống Đế. Áng Sơn Hầu Lê Duy Nhượng bàn:
    - Trong số các đạo quân Cần Vương, chỉ có Hoàng Viết Tuyển ở Sơn Nam là mạnh hơn cả. Thần nghe Nguyễn Viết Khang ở Yên Quảng cũng đã đem châu sư đến Sơn Nam hợp binh. Trấn này giáp với Thái Bình và Sơn Nam, có thể tựa nhau để chống giữ. Hoàng thượng hay cho người đi Sơn Nam tuyên dụ để khiến Hoàng Viết Tuyển điều khiển quân các đạo.

    Chiêu Thống Đế bấy giờ ở Chí Linh hay tin quân thế của Hoàng Viết Tuyển nổi dậy cũng có ý tìm đến để nương nhờ, liền sai Diên Trạch bá Vũ Chiêu đi Sơn Nam. Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển cũng muốn đón Tự Hoàng để khích lệ tướng sĩ bèn sai Nguyễn Viết Khang đem binh thuyền đi đón. Chiêu Thống Đế bèn từ Giáp Sơn đi Thủy Đường. Đến Chân Định thì Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển thân hành đến đón. Thủy quân của Trần Đĩnh, Hoàng Xuân Tú đi hộ tống có hơn trăm chiếc, nhà vua bèn ban lời úy lạo rồi cho họ quay về hợp lực với Trần Tú, Hoàng Xuân Đĩnh để đánh lấy trấn Hải Dương. Đoạn Chiêu Thống Đế, Áng Sơn hầu Lê Duy Nhượng cùng các quan theo Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển lên thuyền về Sơn Nam.

    Bấy giờ Tư mã Ngô Văn Sở, Đô đốc Đặng Giản đóng ở Phú Xuyên để giải vây cho Hiến doanh. Nguyễn Viết Khang giữ thủy sư chống nhau với thủy quân của Tư mã Ngô Văn Sở, Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển thì nắm quân bộ đánh Hiến doanh của Đô đốc Đặng Quỳnh. Kỳ đạo Tướng quân Đinh Nhạ Hành cùng hai tướng Hán Vũ, Soi Vũ đánh nhau với Đô đốc Đặng Giản. Tư mã Ngô Văn Sở bàn với Đô đốc Đặng Giản:
    - Hoàng Viết Tuyển sở dĩ dám chống cự ở đây là vì có quân lương của hai trấn Hải Dương, Sơn Nam tiếp cứu. Nếu ta cho người chặn hết đường tiếp lương của hắn, hắn tất sợ mà lui.

    Bèn sai người xin thêm viện binh từ Thăng Long. Vũ Văn Nhậm hay tin, vội cho Đô đốc Phan Văn Lân đem quân từ Thăng Long theo đường Châu Cầu đánh vào Vị Hoàng để cắt đường về của Viết Tuyển, Viết Khang. Lại sai Đô đốc Vũ Văn Dũng đem bộ quân qua đánh Hải Dương, chiếm lấy các phủ Thái Bình và Tiên Hưng. Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển thấy thế lo sợ bàn với Nguyễn Viết Khang:
    - Nếu đường bộ mà mất thì quân ta nguy mất

    Bèn tự mình triệt thủy quân về cứu Vị Hoàng. Sai Nguyễn Viết Khang đem bộ binh lùi về giữ Sơn Nam hạ. Đô đốc Đặng Quỳnh thấy vậy liền mở lũy đuổi theo.

    Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển về trước Vị Hoàng, sai quân lên giữ lũy còn thủy quân ở dưới thuyền để giúp sức. Đô đốc Đặng Quỳnh đem bộ quân đuổi đến, tướng sĩ trong lũy hoảng hốt, xô nhau chạy xuống thuyền. Tướng Tham tán Quân vụ của Hoàng Viết Tuyển là Hà Phạm Bân rút gươm nhảy lên bờ chém vài tên quân để giữ trận. Quân sĩ thấy thế bèn lùi về cố giữ lũy, Nguyễn Viết Khang cũng rút quân về ra sức chống đánh, Đô đốc Đặng Quỳnh thấy thế phải lùi.
    Kỳ đạo Tướng quân Đinh Nhạ Hành cũng rút quân từ Hải Triều về Vị Hoàng để hội với Thước Vũ hầu Hoàng Viết Tuyển.

    Tư mã Ngô Văn Sở, Đô đốc Phan Văn Lân, Đặng Quỳnh thấy Hoàng Viết Tuyển, Nguyễn Viết Khang, Đinh Nhạ Hành đã rút quân về Sơn Nam, lưu Đô đốc Đặng Quỳnh ở lại giữ Hiến doanh, còn lại đem hết quân quay về lại Thăng Long.
     
  20. trinh phuc tuan

    trinh phuc tuan Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    19/6/10
    Bài viết:
    301
    Hồi:

    Nam Triều kỳ binh đốt thủy trại
    Tây Sơn dụng mưu họp đại quân


    Tháng 3 năm Nhâm Tý (1792), niên hiệu Quang Trung năm thứ 5 nhà Tây Sơn, Quốc Vương Xiêm La là Chất Tri sai sứ thần đem cờ quạt, sắc thư mà nước Vạn Tượng bắt được của sứ giả Tây Sơn năm trước đến Gia Định, cầu xin Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh phát binh theo đường thượng đạo cùng đánh Tây Sơn. Lại đòi luôn hai đất Long Xuyên và Kiên Giang giao cho Trấn thủ Hà Tiên Mạc Công Bính quản lãnh và nộp đất Ba Xắc cho Chiêu Chủy Biện ở Chân Lạp để khao quân lương. Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh hội các tướng bàn tính, mọi người đều cho là Tây Sơn đang thế mạnh, chưa thể đánh được, mà đất Long Xuyên, Kiên Giang, Ba Thắc đã thuộc về bản triều, quân lương đều lấy từ nơi đó, không thể vô cớ giao cho ngoại quốc được. Bèn viết thư sai sứ thần trả lời, đại ý nói:

    - Quả nhân từ khi lấy lại được Gia Định tới nay (p 294 ĐNTL)

    Tháng 3 năm Nhâm Tý (1792), Nam Vương muốn khích lệ tướng sĩ bèn bảo Binh bộ và Lại Bộ truy lục chiến công của các tướng sĩ từ khi hồi loan đến nay, cả những người bị oan khuất từ Bính Ngọ ( ) đến Quý Tỵ để ban thưởng, úy lạo cho thân nhân, lại liệt vào điển thờ đền Hiển Trung để thờ tự.
    Phó Tướng quân Tiền dinh giữ chức Khâm sai Tổng nhung Cai cơ là Nguyễn Văn Thư dung túng cho thuộc hạ quấy nhiễu dân Phiên, Binh bộ đem việc ấy báo lên, Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh giáng chức xuống làm Khâm sai Cai đội, nhưng vẫn cho quản quân Tiền dinh. Cho Phó trưởng chi Trung chi Tiền quân Phạm Tiến Tuấn thay Nguyễn Văn Thư cai quản hai phủ Ba Xắc và Trà Vinh. Lấy Phó tướng quân Tả dinh Nguyễn Long đương giữ chức Khâm sai Tổng nhung Cai cơ kiêm chức Tướng quân Chấn Võ dinh. Chấn Võ dinh nguyên là quân của Trung chi dinh Tiền quân tách ra, đổi lại làm Chấn Võ dinh nhập vào Trung quân.
    Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh thấy binh thế Tây Sơn quá mạnh, cả phá Vạn Tượng, nghe tin Quang Trung Đế Nguyễn Văn Huệ truyền hịch đi các phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, đóng thêm chiến thuyền, e sợ hai nhà Phú Xuân – Quy Nhơn liên binh vào đánh Gia Định, bèn khiến các tướng tu sửa đồn lũy phòng bị. Cho Tán lý Chiêu và Phó tướng Tiền quân là Khâm sai Cai cơ Nguyễn Văn Lợi đi đắp thêm hai thành Lâm Thang và Sa Đàm để nghiêm phòng đường hiểm yếu mặt bể.
    Tháng 5 năm (1792), niên hiệu Quang Trung thứ nhà Tây Sơn, chiến thuyền Tề Ngôi của Thiên Địa Hội nhà Minh kết liên với thủy quân Tây Sơn đánh phá dọc bờ biển Khang Thuận (Bình Khang và Bình Thuận) liền liền. Phó Tướng Tả quân Nguyễn Long đem binh thuyền đi giữ chặt cửa Tắc Khái và phòng thủ hai đạo Lý Lê, Xích Lam, phân phái đi tuần ngoài biển, phòng bị nghiêm mật. Lấy Khâm sai Cai đội Olivier , người thân của Bá Đa Lộc làm Vệ úy vệ Thần Sách, thuộc quân Trung dinh.
    Thám báo từ Quy Nhơn báo tin về Gia Định, Thái Đức Đế Nguyễn Văn Nhạc nhà Tây Sơn sai người đóng nhiều chiến thuyền, tăng quân, chỉnh binh, tu sửa đường sá, định thuận gió sẽ hợp binh cùng quân Phú Xuân vào đánh phá. Hiện chiến thuyền đang đóng, neo đậu ở Thị Nại khẩu. Đại tướng quân Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành xoa tay nói:
    - Quân ta ít hơn quân địch, nếu chúng hai đạo thủy lục cùng tiến thì thế quân nguy mất. Nhân lúc thuận gió hãy đem thủy binh đánh phá thủy quân giặc, phá thế công của chúng.
    Giám quân Trung dinh Tống Phúc Đạm cũng khuyên xuất binh đánh trước. Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh bèn lệnh cho tướng sĩ hai đạo Chấn Võ và Tiên phong thuộc Trung quân dinh chỉnh bị lương thực, khí giới sẵn sàng đợi lệnh. Sai Đại Tướng quân Tả dinh Thiếu phó Tôn Thất Huy, quyền Đại Tướng quân Hậu dinh Võ Tánh (Võ Tánh khi ấy bị lỗi vẫn chưa được phục chức Đại Tướng quân), Giám quân Trung dinh Tống Phúc Đạm ở lại giữ kinh thành Gia Định. Phái Đại Tướng quân Tiền dinh Tôn Thất Hội đem binh sĩ đi giữ hai trấn Vĩnh Trấn và Trấn Định, Đại Tướng quân Hữu dinh Hoàng Tường Đức đem binh sĩ đến Bà Rịa hiệp cùng Tán lý Chiêu và Phó tướng Tiền quân Nguyễn Văn Lợi giữ đất ấy. Xong xuôi mới đem thủy binh gồm 128 chiến thuyền đại hiệu và ô sai, 8000 thủy binh tiến ra đánh Quy Nhơn. Trước sai Đại tướng quân Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành đem năm mươi chiến thuyền đi trước làm tiên phong, Cai cơ Phạm Văn Nhân đem ba mươi chiến thuyền đi đạo thứ hai, Giám quân Trung dinh Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương làm hộ giá, Khâm sai Đô đốc Nguyễn Kế Nhuận làm hậu ứng đem tất cả chiến thuyền còn lại tiến sau cùng. Thủy binh theo sông Nghi Giang, ra cửa Cần Giờ nhắm hướng bắc tiến phát.
    Thủy binh Nam triều tiến đến Diên Áo thì bắt được du thuyền của Tây Sơn, tra xét mới biết cửa Thị Nại không phòng bị. Lúc ấy, trời đang thuận gió, các tướng liền căng buồm tiến gấp. Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh liền sai Nguyễn Văn Thành điều khiển các đạo thủy binh tiến đánh. Đại tướng quân Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành liền sai Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Đức Xuyên chỉ huy đội Long thuyền, Nguyễn Văn Thành cùng Cai cơ Phạm Văn Nhân chỉ huy đội Phụng thuyền, chia hai đường nhất tề đột nhập vào phá thủy trại. Sai Vũ Viết Bảo chỉ huy đội thuyền Bằng Nhất và hỏa pháo cùng hai tướng Đội trưởng Trần Đăng Long, Nguyễn Văn Khiêm đốc các chiến thuyền đi sau tiếp ứng.
    Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương tiến trước đến sát thủy đồn Tây Sơn ở cửa Thị Nại công phá. Thủy quân Đô đốc Tây Sơn Võ Văn Thành cùng Chỉ huy sứ [Nguyễn Văn] Tính không phòng bị, chống cự không nổi bỏ thủy đồn mà chạy về kêu bộ quân đến cứu. Vũ Viết Bảo, Trần Đăng Long, Nguyễn Văn Khiêm đốc hỏa thuyền tiến sát vào thủy trại quân Tây Sơn mặc sức bắn phá, dùng hỏa khí đốt thuyền. Nguyễn Văn Thành, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đức Xuyên mặc sức tung hoành, đốt cháy thủy trại ở Thị Nai tan hoang, thu giữ 5 chiếc đại thuyền, 40 chiếc ô sai, 30 chiến chiến thuyền, còn lại tịch thu tất cả khí giới rồi đốt phá sạch. Thủy binh Tề Ngôi ở gần đó hay hung tin kéo đến cứu cũng bị đánh tan.
    Tướng Tây Sơn giữ Quy Nhơn là các Đại Đô đốc Đoàn Văn Cát, Vũ Đình Giai hay hung tin, vội đem quân đi cứu thủy trại. Thái Đức Đế Nguyễn Văn Nhạc cùng các tướng đang đi săn bắn ở ấp Tây Sơn hay tin, hoảng hốt về thành, kéo quân ra đánh đuổi. Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương muốn đóng quân ở lại đánh tiếp, Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh thấy thủy trại của Tây Sơn đã phá nát, bộ quân đông đảo đang kéo đến, liền truyền các tướng lên thuyền quay về. Chiến thuyền Nam triều giong buồm quay về, quân Tây Sơn trên bờ đã mất sạch chiến thuyền, chỉ còn biết gương mắt tức tối nhìn theo. Chuyến này thủy quân Nam triều đột kích đánh rồi rút, cả đi lẫn về chỉ mất có mười ngày.
    Tháng 7 năm (1792), niên hiệu Quang Trung thứ nhà Tây Sơn, thủy binh Nam triều quay về đóng ở ngoài biển Phan Rang, bấy giờ trời đã ngược gió, Đại Tướng quân Hữu dinh Hoàng Tường Đức sai người đi thuyền đến dâng thư nói:
    - Thủy quân của địch đã mất, xin phát binh lấy luôn Bình Thuận, đóng đồn để ngăn đường tiến của địch.
    Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh chấp thuận, sai người trả lời:
    - Ngươi đem bộ binh đánh mặt trước, ta sẽ cho các tướng đem thủy binh tiếp ứng mặt sau.
    Hoàng Tường Đức và Tán lý Chiêu liền đem bộ binh từ Bà Rịa tiến đánh Bình Thuận, thủy binh Nam triều thì kéo đến đóng ở Thạch Cốc để tiếp ứng.

    Thái Đức Đế Nguyễn Văn Nhạc bấy giờ đã hơn 60 tuổi, sức khỏe đã yếu, cựu thần nhiều người đã mất, kẻ trí sĩ. Hai phủ Diên Khánh, Bình Thuận luôn năm bị quân Nam triều quấy nhiễu, lòng người đều ly tán. Lại thêm một trận Thị Nại, thủy quân bị mất hết chiến thuyền, lòng quân dao động. Năm ấy, từ Bình Thuận cho đến Quảng Ngãi mất mùa nặng, lương thực thiếu thốn, dân ở Bình Thuận nhiều người dắt nhau trốn vào Nam, quân dân Quy Nhơn, Quảng Ngãi đều rúng động. Thái Đức Đế Nguyễn Văn Nhạc lo buồn, sai người đi Phú Xuân báo tin, cầu viện em là Quang Trung Đế Nguyễn Văn Huệ.

    Quang Trung Đế Nguyễn Văn Huệ ở Phú Xuân, hay tin Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định đóng thêm chiến thuyền, gia tăng quân bị trong lòng đã nghi ngại. Nay nghe tin quân Nam dám công phá Thị Nại, đánh hai trấn phủ Bình Thuận, Phan Rang, kết liên với Xiêm La, Tây Dương làm ngoại viện, nổi giận nạt:
    - Loài giặc cỏ này phải tận diệt, chớ nên để vạ về sau.
    Bèn truyền biểu đi các trấn dinh từ Quảng Nam trở ra tập hợp đại quân, triệu tất cả tướng soái đem binh về Phú Xuân tập hợp đại quân để mưu tiến đánh Gia Định. Để Khang công Nguyễn Quang Thùy, Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân trấn giữ Bắc Thành, Tuyên công Nguyễn Quang Bàn, Đại Tổng quản Trần Quang Diệu, Tổng quản Nguyễn Hữu Thận giữ Nghệ An, các lại các tướng đều về triều để nghị sự đánh dẹp. Ngoại trừ Chiêu Viễn Đại Tướng quân Tư khấu Vũ Văn Dũng đang đi sứ Mãn Thanh, các tướng cũ như Đại Tổng quản Trần Quang Diệu, Thiếu bảo Nguyễn Văn Danh, Tư lệ Đại Đô đốc Lê Trung, Đại Tư hội Nguyễn Văn Dụng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn, Đại Đô đốc Lý Văn Bưu, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Lê Văn Long, Nguyễn Tăng Long, Nguyễn Văn Xuân, Lê Danh Phong, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Hòa, Vũ Văn Nguyệt, Chu Văn Uyển, các tướng Bắc Hà như Đại Đô đốc Đặng Giản, Bùi Hữu Hiếu, Đặng Đình Truật, Hồ Sĩ Xung, các tướng trẻ Nguyễn Thế Tử, Nguyễn Thế Trực, Trương Đăng Đồ, Lê Sĩ Hoàng, Phạm Cần Chánh cùng các tướng Tề Ngôi đều được gọi về.
    Tháng 7 năm (1792), quân Tây Sơn tề tựu ở kinh đô Phú Xuân có hơn hai mươi vạn, chia làm 11 dinh quân. Ngoài Ngũ dinh theo lệ của thiên tử binh (Tiền – Hậu – Tả – Hữu – Trung), còn thêm hai đạo quân Hổ hầu, Hồ bí là tinh binh dũng mãnh do hai viên Đại Đô đốc Lê Danh Phong và Nguyễn Văn Xuân thống lĩnh, thuộc quyền tiết chế của Đại Tổng quản Trần Quang Diệu. Hai đạo Thị Lân, Thị Loan là thân binh tâm phúc do Hộ giá Đại Tướng quân Nguyễn Văn Huấn thống lĩnh. Các đạo quân Càn Thành, Thiên Cán do các tướng soái khác thống lĩnh. Bấy giờ khí thế quân Phú Xuân vang dậy, hai mươi vạn quân đóng ở ngoại thành Phú Xuân ngày đêm tập dượt, đợi lệnh Nam chinh.
    Thiếu bảo Nguyễn Văn Danh bàn:
    - Thái Đức thua luôn, lòng quân sụt giảm, dân chúng hai phủ Quy, Quảng đều lo sợ, Phỏng quân Nam kéo đến chiếm lấy đất ấy, lấp đường chia cắt thì việc binh còn phải kéo dài. Ta nên truyền hịch, tỏ rỏ đại nghĩa để Thái Đức Đế dẹp hiềm nghi, dân chúng các phủ dốc tâm tu sửa sạn đạo, cung ứng lương thảo tiện việc tiến quân.
    Đại Tư hộ Nguyễn Văn Dụng bàn:
    - Phép thường nên liên kết nơi xa, đánh nơi gần. Nay Vạn Tượng đã chịu hàng, Gia Định chỉ còn cậy nhờ Xiêm La và Chân Lạp. Phụ chính Chân Lạp Chiêu Thủy Biện vốn ngầm hai lòng, ta nên sai người đem lễ vật đến sai Phạm Văn Điềm kết liên với hắn, mượn đường tiến quân.
    Quang Trung Đế Nguyễn Văn Huệ liền sai người mang vàng bạc đến Diên Khánh trao cho Phạm Văn Điềm sai đem đi kết liên với Chiêu Thủy Biện và các man ở vùng thượng đạo để giúp việc quân. Lại dặn các tướng ở đấy kiên trì chống đỡ để chờ đại quân đánh dẹp.
    Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ vâng chỉ, soạn bài hịch văn, phát gửi quân dân hai phủ Quy, Quãng để động viên, bài Nam chinh hịch ấy như sau:

    Nam Chinh Hịch:
    Các ngươi lớn nhỏ, hai mươi năm qua chịu ân huệ của Tây Sơn. Mấy chục năm qua, trẫm chinh nam phạt bắc, đã đánh là thắng. Trẫm tự biết ấy là nhờ sự phù trợ hết lòng của sĩ dân hai phủ. Hai phủ cũng đã tiến cử nhiều hiền tài, lương đống giúp rập triều đình. Trẫm đem quân đến đâu, kẻ địch đều cam chịu thất bại, tan rã. Trẫm đánh đến đâu, Xiêm La, Mãn Thanh đều phải đại bại, khuất phục.
    Bọn dư đảng bỉ ổi cựu triều, ba mươi năm qua chưa làm nên trò trống gì. Trẫm đánh hàng trăm trận, sĩ tốt của chúng tan tác, tướng tá của chúng bỏ mạng, xương tàn đầy đất Gia Định. Những điều trẫm nói, các ngươi đều biết rõ, nếu mắt chưa từng trông thì tai cũng đã từng nghe. Giặc Chủng đê hèn phải bỏ trốn, chạy vạy Tây phương thì có gì đáng kể, còn đám dân ươn hèn Gia Định nay dám ngóc đầu nổi lên mộ binh, các ngươi sao lại sợ hãi, khiếp nhược đến vậy. Thủy bộ của chúng đánh chiếm thủy trại các ngươi không phòng bị như thế nào, hoàng đại huynh đều đã có thư cho trẫm rõ. Trẫm thấy chúng sở dĩ đánh chiếm đến đất các ngươi, không phải vì chúng tài giỏi mà chính vì quân dân hai phủ không dám đương cự. Quân sĩ các ngươi đã hèn nhát bỏ trốn, bộ binh một nơi, thủy binh một nẻo.
    Vâng lệnh Hoàng Đại huynh, trẫm sẽ thân chinh cầm đại quân theo hai đường thủy bộ nam chinh đánh dẹp. Ta sẽ đánh chúng như bẻ cành khô, phá thanh gỗ mục. Các người chớ có lo âu, sợ giặc, hãy mở mắt mà nhìn, lắng tai để nghe. Các ngươi sẽ thấy trẫm chỉ đánh một trận là Bình Khang, Diên Khánh sẽ chứa đầy xương tàn của những thây ma Gia Định, mãnh đất chiến địa Phú Yên và một dãi từ Bình Thuận đến Chân Lạp sẽ được thu phục. Trẫm và Hoàng Đại huynh là anh em, cùng chung một dòng máu, trẫm không bao giờ quên điều đó.
    Trẫm kêu gọi sĩ dân hai phủ ủng hộ hoàng gia, trung thành với Thái Đức, chờ đợi đại quân tiến vào Gia Định, thu phục đất cũ. Tiếng thơm hai phủ sẽ lưu truyền sử sách. Các ngươi chớ nhẹ dạ tin lời phao đồn bọn Tây Dương. Chúng có gì tài giỏi, chỉ là lũ rắn mắt xanh, thây ma chết trôi ngoài biển bắc. Những tàu đồng, khinh khí của chúng có gì là lạ mà phải đệ trình lên trẫm.
    Nay để đại quân nam tiến, các ngươi ở hai bên đường hành quân hãy kíp sửa sang để đợi đại quân.
    Lệnh này truyền tới, hãy vâng theo ý trẫm!.
    Khâm thử!
    Quang Trung năm thứ nhất
    10 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792)

    Quang Trung Đế Nguyễn Văn Huệ hội các tướng bàn tính, rồi định ngày tiến quân, phân binh làm ba cánh.
    Thủy quân do Đại Đô đốc Nguyễn Văn Lộc, Thống lĩnh Thủy quân Đặng Văn Chân, Tư lệ Đại Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết (Đinh Công Tuyết) đem hơn năm trăm đại thuyền, hai vạn thủy binh từ Phú Xuân, Quảng Nam kéo đi đến hợp với thủy binh nhà Thái Đức ở Thị Nại. Đợi đại quân trên bộ tiến tới, lập tức tiến vào ngã sông Bến Nghé đánh thẳng Gia Định, lại cắt hai đạo thủy quân, đánh mặt sau vào cửa Trấn Giang, Rạch Giá để cắt đường chạy ra hải đảo của Nguyễn Phúc Ánh.
    Truyền các tướng Tề Ngôi là Mạc Quan Phù, Lương Văn Canh, Phan Văn Tài, Trần Thiêm Bảo, Lương Quý Hưng đem chiến thuyền đánh phá men biển từ Khang Thuận cho đến Rạch Giá, ngăn ngừa quân Xiêm.
    Thượng đạo do Bình Đông Tướng quân Đặng Xuân Bảo, Tư lệ Đại Đô đốc Lê Trung, Đại Tư hội Nguyễn Văn Dụng, Đại Đô đốc Lý Văn Bưu, Nguyễn Văn Xuân, Lê Danh Phong đem bốn vạn quân bộ, kỵ, tượng binh trăm thớt theo lối thượng đạo Vạn Tượng tiến đánh thẳng vào Đồng Nai, Gia Định, truyền hịch cho Chân Lạp đem quân cắt đường viện binh của Xiêm La
    Trung đạo:
    Lấy Đại Đô đốc Đặng Xuân Phong làm Chủ tướng, Nguyễn Tăng Long làm Phó tướng, lãnh hai vạn quân, tượng binh trăm thớt làm tiên phong đi đội thứ nhất, tiến thẳng ra địa giới Phú Yên, hợp với các tướng nhà Thái Đức đánh lấy Đồng Nai rồi thẳng tiến vào Gia Định, chiếm Long An, Long Xuyên. Đại Đô đốc Đặng Văn Long là Chủ tướng, Lê Văn Long làm Phó tướng lãnh hai vạn quân, tượng binh trăm thớt đi đạo thứ hai, đánh lấy Bà Rịa, Gia Định rồi chiếm Long Hồ, Trà Vinh. Quang Trung Đế Nguyễn Văn Huệ ngự giá thân chinh đi đạo thứ ba, lấy Nguyễn Văn Huấn, Phạm Công Hưng làm Tả hữu Hộ vệ, Đặng Giản, , Nguyễn Văn Hòa, Vũ Văn Nguyệt, Chu Văn Uyển, Nguyễn Văn Diệm làm Tiền – Hậu - Tả – Hữu – Trung chi Đại Tướng quân, Lê Sĩ Hoàng, Phạm Cần Chánh làm Hổ kiêu tướng, Đại Tư hội Nguyễn Văn Dụng, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ làm Tham tán Binh vụ cầm sáu vạn quân, kỵ binh hơn tám ngàn, tượng binh ba trăm thớt đi đạo thứ hai tiếp ứng cho quân các cánh.
    Lấy Đại Đô đốc Bùi Hữu Hiếu, Đặng Đình Truật, Phan Văn Chuẩn làm tướng cầm hai vạn quân đi hậu đạo, vận chuyển lương thảo, khí giới chuyển đến Quy Nhơn phân phát.
    Lưu Thiếu bảo Nguyễn Văn Danh , Quận mã Đô đốc Phạm Công Trị, Nguyễn Thế Tử phò Thế tử Nguyễn Quang Toản lưu hai vạn quân ở lại giữ kinh thành Phú Xuân, Nguyễn Thế Trực giữ đồn Động Hải, Trương Đăng Đồ giữ cửa biển Noãn Hãi. Hai Đại Đô đốc Hồ Sĩ Xung, Trần Danh Nhạc giữ Hà Trung để chia nhau tiếp ứng.

    Tờ hịch truyền đến đâu, dân chúng Tây Sơn ở địa phận của nhà Thái Đức hớn hở, vui mừng đến đấy. Tướng Tây Sơn giữ Bình Thuận là Phạm Văn Điềm nhận được thư của Quang Trung Đế Nguyễn Văn Huệ liền cho người đi kết liên với Nặc Ông Tá ở Phố Châm để đánh phá mặt sau quân Nam triều ở [], xin mượn đường tiến quân qua Chân Lạp.
    Phụ chính Chân Lạp Chiêu Thủy Biện cũng sợ quân Tây Sơn và ghét Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh, cũng sắp sẵn quân để phòng khi quân Tây Sơn kéo đến.

    Nam Vương Nguyễn Phúc Ánh hay tin hai nhà Phú Xuân – Quy Nhơn kết liên cử đại binh, sợ hãi, sai người đi Xiêm La, Vạn Tượng xin phát viện binh, lại dụ bảo các tướng lo việc phòng bị, rồi hối Đại Tướng quân Hữu dinh Hoàng Tường Đức, Tán lý Chiêu đem bộ binh đánh úp trước lấy Phố Hài để giảm uy thế của địch.

    ---------- Post added at 19:37 ---------- Previous post was at 19:35 ----------

    Đọc hồi này xem văn phong thế nào giùm?
     

Chia sẻ trang này