Europe total war(truyện dài kì) Tác giả Machiavelli

Thảo luận trong 'Total War' bắt đầu bởi Machiavelli, 7/11/08.

  1. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Đã sáu giờ mà trời vẫn còn tối mịt, không khí lạnh lẽo và ẩm ướt phủ chụp xuống đầu các trung đoàn một màn sương dày, đặc quánh như sữa, cách mười bước cũng chịu, không thể trông thấy mặt người. Đạo trung quân, đạo hậu bị và một bộ phận rất lớn các tiểu đoàn cung nỏ Genoa, trung đoàn hộ vệ đánh giáo của ngài De Rossi đã rục rịch di chuyển, phía sau lực lượng ấy, thấp thoáng bóng dáng những khẩu pháo đen ngòm, nặng nề lăn bánh trên lớp đất xốp mềm, để lại những vệt hằn sâu hoắm. Những sĩ quan truyền tin, quân trinh sát ngang dọc khắp nơi, hễ họ đi đến bộ chỉ huy trung đoàn nào thì hàng ngũ của lực lượng đó lại lộn xộn hoặc đứng chững lại- ấy là do các trung đoàn trưởng và sĩ quan hướng đạo đang tranh cãi ghê lắm- rồi cái tiếng rầm rập đều đều của hàng nghìn bước chân lại vang lên, hoặc đổi hướng theo chỉ thị mới hoặc kiên quyết tiến theo đường cũ. Ít ra, họ cũng còn một niềm an ủi, bên cánh trái là dòng sông đục ngầu đang cuồn cuộn băng mình về phương bắc, còn cánh phải là những ngọn đồi mù mịt cỏ ống hay rừng thông bạt ngàn của rặng Sabine, chật kín quân nhà, nên nếu bị tiến công thì cũng chỉ bị vào mặt trước thôi.

    Các trung đoàn dưới quyền ngài đại vương hầu đóng trên dãy đồi thấp tiếp giáp với rặng Sabine, tạo nên cánh phải của quân đoàn, vẫn án binh bất động. Binh lính nhai thuốc lá với rum hoặc gặm bánh mì khô, giậm chân xuống đất, hít hà xoa tay vào nhau cho đỡ lạnh, lệnh trên đưa xuống nghiêm cấm việc đốt lửa để ngăn quân miền nam đoán biết các vị trí mai phục của quân ta, nhưng một vài sĩ quan lém lỉnh đã lén mang theo lò than trong cuộc chuyển quân ba ngày trước nên lều trại của họ nghiễm nhiên trở thành một thứ phòng tiếp khách xa xỉ giữa trận tiền, mọi người tụ lại hơ tay cho ấm, dùng thêm chút rượu đun nóng và phì phèo tẩu thuốc. Và nếu có viên giám quân can trường nào quyết tâm thanh sát các lực lượng này thì đám sĩ quan sẽ làm nốt cái nhiệm vụ mà ngay cả thời tiết khắc nghiệt nhất cũng đành chịu, họ sẽ mời quan giám sát dùng chút rượu ấm, hút thêm vài tẩu và gợi ý về món thịt ướp hay xúc xích nướng than bóng nhẩy, thế là lại có thêm một thiên thần sa ngã.

    Phía trước lại xảy ra sự xung đột giữa hai viên trung đoàn trưởng, tướng Lozel quát tháo, bắt tướng Grimo phải hãm trung đoàn quân đánh gươm lại và để lính tán thủ của mình chiếm lấy cao điểm hiếm hoi phía trước theo như bản nhật lệnh ghi rõ. Grimo lại viện cớ bộ chỉ huy tối cao phái viên hướng đạo bản xứ đòi ông phải chuyển hướng đi và nếu có trách thì nên trách bộ tổng tư lệnh ấy. Cả hai lại xoay ra hặc tội anh chàng sĩ quan truyền tin trẻ măng của ngài quận công, làm anh ta choáng óc với hàng tá lí lẽ xen với vô số câu chửi thề. Đến phiên anh này về đến quân doanh của ngài De Ross thì vụ cãi vã đã biến thành tình huống “ ta bị địch tập kích”, làm quận công Ross hối hả điều thêm tiểu đoàn cung nỏ tràn bừa lên khu cao điểm, báo hại đại tá Cacloniut chỉ huy tiểu đoàn này bị hai viên tướng cũ mắng như tát nước vào mặt. Vừa lúc ấy thì những tiếng gầm trầm đục, kéo theo tiếng rít rợn người trên không, rồi cơn mưa đất vụn cùng cỏ dại đổ xuống rào rào làm mọi người giật nảy mình, và mạnh ai nấy chạy thoát thân về phía các lực lượng mình chỉ huy.

    Trong suốt hai giờ sau đó,mặt nam dãy đồi thấp ăn lan đến bên bờ sông vưà làm Lozel cùng Grimo bất hòa, đã anh dũng hứng chịu một đợt pháo kích kinh hồn. Từ màn sương mờ đục “các sứ giả của tử thần” ầm ầm lao đến, tàn nhẫn vạch nát khuôn mặt diễm lệ của thiên nhiên, suốt mặt nam của ngọn đồi, đất lẫn với cỏ và cây bụi bị bóc tung từng mảng lớn, những quả đạn sắt xuyên xâu vào lòng đất, đạn đá vỡ nát bắn ra tứ tung, nhiều lúc, cả dòng sông bên cạnh cũng hứng đòn, làm tóe ra khắp nơi một cơn mưa nhỏ…

    Tiểu đoàn cung nỏ của bá tước Cacloniut xui rủi thế nào mà lại được phiên chế vào đạo tiền quân, lại thêm sự sốt sắng lúc đầu định ngăn hai vị trung đoàn trưởng choảng nhau ra trò mà năm trăm lính của anh tiến gần tuyến lửa hơn hết thảy. Khi quân địch bắt đầu oanh tạc, ngài De Ross thấy rằng dẫu sao bỏ lỡ cao điểm mà chờ kỵ binh địch đánh thốc từ trên cao xuống thì không khỏi làm tổn hại danh vị quân nhân của ông nên tiểu đoàn của Cacloniut và cả hai trung đoàn vừa định gây ra một trận huynh đệ tương tàn lại phải gồng mình bám giữ trận địạ.

    Đến chín giờ sáng, tiểu đoàn S.Fransico, các trung đoàn Venus và S.Mark đã thương vong mất ba trăm người mà chưa hề đánh chác gì cả, phía sau họ, khẩu đội của quân ta dè dặt thiết lập vị trí và vẫn ậm ờ chưa nhả đạn, nhưng nhìn về phía nam lại là cảnh hỏa ngục thật sự. Màn sương trắng đục ban sáng giờ được thay thế bằng làn khói xám nặng nề phụt ra từ khẩu đội địch, và từ cái vành đai huyền bí kia, không ngừng phọt ra những quả đạn pháo với tiếng rít khét lẹt. Đôi khi suốt mười hay hai mươi phút, đạn pháo đều chệch choạng lạc khỏi mục tiêu và oanh tạc nhằm sang họ hàng thủy tộc dưới sông. Nhưng cũng có lúc chỉ trong vài phút đã có tới dăm bảy người gục xuống, hoặc chết ngay tại chỗ, hoặc thoi thóp vùng vẫy trong máu của chính mình.

    Cũng như mọi người, bá tước Cacloniut đã tái xanh mặt, cáu bẳn và chán nản, đi đi lại lại trước tiểu đoàn mình, miệng lẩm nhẩm không ngừng bài kinh chiến thắng. Đã hơn dăm bảy lần chàng cảm nhận được sức ép và luồng hơi nóng phả đến khi những quả tạc đạn lướt qua, vậy mà thật đáng ngạc nhiên là chàng chưa hề trầy xước mảy may, chỉ có bộ quân phục xanh lục giờ đã bị đất bụi nhuộm thành nâu đỏ. Chính vị bá tước trẻ cũng không lí giải sao mình lại hành động ngông nghênh thế này. Có lẽ đi đi lại lại thì sẽ đỡ sợ hơn là đứng im chờ đạn sắt rơi trúng như ông Grimo vừa bị tiện mất một cánh tay chăng? Nhưng rõ ràng là cuộc đời chàng cũng vì thế mà có một giá trị đặc biệt. Ở hậu tuyến, người ta đang đặt kèo mười ăn một rằng bá tước Cacloniut De Blogria sẽ không sống nổi đến cuối trận.

    Sở dĩ diễn ra cái hoạt động trái quân kỉ và vô nhân tính kia cũng bởi các sĩ quan tuyến giữa và đạo quân hậu bị đã quá chán nản cái viễn cảnh ngồi lì hàng giờ, không được tham chiến mà cũng không được di chuyển. Cảm giác chờ đợi mỏi mòn thứ gì đó khủng khiếp mà mình biết trước sau gì cũng phải đối mặt với nó nhưng lại không được tự mình lao đến đã tác động sâu sắc đến đám quân miền bắc vốn rất ưa nhiệt náo này. Thế nên nếu không tìm trò gì để giải khuây thì sẽ chết vì buồn mất thôi!

    Khi đoan chắc đạn pháo kẻ thù không bắn tới vị trí của mình, nhiều binh sĩ túm lại tìm niềm vui nơi trò may rủi, hay trêu ghẹo, bàn tán toàn những chuyện đâu đâu. Các sĩ quan cũng chẳng có vẻ gì như đang giữ nghiêm quân kỉ, họa chăng là tài phét láo và huênh hoang của đám quý tộc này còn cao hơn bọn lính trơn kia một bậc. Chủ đề được yêu thích nhất là những kinh nghiệm trong tình trường hay một mối tình tưởng tượng nào đó, về những buổi dạ tiệc, khiêu vũ, những cuộc đi săn bằng chó và chim ưng…

    Đám sĩ quan đứng tuổi thì nhớ về căn biệt thự ấm cúng bên sông Po, những buổi cưỡi ngưa dọc theo vườn cam vàng rực dưới nắng chiều, dạy các con họ những kĩ năng cần thiết để trở thành một hiệp sĩ như cha nó, hay hài lòng trước các cánh đồng lúa mì vàng óng báo hiệu một năm không cần quá chú trọng đến chuyện ăn tiêu dè xẻn.

    Vừa chính lúc ấy thì chàng bá tước vừa múa may, vừa la đến khản cả giọng:

    _Tái lập hàng ngũ, kỵ binh địch chuẩn bị tiến công…
     
  2. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Qủa thật, khẩu đội của quân miền nam đã câm tịt, từ những thân pháo bằng đồng đen, một làn khói mờ nóng hừng hực bốc lên từng chập. Đám “cựu binh” từ thời nhà vua Anfonso này xem ra lại bền bỉ hơn những anh bạn bằng thép và gang đúc sau này- sau hai giờ oanh tạc, đã có mười hai khẩu pháo tân thời toác nòng rồi nôn ọc ọe thuốc súng, đạn sắt cùng vô số mảnh gang vỡ vào các pháo thủ xung quanh- Các mảnh pháo vỡ, xác người cháy đen vì thuốc súng vương vãi khắp nơi tạo nên cái mùi khét khét và tanh tửi làm lợm giọng bất kì ai đến gần. Thảm cảnh này gây ra không khí hoang mang lan truyền khắp cả tiểu đoàn pháo binh, và các chỉ huy phải hăm he dọa chém mới thúc được đám pháo thủ vào lại vị trí, rồi mọi chuyện cứ thế tiếp diễn, mặc cho bọn sĩ quan la hét, vung gươm loạn xạ, các pháo thủ vẫn đứng ì ra, một số tên còn nhặt các mảnh đạn vỡ ném vào đầu chỉ huy của chúng, vật hắn xuống và kết thúc mạng sống của y bằng một mảnh gang sắc vào cổ. Tình hình tệ đến nỗi cuối cùng người ta phải chặt đầu cả một trung đội rồi ngừng đợt bắn phá, chuẩn bị cho cuộc tiến công bằng kỵ binh và bộ binh chủ lực vào phòng tuyến kẻ thù.

    Trên dải đất phía nam ngọn đồi thấp, kỵ binh miền nam dần tập họp lại, xếp thành những khối vuông lớn một trăm người. Có cả thảy hơn năm ngàn kị binh vận giáp sắt toàn thân, cả người chỉ hở ra một khe nhỏ ở mắt để quan sát. Trên tay họ là những ngọn giáo dài tua ngù nhuộm đỏ sau lưỡi thép. Mỗi người còn tự vũ trang cho mình một thanh gươm rộng bản đeo ngang hông phòng khi ngựa bị trúng tên hay phải đánh giáp lá cà với quân thù. Phía sau họ khoảng một trăm bước, bộ binh cũng đang tiến lên.

    Khác với đám lính nông dân khờ khạo mà các lãnh chúa vơ vét tùy tiện trong mấy tháng qua, lực lượng nòng cốt của quân miền nam tinh nhuệ bậc nhất châu Âu. Phần lớn bộ binh đều mặc áo giáp sắt bảo vệ ngực và cánh tay. Số khác còn mặc thêm giáp xích dài đến gối và mang ủng sắt phòng khi đối phương rải đinh nhọn trên đường. Tuy không có quy định chung về vũ khí trang bị nhưng bộ binh miền nam đa phần sử dụng kiếm. Lưỡi kiếm dày và dài hơn một mét ba, phải cầm cả hai tay. Dẫu thất lợi vì không cầm được khiên nhưng bù lại, mỗi nhát chém của họ có thể xả dọc cả một con heo rừng trưởng thành.

    Cùng với tiếng kêu chiến đấu man rợ, kỵ binh hùng dũng xông lên, tạo thành một thành trì sắt lao về phía quân đội hoàng gia. Đầu ngựa ngẩng cao, bờm ngựa bù xù phất phơ trong gió, từ hai lỗ mũi lớn màu đen, những đám mây hơi nước nhỏ tỏa ra từng chập, trên lưng ngựa, kỵ sĩ chĩa giáo thẳng về phía trước bằng cả hai tay, người nép sát mình ngựa để đề phòng lực va chạm và trận mưa tên nỏ đang rào rào bắn tới. Cả ngựa và kỵ sĩ đều lấm tấm mồ hôi, từ từ tụ lại thành từng giọt nước lớn lăn trên bờm ngựa và lưng kỵ sĩ, vỡ tung tóe như muôn giọt lệ long lanh dưới ánh mặt trời.

    _Bắn…-sau hiệu lệnh của Caclonius, hàng trăm mũi tên ngắn đầu bọc thép rào rào bắn tới, đợt mưa tên bất ngờ làm một số kị binh tuyến đầu ngã ngục, số khác mất ngưa, bị quăng mạnh xuống nền đất cứng rồi bị vô số vó ngựa giày lên, có người chết ngay lập tức nhưng đa số vẫn sống khắc khoải, chịu đựng nổi đau cùng cực khi những mảnh giáp vỡ nát dưới sức nặng của ngựa lẫn kị sĩ găm sâu vào bụng, xén đứt ruột hay một số cơ quan khác, tuy đời người ai cũng phải chết nhưng chết như thế này thật chẳng sung sướng gì, một số người bị thương quá nặng cố kê đầu vào dưới những chiếc móng sắt để nhận lấy cái chết dễ chịu hơn, trên những chiếc móng sắt xám ngắt giờ đã lấp loáng máu người, máu ngựa và cả những mẩu nội tạng vỡ, những mẩu óc mềm nhũng, nhơn nhớt. Tuy thế đà tiến của đám kị sĩ không hề chậm lại, tên nỏ nguy hiểm nhất khi bắn chính diện vào phần ức được bảo vệ sơ sài bằng những tấm thép mỏng của lũ ngựa nhưng lại không phát huy được tác dụng khi bắn ở góc lớn. Khi đó, tốc độ của chúng chậm lại và chỉ ghim sơ sài hoặc nảy tưng trên phần giáp che vai dày chứ không làm tổn thương được kị sĩ.

    Khi lũ ngựa còn cách khoảng một trăm bước, đám quân bắn nỏ lộn xộn rút lui qua hàng ngũ bọn đồng đội đánh giáo và trường kiếm. Những chiếc khiên gỗ bản rộng trên lưng chúng và dáng đi gù gù, chậm chạp dễ làm người ta liên tưởng đến những con rùa ngoại cỡ. Nhưng không phải ngẫu nhiên mà quân bắn nỏ đeo khiên sau lưng. Nỏ Genoa tốt vào bậc nhất thế giới và cần dùng cả hai tay để lên nòng. Lúc đó quân bắn nỏ sẽ quay lưng về phía địch thủ để tấm khiên dày chặn bớt cung nỏ của kẻ thù. Những khi buộc phải đánh giáp là cà, các tấm khiên ấy lại được dùng để hất ngã kẻ thù trước khi kết thúc tính mạng hắn bằng một nhát dao vào cổ. Dĩ nhiên, đó chỉ là trường hợp bất khả kháng khi không có quân bảo vệ.

    Ở phía đối diện, kỵ binh vẫn điên cuồng xông lên, việc thoát được loạt mưa tên bắn cấp tập khiến chúng càng phi ngựa nhanh hơn, nhưng từ chiến tuyến trên đồi, những cụm khói xám xịt và tia lửa lại tóe ra, đạn từ những khẩu pháo dã chiến của quân miền bắc phụt thẳng vào toán kỵ binh. Các quả cầu sắt năm livre găm phầm phập vào người và ngựa, chốc chốc lại có những kỵ sĩ bị hất tung lên không hay ngựa bị đốn gục…

    Hai mươi bước… rồi chỉ còn mười bước nữa là đến hàng ngũ kẻ thù. Kỵ binh sẽ dùng thế mạnh về thể lực và tốc độ để hất tung quân đối phương, cắt nát hàng ngũ chúng và mở đầu cuộc tàn sát. Một khi hàng ngũ đã vỡ, địch quân sẽ không thể tái lập nổi và trận đánh sẽ kết thúc sớm hơn dự kiến.

    _Anh em chuẩn bị…giữ vững …cố giữ vững…làm đi-sau tiếng hô của phó tướng De Niro, ba hàng bộ binh đầu tiên nhanh nhẹn quỳ xuống tì vai vào khiên trong khi đồng đội ở phía sau đồng loạt giương lên bức tường giáo lởm chởm, nhắm ngay ức lũ ngựa và người cưỡi chúng.

    Trên một ngọn đồi thấp phía bên kia chiến tuyến,Talirus và các lãnh chúa khác hầu như không tin nổi những gì mình thấy. Chỉ mới phút trước kị binh của họ còn hoàn toàn làm chủ chiến trường vậy mà nay đã bị bức tường giáo chặn đứng. Đúng là một số kị sĩ đã bứt qua lớp khiên chắn đầu tiên và giẫm gãy lưng hàng chục bộ binh ở tuyến đầu nhưng họ nhanh chóng bị hàng giáo phía sau xỉa trúng, treo lơ lửng giữa không trung như lũ chim ngoại cỡ trong khi máu không ngừng phun thành dòng, tưới ướt mặt quân phòng thủ. Tiếng gào thét, tiếng hô chiến đấu, tiếng chửi thề, tiếng người van xin khiến chiến trường náo loạn chẳng khác gì nhà thương điên. Quân phòng thủ lúc này cũng đã sôi máu lên, liên tục đâm, thụt rồi lại hối hả đâm những ngọn lao dài vào lũ người, ngựa hỗn độn trước mặt. Nói thế không có nghĩa là quân phòng thủ hoàn toàn vô sự, ở một số điểm, kỵ binh đã làm hàng ngũ họ rối loạn, lũ ngựa nhiều khi ngã đè lên những ngọn giáo cán gỗ khiến chúng gãy đôi trong khi nhiều lính phương nam tinh ranh hơn đã nhảy khỏi ngựa, dùng con vật gắn bó với mình suốt nửa đời chinh chiến đỡ lấy hàng chục ngọn giáo rồi đạp lên mình lũ ngựa, lia gươm chặt gãy những ngọn giáo mà xông vào hàng ngũ kẻ thù vẫn còn ngơ ngát. Sau mười lăm phút khổ chiến, lũ kỵ sĩ ở hàng đầu đều đã xuống ngựa, trận đánh giờ đây diễn ra càng ác liệt hơn. Bị tước mất ngọn giáo dài, quân đánh thương dần hoảng loạn, những tên còn vũ khí cố tái lập hàng ngũ, yểm trợ đồng đội rút lui rồi cũng rút qua các ngọn đồi. Một loạt tên nữa tạm ngăn quân tiến công trong giây lát trước khi phía phòng thủ kịp điều chỉnh chiến thuật. Từ hai cánh, hai trung đoàn bộ binh mới lại được tung vào cuộc tàn sát.

    Trang bị của hai cánh quân này vô cùng đa dạng, cứ như một viện trưng bày vũ khí di động vậy. Ở đây ta có thể bắt gặp từ những quả chùy sắt tua tủa gai nhọn nối với cán gỗ nhờ một sợi xích ngắn lẫn những chiếc búa sắt lớn, hai đầu nhọn hoắc như cuốc chim, bổ thẳng xuống đầu lũ kị sĩ còn chưa kịp định thần. Ngoài ra còn thêm trung đoàn quân đánh gươm cũng đang ùa tới bảo vệ cho bọn đánh giáo. Nhờ thế, cục diện chiến trường đã xoay chuyển theo chiều hướng có lợi cho quân phòng thủ. Lũ đánh búa hung hãn đập vỡ khiên của các kị sĩ, tung ra những đòn tấn công chậm nhưng đầy uy lực. Chốc chốc, giữa những tiếng la hét, than khóc và chửi bới lại xuất hiện những tiếng vỡ khô khốc của mũ mũ trụ và sương sọ. Ở một góc khác của chiến trường, các kỵ sĩ bị câu liêm lôi khỏi ngựa, người bị đâm nhiều chỗ hoặc bị đập bằng chùy cho đến chết. Pháo binh quân miền bắc vẫn tiếp tục bắn, hướng cao nòng nã vào đội bộ binh địch đang cố xông lên tiếp viện cho các kỵ sĩ.

    Hỗn chiến một lúc, nhiều kỵ sĩ đã rời khỏi hàng ngũ, cố quay ngựa lại nhưng càng làm tình hình thêm tồi tệ khi bị chính gươm giáo của đồng đội phía sau xỉa trúng, độ thêm mười lăm phút nữa, số ít ỏi còn sống sót của ba trung đoàn giáp kỵ hoảng loạn rút lui, bỏ mặc một số đồng đội còn đang kêu gào, chiến đấu một cách tuyệt vọng giữa biển quân thù.Đám quân phòng thủ mới bổ sung không thèm đuổi theo mà chỉ cười ồ lên, buông ra những câu chửi tục cay độc và làm nhiều dấu hiệu tỏ vẻ khinh khi quân tấn công. Một số tên thậm chí còn vạch quần đái vào đầu vài tên kị sĩ nằm thoi thóp trên nền đất đỏ thẫm máu người, dẫm lên đầu bọn này và thích thú moi ruột chúng, bỏ mặc chúng cho ruồi nhặng và lũ chim ăn xác đang ngày một kéo đến nhiều hơn. Lúc bấy giờ, hơn mười ngàn lính bộ binh tăng viện của quân miền nam lại sắp được tung vào trận đánh.
     
  3. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Tiểu đoàn phiêu kỵ Principe đóng tại một làng nhỏ cáchTerni sáu dặm về hướng đông nam, dường như đã bị các cấp chỉ huy lãng quên hoàn toàn. Vào cái ngày định mệnh mà hai đội quân khổng lồ đại diện cho những phe phái và trục quyền lực đối lập va vào nhau ở tả ngạn sông Pontenus, khắp tiểu đoàn, mọi người vẫn còn nhởn nhơ săn bắn và chơi bời cạnh khu rừng sồi cổ thụ phủ suốt mặt nam ngôi làng đến tận sườn tây rặng Apennin.

    Từ tờ mờ sáng, Alecto đã men theo con đường mòn dẫn về làng, sau yên ngựa treo lủng lẳng hai đôi ngỗng trời và vài con chim nước màu nâu xám.
    Cậu hoan hỉ cho ngựa phi nước kiệu đến trước ngôi nhà đẹp nhất làng được trưng dụng làm bộ chỉ huy, vắt chân qua mình ngựa rồi duyên dáng nhảy xuống, thích thú nghe tiếng thanh gươm khảm vàng leng keng chạm vào những tua bạc trên bộ quân phục trung úy, lập tức, một chú bé mặt mày lem luốt nhưng kháu khỉnh nhanh nhẹn tới chào chàng sĩ quan trẻ.

    _Chăm sóc ngựa ta cho tốt nhé, Arelino, và bảo mẹ chú, sáng nay ta muốn có món ngỗng quay cùng chim nhồi nấm- nói đoạn, Alecto búng cho cậu bé hai sculdo bạc.

    _Vâng, thưa đức ông- cậu bé lanh lẹn đáp, vừa lúc ấy, lại thêm hai ba chú nhỏ nữa chạy đến nhưng Arelino đã nhanh tay nắm lấy dây cương cứ như một cậu chủ nhỏ đang khẳng định quyền sở hữu. Thấy thế. bọn trẻ còn lại đành tiu nghỉu tản đi ngõ khác, cứ nhìn vẻ tiếc nuối trên khuôn mặt chúng cũng đủ hiểu Alecto thường thưởng tiền trà nước rất hậu và được dịp phục vụ chàng hẳn là có lợi.

    Alecto vỗ nhẹ lên mông ngựa, miệng nở một nụ cười thân ái và phấn chấn mà ta vẫn thường thấy trên môi những chàng thanh niên tốt bụng, hài lòng với cuộc sống. Rồi chàng thong thả bước vào bộ chỉ huy tạm thời, vừa đi vừa huýt sáo.

    _Chà! Săn bắn tốt lắm hở cậu?- Renato, viên thư ký đại đội thứ nhất thân mật gọi. Tuy mới gặp gỡ hơn tuần nay nhưng tính hào hiệp và rộng rãi của cậu tử tước đã nhanh chóng chinh phục lớp hạ sĩ quan cũ.

    _Vâng, tốt lắm, anh nhắn với mọi người ta có món ngỗng cùng chim rừng cho bữa sáng.

    _Phải có thêm tí rượu vang thì hay!- Renato tiếc rẻ đáp- chắc chút nữa tôi rủ thêm đám giữ kho quân nhu đại đội ba sang luôn thể, bọn đó vẫn giếm lại vài thùng vang Tuscan từ đợt tiếp tế trước. Chúng may mắn có một đại đội trưởng không say xỉn.

    _Thế đại đội trưởng bên ta vẫn còn say à?

    _Không, hôm qua lúc cậu vừa đi thì đại úy tỉnh rồi, nhưng không tìm thấy cậu, ngài lại sang bên đại đội hai đánh bạc.

    _Đánh tới giờ hay sao? - Alecto ngạc nhiên hỏi.

    _Vâng, thế là lại thua đậm đấy, nếu thắng thì đã về từ ban tối và nhậu nhẹt hát hò ầm lên rồi rồi. À, mà ông ấy kìa, không xong, lại quạu rồi- viên thư ký hoảng hốt dọn hết mớ giấy má trên bàn rồi chạy xuống bếp bê ra một chai rượu chát cất với chanh, món hẩu của ngài đại úy.

    Qua khung cửa kính bị lũ trẻ nghịch ngợm ném vỡ, Alecto nhác thấy đại úy Vitto, đang bước lên thềm, dáng đi hơi khòm nhưng vũng chãi, khuôn mặt tròn tròn giờ đang đỏ bừng vì tức tối, những ngón tay chai sần vò rối thêm cái đầu bù xù như một chiếc chổi rơm.

    _Kìa!- Vitto sẵn giọng quát, Renato biết ý rót ngay cho đại úy một cốc đầy rượu mạnh, Vitto nốc cạn ngay như người ta uống nước và phải thêm ba ly nữa y mới tạm bình tĩnh và quay sang Alecto, thân mật xoa đầu cậu như một chú bé.

    _Cậu nhóc về rồi đấy à, săn bắn tốt không?

    _Rất tốt, còn anh thì sao?

    _Mẹ kiếp, đúng là đen như chó ấy cậu ạ, cả một ván cũng không gỡ được, hết lẻ cặp lại kém quân, trời ơi, lũ chuột ấy cứ như đã thỏa hiệp với nhau hết cả- Vitto vung vẩy đôi cánh tay gân guốc rắn chắc rồi y lại gãi gãi đầu như cố nhớ xem mình định nói gì tiếp.

    _Hay anh ngủ tí chút cho lại sức- Alecto dè dặt đề nghị.

    _Ngủ nghê gì được, còn trẻ thì phải hoạt động nhiều một chút, hây, đánh đấm gì thì làm cho xong hẳn đi, chờ đợi thế này chồn chân lắm cậu ạ! Rượu vốn không thiếu nhưng còn khoản kia thì…

    _Đại úy Vitto, tiểu đoàn trưởng đợi ông ở buổi duyệt binh đấy-từ bên ngoài, giọng Arelino lảnh lót vọng lại.

    _Tao biết rồi- Vitto bực dọc đáp, khi bước ra thềm, anh trông thấy thằng quỷ nhỏ đang chìa tay ra, vẻ mặt cười cười như đang chờ đợi sự tưởng thưởng xứng đáng nào đó.

    _Cút đi mày- Vốn đang bực dọc, Vitto đánh đét vào tay thằng nhóc, khệnh khạng bước xuống thềm, miệng cười chọc ghẹo, dường như đã quên vụ thua bạc vừa qua. Nhưng ngay cả một thằng nhóc Italia cũng có tính tự ái của riêng mình và liền sau đó, ngài đại úy nhận ngay một viên sỏi vào gáy, thế là y lại sừng cồ đuổi theo Arelino trong khi cậu đẩy cửa chạy vào nhà và nấp sau lưng Alecto.

    _Thôi nào Vitto, nó còn bé mà.

    _Cậu im đi, Alex, cái ngữ này thì phải lấy roi đánh tuốt xác nó ra.

    _Ôi ông ơi, đại tá Marcus đang hối thúc ghê lắm, chỉ còn mỗi đại đội ta là chưa tập hợp hàng ngũ gì cả, ông đi ngay cho kịp ạ!- Renato vội vàng can, cứ y như rằng mỗi lần đại úy uống rượu vào là lại xảy ra chuyện, cũng vì thói tật ấy mà Vitto đã để lỡ hai dịp xét phong hàm thiếu tá...

    _Mày liệu hồn đấy nhóc- Vitto trừng mắt nhìn thằng bé rồi ra vẻ cam chịu để viên thư ký kéo tay ra cửa.

    Sau lưng Alecto, thằng bé Arelino làm mặt nhát ma chòng ghẹo viên đại úy, rồi như nhớ ra chuyện gì hệ trọng lắm, nó lay lay tay chàng tử tước:

    _Ồ, thưa đức ông, vừa nãy có một vị quý tộc ăn vận sang trọng lắm đang hỏi tin ông đấy ạ?

    _Thế chú có biết tên ông ta là gì không?

    _Ơ… hình như là công tước Rome hay Rua… gì đó a!

    _Rome à, nhưng…

    _Xin ông đi ngay cho, ông ấy bảo nếu cháu đưa được ông đến thì sẽ thưởng một ducat đấy- Rồi chẳng để cậu tử tước kịp suy nghĩ gì, Arelino nhanh nhẹn tái hiện ngay quang cảnh vừa diễn ra vài phút trước. Chỉ là khác với Renato luôn tận tụy và chẳng được chút ân huệ nào, thằng nhóc xứ Umbria đang mơ tưởng đến đồng vàng đầu tiên trong đời nó.

    Đứng tựa mình vào gốc anh đào đầu làng là một chàng trai dong dỏng cao cao, khuôn mặt y hơi nheo lại vì chói nắng và dưới đôi lông mày thanh tú, long lanh cặp mắt hóm hỉnh, đen tuyền. Nom thấy Alecto từ xa, y giơ cao chiếc mũ đính lông chim màu lam nhạt vẫy cậu tử tước, miệng nở một nụ cười thành thực và yên bình.

    Alecto bước những bước dài, rồi không kìm được nữa, ù chạy như trẻ con, giang rộng đôi cánh tay định ôm choàng lấy vị công tước gặp gỡ trên đường đến Perugia, nhưng cậu chợt khựng lại, ngạc nhiên thấy đại tá Marcus từ bãi duyệt binh cũng hấp tấp chạy lại, xúc động không nói nên lời và cúi xuống hôn lên mặt nhẫn ngọc trên tay Romulus. Lúc ấy, vẻ mặt người thanh niên nọ chẳng có vẻ gì như đang cười nữa, đôi mắt mơ màng chợt trở thành nghiêm nghị…
     
  4. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Những cụm khói phụt ra từ khu rừng phía bên kia dòng sông rồi tiếng kêu la mơ hồ theo gió lan đến làm sắc mặt nhà vua trẻ hơi tái đi, anh thôi không nhìn cảnh chiến trường nữa mà quay sang chàng sĩ quan kỵ binh bên cạnh, nhẹ nhàng hỏi:

    _Tử tước nghĩ trận này quân ta sẽ thắng chứ?

    _Thần không rõ thưa bệ hạ, màn khói dày quá! - chàng sĩ quan lóng ngóng đáp,đó là một cậu trai trẻ rất xinh với những món tóc đen lòa xòa che cả hai tai cùng chiếc mũi thẳng đặt trên khuôn mặt tròn tròn trẻ măng.

    _Tử tước thấy trong người khó ở à? Hay cậu còn giận ta?- nhà vua nhẹ nhàng hỏi, trong giọng nói hàm chứa một mối quan tâm đặc biệt làm vị đại tá kỵ binh đứng cách họ một quãng phía sau không khỏi ghen tức. Mới vài giờ trước, có ai biết thằng nhóc này là ai đâu, vậy mà bây giờ, cả tiểu đoàn đều kháu nhau về sự tình cờ lạ lùng đã khiến một bạn đồng ngũ của họ bỗng chốc trở thành bầy tôi sủng ái của nhà vua.

    _Thần đâu dám thế ạ! Chỉ là sự việc lần này bất ngờ quá.

    _Tìm gặp cậu khó hơn là ta tưởng, sự vụ ở làng Horta thì rõ là ta sai rành rành rồi. Nhưng hôm ấy chính ta lại khó ở, mà cậu biết đấy, con người thì luôn phạm phải sai lầm.

    _Bệ hạ đừng nói vậy.-Alecto áy náy đáp, ngượng nghịu không biết nói thế liệu có hợp lẽ không, một mặt, cậu vẫn tiếc nuối tình cảm chân thành và hồn nhiên thuở hai người cùng sống chết chiến đấu dạo trước, mặt khác, khoảng cách vua tôi xa vời và sự thiếu kinh nghiệm trong vũ đài chính trị khiến cậu không biết cư xử sao cho phải phép trước vị chúa thượng mới của mình.

    _Những người như tử tước ngày nay không còn nhiều- Jeremy chợt thở dài, buông một câu bâng quơ.

    _Bệ hạ bảo sao ạ?

    _Vốn là vì số lượng những kẻ ngốc ngày càng giảm sút.

    _Bệ hạ…- Alecto hơi tái mặt, khẽ mấp máy môi rồi im bặt. Jeremy trông thấy hết những nét biểu cảm ấy, rồi anh chợt cười và bảo:

    _Nếu là hai tuần trước mà ta nói thế, cậu sẽ làm gì nào, thách ta đấu kiếm ư?

    _Thần không dám- Alecto bẽn lẽn tiếp.

    _Vì sao?

    _Vì…

    _Nếu là Cofio, hẳn y sẽ nói: ” vì bệ hạ là một tay kiếm cự phách”, còn cậu? Cậu sẽ nói gì nào?

    _Thần chưa từng nghĩ đến chuyện đó.

    _Bởi thế nên ta quý cậu, cùng lí do đó đã khiến ta lừa dối cậu- Jeremy cho ngựa phi nước kiệu tiến vào cánh đồng cỏ trải dài đến tận hữu ngạn dòng Pontenus, vẫy vẫy tay ra hiệu Alecto tiến theo mình. Bên kia sông, tiếng la hét mỗi lúc một to dần, bằng mắt thường cũng thấp thoáng trông thấy những dải màu xanh, và xám hoặc đứng yên, hoặc chuyển động, và ở nơi nào những dãy màu ấy chạm nhau, chúng chợt nhạt nhòa, hòa lẫn rồi lụi tắt, chỉ còn những vệt đỏ kéo dài vô tận.

    _Bệ hạ không nên đến đây- chàng sĩ quan ray rứt nói.

    _Chẳng phải cậu từng muốn cùng ta tham dự chiến trận sao?

    _Lúc đó là vì…

    _Vì ta là Romulus chăng? Sao y lại có được tình bạn của cậu, còn ta thì không? Chẳng lẽ ta không xứng?

    _Là thần không xứng- Alecto chợt thở dài.

    _Ai dám nói tử tước không xứng?- Nhà vua đột nhiên gắt gỏng, bàn tay đeo găng trắng đấm mạnh vào yên ngựa.

    _Chẳng ai nói thế cả, nhưng…

    _Thế tức là cậu xứng đáng. Người khác có thể xem cậu là một gã nhẹ dạ, ưa thẹn thùng và nhút nhát. Nhưng bằng hành động cao thượng của mình, cậu đã chinh phục được ta, lí do gì khiến tử tước nghĩ, mình không chinh phục được họ?- Nhà vua ướm hỏi, chăm chú theo dõi sắc mặt Alecto. Mãi không nghe thấy câu trả lời, anh nhẹ nâng cằm cậu tử tước, giữ cho mắt cậu tập trung nhìn vào mắt mình:

    _ Ấy là bởi chưa có ai đặt niềm tin nơi cậu, với đức ông Giosveni, cậu vẫn còn là trẻ con, với các nhà quý tộc khác, cậu chỉ là thứ nam và đương nhiên chẳng có cơ may thừa kế gia sản nhà Blogria…

    Alecto gạt mạnh tay nhà vua sang bên, răng cắn chặt môi, lòng thầm ước có thể trở lại những ngày êm đềm khi cùng đồng hành với chàng công tước cứ luôn miệng nói cười, chẳng bận lòng những toan tính quyền vị, thế tục.

    _Cậu còn nhớ câu chuyện bỏ dở chiều hôm ấy chứ, về trận Istria ấy?- Jeremy hạ giọng nói.

    _Vâng thưa bệ hạ.

    _Theo lời cậu thì ở Empoli, người ta cho rằng trận đó, ta đã chiến đấu vô cùng anh dũng, nhưng hôm trước ta lại bảo mình là một chiến binh rất tồi, vậy theo cậu thì ai đúng?

    _Hôm ấy… bệ hạ định đùa thần chăng?

    _Không đâu, ta nói thật đấy.

    _Nhưng…

    _Mà người dân Empoli cũng chẳng sai nữa.

    _Thần không hiểu.

    _Vậy hẳn cậu đã nghe câu:” Một phần của sự thật không phải là sự thật”

    _À… thần có nghe.

    _Câu chuyện về trận Istria là thế đó, có quá nhiều sự kiện bị che lấp và bóp méo đến mức ta cũng chẳng biết là ai đúng ai sai. Nhưng câu chuyện của bản thân ta là thế này… Năm đó ta mới mười bốn tuổi, tử tước ạ! Dù ta được kế thừa tất cả tước hiệu, tài sản của cha ta, không có nghĩa là ta nhận được cùng một lòng dũng cảm và kinh nghiệm chiến đấu như ông ấy. Quan sát quân thù bằng viễn kính rồi lệnh cho quân mình đi chết thay là một chuyện, nhưng trực tiếp chỉ huy những lực lượng đó là việc rất khác.

    _Rồi sao nữa ạ?

    _Giả như ta trực tiếp chỉ huy cánh quân ấy thì kết quả cầm chắc là cái chết. Chết nhanh chóng nếu cố tỏ ra dũng cảm, chết tủi nhục khi hèn nhát rút lui. Cách thức có thể khác, nhưng kết quả thì vẫn vậy. Thú thật là ta sợ chết, nhưng lại muốn có được danh tiếng cùng địa vị. Và cũng may là dù rất hiếm nhưng ta còn có bạn. Ông ấy đã đổi cho ta giáp phục của mình, bố trí ta ở đại đội dự bị cuối cùng...

    _ Bệ hạ lại chấp thuận trò lừa phỉnh đó sao?

    _Sao lại không nào?

    _Nhưng nó thật là…- Alecto tái xanh mặt, một cảm giác ghê tởm bóp nghẹt con tim cậu, vậy ra tất cả những gì cậu hằng tin tưởng, tôn thờ đều là dối trá hay sao? Cạnh bên cậu, nhà vua cũng lặng im chẳng nói gì, khuôn mặt y thoáng ửng hồng, một nét biểu cảm mà y luôn đinh ninh là sẽ chẳng bao giờ xuất hiện.

    _Tại sao bệ hạ lại làm vậy

    _Vì ta sợ lắm.

    _Sao người lại sợ?

    _Một chú bé hẳn có quyền được sợ trước những biến đổi lớn lao chứ - Dừng lại một chốc, nhà vua lại tiếp- cậu có thấy ta đáng khinh và hèn nhát không?
    Alecto ngẩn ra một lúc, thế ra tất cả những gì cậu từng tin tưởng, những giấc mơ con trẻ đều là dối trá bịp bợm, được dựng lên để thỏa mãn lợi ích của một vài người. Nhưng đặt trường hợp là bản thân mình, liệu cậu có đủ can đảm thú nhận những lỗi lầm ấy không? Cậu thiếu niên chần chừ một lúc, rồi rướng người ôm hôn hai má Jeremy:

    _Có thể cậu bé Romulus lần đầu ra trận đã khiếp sợ như thế... nhưng vị vua mà thần từng sát cánh chiến đấu tại Perugia thì hoàn toàn đúng như lời kể.
    Ánh mắt nhà vua trẻ lộ vẻ hàm ơn rõ rệt, rồi anh mỉm cười hôn lên trán Alecto, hài lòng nhận thấy chàng trai trẻ này từ nay đã hoàn toàn thuộc về mình. Và bản thân mình vừa là người anh, người bạn, người bảo trợ rồi sẽ phải lo nghĩ tạo dựng cho cậu một sự nghiệp xứng đáng.

    ‘Phải, Alecto sẽ sớm nở rộ. Mùa xuân cuộc đời cậu ta chỉ vừa chớm nở nhưng ta cam đoan mình sẽ làm cho nó rực rỡ hơn bao giờ hết. Trong con người cậu hừng hực nhựa sống và tuổi trẻ, quan sát những chàng thanh niên như thế là cả một sự hài lòng. Cậu bé có gương mặt và tâm hồn tuyệt vời ấy khơi gợi sự hiếu kỳ mà ta lấy làm thú vị khi ngày càng vun đắp thêm cho nó. ‘

    ‘Vậy còn ta, thật lạ lùng là khi nghĩ về cậu bé, lắm lúc ta quên bẵng đi chuyện của mình. Khi trù tính, ban phát những đặc ân cho con người trẻ tuổi tươi vui ấy, phải chăng chính ta lại cảm thấy ghen tị. Sao ta không được hưởng một cuộc đời như thế, cách giáo dục của những người cha đã tạo ra hai đứa trẻ khác nhau biết chừng nào… ta đâu mong ước mình trở thành con người như ngày hôm nay.’
     
  5. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Tiểu đoàn phiêu kỵ chỉ rời khỏi bìa rừng chừng một dặm là đã phải dừng lại, ngăn cách giữa hai đạo quân thù địch là dòng Pontenus cuồn cuộn băng mình về phương bắc. Ai nấy đều cảm thấy sự căng thẳng đang từng bước chiếm đoạt thể xác, tâm hồn mình và lo lắng tự hỏi không biết mình có còn sống sót để vượt qua nó nữa chăng.

    Đại tá Marcus rề rà diễu trước tiểu đoàn, trả lời một cách giận dữ câu hỏi của các sĩ quan, tuy không ai nói rõ rệt nhưng ở các đại đội có tin truyền đi là tiểu đoàn sắp tham gia công kích, chỉ là từ anh lính trơn đến các đại đội trưởng đều ngán ngại viễn cảnh phải băng mình vào dòng nước xiết, đục ngầu những phù sa và máu trước mặt.

    ‘Xin hãy nhớ cho là nếu cậu tử trận, thì ta với tư cách là bạn, là anh, là người bảo trợ của cậu sẽ rất đau lòng và do đó, ta sẽ làm nhiều người khác lâm vào tình cảnh ấy để mình đỡ đơn côi. Nhưng nếu cậu tỏ ra không xứng đáng thì ta sẽ xấu hổ lắm đấy.’- Alecto nhớ lại câu nói cuối cùng của nhà vua trẻ trước lúc chia tay, tay xiết chặt chuôi gươm, vẻ mặt hơi tái đi khi mục kích cuộc chém giết đẫm máu bên kia bờ sông, đồng thời lại cảm thấy ưu phiền, bất lực vì bản thân không góp được chút sức lực giúp đỡ các bạn đồng ngũ ở phía tả ngạn…

    Hàng ngũ quân áo xám chợt rối loạn, từ các khu rừng lá rộng trên rặng Sabine, những trung đoàn áo xanh tăng viện lại ùn ùn đổ tới. Rồi kèm theo những tiếng rít bất tận, từng loạt đạn ghém chụp xuống đoàn quân khốn khổ bên dưới như một lũ côn trùng khát máu. Đạn xé nát cơ thể họ, xuyên thủng những bộ giáp dày trước con mắt sững sờ của lũ chiến binh,hàng ngũ họ dao động khi loạt đạn thứ hai rồi thứ ba cứ thế trút xuống. Rồi một người…hai người rồi cả một đại đội và cuối cùng là cả trung đoàn tiền tiêu của các lãnh chúa phương nam đồng loạt quăng vũ khí chạy thoát thân, giày xéo lên nhau, than khóc, la lối như một lũ điên, một số cậu lính trẻ thậm chí vãi cả ra quần. Nhưng việc ấy thì ai thèm quan tâm chứ,lúc ấy người ta còn mãi chạy về phía quân ta kìa. Chậm chân thì chỉ còn con đường chết thôi, họ đã bị đánh bại.

    Trong khi đó, từ hàng ngũ quân áo xanh lại vang rên tiếng reo hò chiến thắng, những lá cờ sư tử vươn cánh nhấp nhô cùng đoàn quân đang tiến lên.
    Trên chiến trường giờ mù mịt khói và la liệt xác người xác ngựa cùng cơ man nào là cờ xí gãy nát, nhưng những tiếng trống và kèn thúc quân lại tiếp tục vang lên,đạo quân tinh nhuệ của ngài đại vương hầu lúc này mới lộ diện. Hơn năm trăm hiệp sĩ tạo thành mũi nhọn của đợt tiến công, theo sau họ là chừng ấy quân tùy tùng và hàng ngàn lính cũ trận Istria. Khối sắt thép khổng lồ ấy lô nhô đổ xuống thành một cơn hồng thủy màu xanh bạc, gươm tuốt trần trong tay và khiên hoành ngang trước ngực. Từ xa, quân miền nam đã cảm nhận được áp lực khủng khiếp mà đoàn người đó mang đến.Không khí dường như bị nén lại, thần kinh mọi người căng như dây đàn. Một số quân bắn nỏ bắn vào họ nhưng vẫn không chặn được đà tiến công, rồi mũi tên bạc găm phập vào ngang sường người khổng lồ áo xám, xuyên phá hàng ngũ quân thù và tạo nên những hệ quả khủng khiếp.

    Hàng ngũ quân miền nam bắt đầu có sự dao động. Phần lớn quân tinh nhuệ trong đợt tiến công đầu tiên đều đã tử thương hoặc bị bắt, còn đám vệ binh trung thành nghiệp thì mãi lo bảo vệ các lãnh chúa. Tuyến tiền quân, trung quân và hậu quân của họ giờ chỉ còn rặt toàn lính mới và bọn đánh thuê phản trắc. Thần kinh đám người này vốn đã bị kích động mạnh bởi cuộc tàn sát vừa rồi giờ lại càng suy sụp khi trông thấy lũ hiệp sĩ. Hàng ngũ họ đang bị xuyên phá, các trung đoàn bị tách rời thành từng mảng.

    Để khiến tình hình quân áo xám thêm rối loạn, từ cánh đồng trống trải sau lưng quân miền nam, hàng ngàn kị sĩ đang phi nhanh đến, theo đội hình tam giác, ồ ạt vượt qua các chướng ngại vật cự mã mà quân miền nam trong lúc vội vã thiết lập chiều hôm trước đã quên không cắm thêm chông nhọn hoặc hố bẫy. Sau phút đầu choáng váng, đội quân tinh nhuệ bảo vệ các lãnh chúa vội vã xếp thành từng khối lớn, vơ lấy mọi thứ vũ khí trong tầm tay để tạo thành một bức tường giáo mác hòng hãm đà tiến của kị binh, một chiến thuật luôn tỏ ra hiệu quả trong những trường hợp như thế này. Nhưng trái với dự đoán của họ, kỵ đội không hề giảm tốc mà càng thúc ngựa tiến tới.

    Khi còn cách tuyến đầu của quân phòng thủ độ ba mươi bước, viên tướng chỉ huy mặc áo giáp bạc và đội mũ trụ sáng loáng giương cao lá cờ gấm có thêu quốc huy của Venice, lập tức,các hàng kị binh ờ tuyến tiền phong rào rào phóng những ngọn lao ngắn vào quân phòng thủ. Hiệu quả của trận mưa chết chóc ấy thật khủng khiếp, dồn từng khối lớn và cầm giáo bằng cả hai tay, quân phòng thủ hứng trọn đợt tấn công đầu tiên, hơn một trăm người ngã gục ở tuyến đầu làm đội hình của họ xáo động. Rồi tiếp đó, không ai còn có thể phân biệt đâu là bạn, đâu là thù khi lớp kị sĩ ở tuyến đầu đã xuyên phá được hàng rào giáo, lợi dụng ưu thế về thể lực và tốc độ giày nát hàng ngũ đối phương. Những lưỡi gươm,vung lên loang loáng, đâm xuyên qua ngực hoặc hớt gọn đầu những chiến binh xấu số khiến máu phun thành vòi, bắn vọt lên từ những thi thể cụt đầu vẫn chưa ngã xuống, thỉnh thoảng,một số đầu lâu bị lưỡi gươm hất tung lên vẫn còn chớp chớp mắt, ánh mắt chứa đầy sự ngạc nhiên, đau đớn hay căm hận.

    Từ bên kia bờ sông, Alecto vẫn nhìn thấy bóng viên tướng chỉ huy đang xông xáo giữa rừng tên đạn, bộ giáp khảm bạc đã móp méo nhiều chỗ nhưng tay ông vẫn nắm chặt ngọn cờ. Một tốp lính vệ binh miền nam lăn xả vào chặt đứt chân con chiến mã khiến ông bổ nhào xuống đất. Nhưng trước khi kẻ thù kịp ra tay kết liễu, ông đã đâm ngọn cờ xuyên qua cổ họng một tên rồi dùng cái xác đang giãy giụa lần cuối ấy đỡ lấy bốn thanh trường kiếm đồng loạt bổ tới. Lồm cồm đứng dậy khi kẻ thù còn đang cố rút gươm ra khỏi cơ thể đồng đội, trường kiếm trong tay ông vung lên không ngừng, cắt đứt cuống họng hai tên và hớt cả một phần vai lẫn cánh tay tên còn lại, những dây chằng bị chặt đứt lộ ra trắng đục lẫn với những mảnh xương vụn cùng tủy sống nơi vết thương.

    Nhân lúc ngài trung tướng phân tâm, tên còn lại đã đâm ngọn giáo xuyên qua lần giáp thép, mắc vào sườn ông. Chặt gãy cán giáo, Giosveni gầm lên như con mãnh thú bị thương rồi lia gươm chém phăng chân kẻ kia, một cú đá vào cổ ngay sau đó khiến gã mất mạng ngay tức khắc. Viên tướng bị thương nặng nhọc thở phì lao động đường phố khi dòng máu nóng không ngừng rỉ ra từ vết thương ngang sườn. Dồn hết sức lực, tay ông lại nắm chặt ngọn cờ và lao lên cao điểm nơi các lãnh chúa đang kinh hoảng nhìn quân đội của mình bị hoàng gia đè bẹp. Cạnh bên ông, biết bao quân tướng đã ngã xuống, những người có thể sống một cuộc đời dài lâu và sung túc trong các thái ấp trù phú ở miền bắc. Nhưng khi một người ngã xuống thì hai ba người khác lại tiến lên. Họ cuối cùng cũng chiếm lĩnh được quả đồi, Giosveni gầm lên đắc thắng và cắm ngọn cờ gấm lên giữa hành doanh của Talirus trong khi các đại lãnh chúa vội vã rút khỏi chiến trường hướng về phía bờ sông, mặt cúi gằm bỏ mặc đám quân tướng đang vô vọng chiến đấu .Một số tên chỉ huy miền nam trung thành giận dữ chém vào đám lính nông dân đang cúi người xin hàng, nhanh chóng bị đám này vật ra đất, người bị đâm nhiều nhát cho đến chết…

    Các trung đội kỵ binh hoàng gia đang hằm hè áp giải các tiểu đoàn địch dưới ánh chiều tà, đám lính bộ binh tản mác khắp nơi, cố kiếm chác thêm chút của cải từ những thây người bất động. Thỉnh thoảng, một vài con ngựa bị thương lại hí lên thảm thiết, cố gượng đứng dậy rồi đành bất lực thở phì lao động đường phố trên cánh đồng thấm đẫm máu của chính mình. Ánh mắt con vật cứ như đang than trách:” tại sao lại hành hạ tôi thế này, tôi có làm tình làm tội gì ai đâu”. Vài thiếu sinh quân trong đoàn kỵ binh bất nhẫn nhìn khung cảnh ấy, định bụng sẽ kết thúc nhanh tính mạng con vật để nó tránh được nỗi đau hấp hối, nhưng viên đội trưởng đứng tuổi đã vội ngăn lại. Trong ngày hôm ấy, máu đã đổ quá nhiều rồi… cả kẻ thắng, người thua… đều chết.
     
  6. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Castel Nuovo



    Tác giả: Machiavelli
    Cảnh báo: " Một phần của sự thật không phải là sự thật "
    Giới thiệu: Làm thế nào để kềm giữ mây trời, làm thế nào để mây hóa thành mưa... và hồi sinh mặt đất.



    Chương 1: " Phương đông"



    Cung điện không có hào bảo vệ nhưng tường thành cao hơn sáu mươi bộ và thấp thoáng những khẩu pháo đồng đen bóng loáng. Trên các tháp canh có vòm che, những lá cờ trăng lưỡi liềm bay phần phật trong gió.

    Don Blanco sải những bước dài theo viên thị thần người Ottoman qua cổng Bab-us-Selam, dù là người từng trải và nhiều lần tham gia chiến trận cùng phó vương Naples, ngài bá tước cũng không khỏi choáng ngợp trước quang cảnh hùng vĩ bày ra trước mắt, và ông thầm nghĩ: “ Lạy chúa, thật vô phước cho vị chỉ huy nào được lệnh tấn công vào đây, các phố nhỏ quanh co bên ngoài cung điện làm hạn chế tầm bắn của súng công thành, mà dù có giật sập các khu nhà để có chỗ bố trí trọng pháo thì phe bảo vệ cũng đáp trả mãnh liệt tương đương…”

    Trong lúc viên sứ thần mãi suy nghĩ, đoàn hộ vệ người Thổ đã vượt qua hàng cây bách cổ thụ đến một cổng chào thứ hai, tại đây lại diễn ra thủ tục kiểm tra giấy tờ long trọng khác, rồi viên sĩ quan ngự lâm trẻ tuổi có đôi mắt như trái hạnh đào lịch thiệp mời Don Blanco theo con đường lát đá tiến vào Divan Meydani, vườn ngự uyển của hoàng đế.

    Vi sứ giả người Tây Ban Nha nhìn quanh một lượt và được đáp lại bằng sự im lặng sâu lắng cùng vẻ đẹp lộng lẫy như vườn địa đàng nơi hạ giới. Các thị thần của hoàng đế mặc áo chùng lụa như lướt đi giữa các tán cây xanh ngắt, nhiều giống chim nhiệt đới nhàn hạ tỉa tót bộ lông sặc sỡ bên các đài phun bằng sa thạch. Ở châu Âu, người cơ đốc giáo luôn miệng nguyền rủa dân tộc này là đồ tà giáo ngoại đạo, nhưng hãy nhìn xem, họ sống tốt lắm chứ, có triều đình tây phương nào sánh được vẻ lộng lẫy vàng son của cung điện nơi đây. Nhưng tất cả những ý nghĩ êm đềm và lãng mạn của vị sứ thần đều đột ngột bay biến khi ông trông thấy bóng người áo trắng ngồi dưới tán cây tiêu huyền giữa vườn ngự uyển, và ông chợt hiểu sau những hàng giậu hay đài phun kia, rất nhiều cặp mắt đang chú ý quan sát mình. Không chờ được truyền kiến, Don Blanco chậm rãi bước tới, cúi chào và ngồi xếp bằng trên tấm thảm đặt đối diện với lão già áo trắng. Rồi ông ta thong thả nhìn lên.

    Mồ hôi vã ra trên trán ngài bá tước khi ông cố giữ cho cặp mắt xanh cứng rắn nhìn thẳng vào đôi mắt đã mờ đục và kéo màng của lão già áo trắng. Dường như tất cả vẻ huyền hoặc của đế chế mênh mông này đều tụ hội nơi con người gầy gò kia, sau một lúc, ông ta mỉm cười chào lại, không khí căng thẳng giữa hai người giảm xuống và Don Blanco nhẹ nhàng lấy khăn tay lau đi vầng trán giờ đã lấm tấm mồ hôi.

    Suleyman sáu mươi bảy tuổi, như mọi người ở độ tuổi ấy, ông cũng có thói xấu là luôn chộp lấy quyền kiểm soát trong mọi tình huống, khiến mọi người phải tuân phục mình và thẳng thừng cấm đoán tất cả những thứ gì được cho là đổi mới hay cấp tiến. Ngoài ra, ông khá cao nhưng xương xẩu, mũi hơi to, mắt xếch ngược, lông mày rậm, râu để dài ngang ngực, bạc nhiều hơn đen, ông ăn vận đơn giản, đầu chít khăn trắng, áo choàng cũng trắng nốt và thắt lưng đeo một con dao quắm lưỡi cong có chuôi nạm ngọc. Đại khái là cũng giống như mọi tên Thổ Nhĩ Kỳ khác theo cách nhìn của người châu Âu. Nhưng ông không phải tên Thổ Nhĩ Kỳ vu vơ nào, ông là tể tướng, nhiếp chính, thống đốc kho tàng. Và trước khi hoàng đế đến tuổi trưởng thành, Suleyman sẽ là người quyền lực nhất đế chế.

    Bấy giờ, quan tể tướng của chúng ta đang ngồi xếp bằng và từ tốn dùng trà, tiếng nước reo vui trong ấm kịp giúp ông kìm mình lại trước khi để lộ cơn thịnh nộ vì sự táo tợn của viên sứ thần Naples. Nhưng như thế, vô tình đã tạo cho gã ngoại quốc này vị thế ngang hàng với ông và chắc chắn hắn sẽ cảm thấy tự tin hơn khi đưa ra các điều khoản nghị hòa vốn không thể chấp nhận nổi.

    _ Hi vọng ông cảm thấy hài lòng trong khu vườn nhỏ của ta- Suleyman mở lời trước, cảm thấy chán ngán và vô vị khi cứ phải đẩy lùi những chủ đề quan trọng hơn mà làm nhàm tán mãi chuyện quang cảnh hay thời tiết.

    _Được bệ kiến đức ông giữa vườn địa đàng hạ giới này là vinh dự của tôi- Don Blanco từ tốn đáp, cảm thấy tự tin vì sự nhũn nhặn bất thường của tể tướng Thổ, ông thầm đánh giá sẽ gút lại những điều khoản cuối cùng của hòa ước, với mức nhượng bộ nào thì người Thổ sẽ chấp nhận? Có nên đòi hỏi các pháo đài ở tả ngạn Danube không? Có nên đòi họ triệt thoái các trung đoàn Turkoman khỏi Montegnero? Rồi còn một thỏa ước thương mại giữa Naples với Istanbul, điều này thì mang tính riêng tư nhiều hơn.

    _Hôm nay ta không thấy cậu thư kí trẻ tuổi thường theo sát gót ông?- Suleyman hỏi với một thoáng ưu tư.

    _Ý đức ông là tử tước Flavio?

    _Chắc là vậy, khi đến tuổi ta, ông sẽ thấy việc ghi nhớ đòi hỏi nhiều tâm sức hơn bây giờ.

    _Đức ông vẫn luôn minh mẫn sáng suốt và sẽ mãi là như thế, về phần tử tước Flavio, tôi đã lệnh cho cậu ta thông báo với thuyền trưởng Nelson chuẩn bị sẵn sàng để nhổ neo.

    _Lòng hiếu khách của ta còn chưa đủ sao, Don Blanco?- Suleyman khẽ nhíu mày, lòng thầm lo lắng, nếu vụ hòa giải qua trung gian Naples này thất bại thì trừ khi người Thổ hay người Tây Ban Nha giành thắng lợi hoàn toàn, sẽ không có đoàn sứ thần nào nữa.

    _Chưa bao giờ tôi được đón tiếp nồng hậu hơn thưa đức ông, nhưng thời gian không chờ đợi ta.

    _Ông có nhiều thời gian hơn ta.

    _Cả hai chúng ta có nhiều thời gian hơn hầu hết các trung đoàn đang hành quân đến các pháo đài trên đất Hungary. Liệu có bao nhiêu người sẽ qua được mùa thu này?

    _Điều đó tùy thuộc vào… thiện ý và lòng thành thực của vị hoàng đế đang trị vì ở Vienna- Suleyman chậm rãi đáp. Ban đầu ông định nói:” tùy thuộc vào đấng Allah quang vinh, nhưng thật chẳng khôn ngoan tí nào khi lại cuốn cả hai vào một cuộc tranh luận về thần học vì đối thủ của ông hẳn sẽ đáp là:” đức ông muốn nói là tùy thuộc vào chúa?”

    _Cả hoàng đế Áo, đức vua Tây Ban Nha và hoàng thân Naples đều đầy thiện ý và lòng thành, mọi người chỉ mong đức ông cũng sẽ đáp lại như thế.

    _À …à…ông cũng biết là tại Napoli và Madrid, cánh nhà báo đang chửi bới ta hàng ngày, “tên mọi rợ mưu đồ chống lại ý chúa”, chà…họ gọi ta như thế đấy-Suleyman lại đáp, tuy lời lẽ có hơi gay gắt nhưng ánh mắt hóm hỉnh cho thấy ông chỉ xem đó như một trò trẻ con vô hại.

    _Xin quan tể tướng đừng quá bận lòng về những chuyện báo chí viết, họ chửi tất tần tật các ông hoàng bà chúa ở khắp châu Âu. Ngay cả đức hoàng thượng nước tôi cũng không yên với họ. Họ kêu gào đòi dân chủ, mà như ngài biết đấy, nhà vua thì không ưa dân chủ ở cấp trung ương.

    _Ta ngỡ hoàng thân mới là chủ nhân trực tiếp của ông- Suleyman đáp trả với vẻ mỉa mai không nhầm lẫn được. Suốt nhiều năm qua, sự chia rẽ trong thế giới cơ đốc luôn là đề tài đàm tiếu của người Ottoman. Ngay cả nhà vua Tây Ban Nha dù được cho là hùng mạnh nhất tây Âu, cũng chỉ kiểm soát một số tỉnh ở trung tâm đế quốc, các xứ ngoại vi như Aragon và Flander lại do hội đồng địa phương cai trị. Từ khi Bồ Đào Nha, các nước cộng hòa tây bắc Italy và vương quốc Naples trở thành một bộ phận của đế quốc, mâu thuẫn và thù hận lại chất chồng theo năm tháng.

    _Và hoàng thân nhận lệnh từ đức vua Philip đệ tam.- Don Blanco nhã nhặn đáp.

    _Để thu xếp những cuộc tọa đàm kéo dài, nhằm giảm áp lực chiến tranh ở hữu ngạn dòng Danube và các tranh chấp trên Địa Trung Hải?

    _Như đức ông biết đấy, sự có mặt của tôi ở đây, lúc này, không hoàn toàn mang tính chính thức. Tôi không dám mạo muội tự nhận thiển ý của mình là lời truyền phán của đức vua hay hoàng thân, tôi chỉ là tai, là mắt của người.

    _Nghĩa là những gì ông hứa hẹn hoặc kí kết, đều không có giá trị pháp lý?- Suleyman không kìm được vẻ thất vọng, sự thật thì đại tể tướng đang nóng lòng kết thúc chiến dịch dai dẳng chống lại liên minh Tây Ban Nha và dòng họ Habsburg mà cố vương Thổ Nhĩ Kỳ đã theo đuổi suốt mười hai năm cuối đời. Ngân khố bị chiến tranh làm cho suy kiệt và nạn tiền giả từ Venice đang nhấn chìm Istanbul trong cơn lũ lạm phát.

    _Không hoàn toàn là như thế, thưa đức ông, nhưng nếu chúng ta đạt được những thỏa thuận hợp lí, thì qua trung gian là hoàng thân, chắc chắc bản hiệp ước sẽ được triều đình tại Madrid và Vienna thông qua.

    _Ta sẽ xem xét lời đề nghị của ông… nhưng như thế, có lẽ ông nên thông báo cho viên thuyền trưởng Ireland đình chỉ việc khởi hành.

    _Sự thật thì Flavio mới cần đón chuyến tàu ấy, bản thân tôi chỉ rời khỏi Istanbul khi chúng ta đi đến một sự thống nhất chung.

    Suleyman thoáng sửng sốt, không rõ là nên giận hay buồn cười vì đã từng này tuổi mà còn mắc phải trò lừa cỏn con như thế, ông vỗ tay ba lần và sau những gốc cổ thụ trong vườn có tiếng bước chân dần tản ra xa, rồi họ nói rất nhiều và rất lâu, mãi đến khi hoàng hôn phủ xuống thành Istanbul cổ kính.

    Khi viên sứ thần rời đi theo lối y đã vào, những gì còn lại trong đầu Suleyman là:

    Thứ nhất, điều khoản nhượng lại các pháo đài Eger và Veszpem là không chấp nhận được trừ khi có một món bồi hoàn trên một trăm ngàn ducat. Ngược lại, việc nhận được sự nhượng bộ xứ Montegnero lại nằm ngoài mong đợi.

    Thứ hai, các bên chính thức mở cửa cảng biển, trước hết tại Istanbul, Alexandria và Napoli cho những tàu mang cờ trung lập. Điều khoản này thì tể tướng biết tỏng là do hoàng thân xứ Naples đặt ra, vụ mùa thất bát năm rồi khiến vương quốc ấy phụ thuộc vào nguồn cung lúa mì từ Ai Cập và Nga.

    Thứ ba, nối lại tuyến đường hành hương của các tín đồ cơ đốc tới Jerusalem, đổi lại, hoàng thân đảm bảo các hiệp sĩ Malta sẽ thôi quấy phá các thương thuyền Thổ Nhĩ Kỳ ngoài khơi Hy Lạp.

    Thứ tư, nếu viên sứ thần nói thật, nếu món tiền một triệu ducat đã được chuyển đến Moskow và nếu Sa hoàng đang ngầm động viên bọn vô lại Cozak… khi xắp xếp các sự kiện ấy và đặt vào một chữ nếu to hơn và nguy hiểm hơn, chuyện gì sẽ xảy ra nếu người Nga tiến công vùng Crimea, vốn là một thuộc địa của đế quốc Ottoman?

    Ngoài ra, còn một chuyện bên lề nhưng cũng đáng quan tâm là vì sao gã thiếu niên tên Flavio gì ấy lại vội vã rời khỏi Istanbul? Và theo những gì các gián điệp của ông ghi nhận, món hàng chết chóc gã đặt làm tại Istanbul là chuẩn bị cho kẻ xấu số nào?
     
  7. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Chương 2: Chút mơ màng trên biển




    Ánh chiều tà lan ra rất nhanh, tưởng như bao phủ khắp cùng trời cuối đất, nhuốm nước vùng cửa sông Halic trong màu đỏ máu, những cánh buồm khổng lồ của chiếc Neptune được kéo lên, căng phồng trong gió, thân tàu nghiêng về một bên, lướt nhanh trên mặt nước lấp lánh ánh sáng.

    Thuyền trưởng Nelson đứng tựa mình vào cột buồm chính, khoan khoái tận hưởng cảm giác ra khơi sau bao ngày tù túng buồn nản, dù anh vẫn có chút luyến tiếc khi ngắm nhìn lần cuối quang cảnh thành Istanbul, bức tường thành cũ kĩ chuyển màu đồng dưới ánh hoàng hôn, nhà thờ nữ thánh Sophia bằng sa thạch giờ đã thành một đền thờ hồi giáo, các con phố nhỏ uốn lượn quanh co, những dinh thự bề thế trông ra biển…xa xa văng vẳng tiếng cầu kinh buổi tối, tiếng trẻ con khóc và lũ chó nhặng xị chạy rong khắp các phố.

    Thời thơ ấu của Nelson không biết nghèo đói, cuộc sống trung lưu với người bố là hoa tiêu cho công ty thương mại đường biển London- Babari, người mẹ dạy nhạc cùng đứa em gái được cưng chiều, gia nhân trung thành, thảm trải khắp phòng và rèm cửa sa-tanh. Dù hằng ngày vẫn có vô số kẻ ăn mày chết cóng, lũ chó tranh nhau thức ăn, đám trộm cướp hăm dọa khách bộ hành. Nghèo đói là thứ gì đó xa vời… ở bên rìa một thế giới được trí óc non nớt của cậu bé mạ lên lớp nhũ vàng chói lọi của những con thuyền huyền thoại và các cuộc chiến trên biển. Kí ức đó đeo đuổi Nelson trong suốt phần đời còn lại, nhưng cả Dublin lẫn London giờ đã khác xưa quá nhiều, chỉ những thành phố cổ kính như Istanbul mới phảng phất chút phong vị thời thơ ấu, những giấc mơ sống động về các vương quốc xa xôi

    Dòng hồi tưởng êm đềm đột ngột vỡ tan khi anh thoáng thấy những bóng nâu mờ mờ trong quân cảng của hoàng gia Thổ Nhĩ Kỳ, hàng chục chiến thuyền gale đậu san sát trong khu cảng có tháp canh và pháo đài bảo vệ. Trông qua ống viễn kinh, có thể nhận ra ba mươi bộ mái chèo xếp cẩn thận hai bên thân tàu, sẵn sàng lên đường tức khắc.

    ‘Đây không chỉ là lực lượng phòng thủ bờ biển mà là cả một đạo quân’- Nelson kinh hãi nghĩ. Lần cuối cùng anh trông thấy những con sâu biển khổng lồ này là từ hai năm trước, một hạm đội ba tàu ngoài khơi Moroco, chúng không thể vượt đại dương và thật khó tin là người Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tiếp tục hạ thủy loại tàu này sau thất bại kinh hoàng trong trận Lepanto.

    ‘ Với chiếc Neptune, mình có thể đánh đắm ba hoặc bốn tàu thế này mà không chịu tổn hại gì mấy… nếu như trời có gió, còn không? Thì sẽ lại như eo Otranto nữa’- Nelson cay đắng nghĩ.

    Từ khi được chứng nhận là hoa tiêu, anh thường đi theo các chiến thuyền Anh quốc dọc theo tuyến đường từ Lisbon đến mũi Hão Vọng để chặn đánh các thương thuyền Bồ Đào Nha trở về từ Goa và các đảo gia vị phương đông. Thỉnh thoảng, họ cũng bị hạm đội Tây Ban Nha truy đuổi, và đã ba lần suýt bị nhận chìm. Nhưng các chuyến đi này làm lợi cho anh nhiều đến mức chẳng bao lâu sau, Nelson đã sắm riêng cho mình một thương thuyền ba trăm tấn, chuyên chở lúa mì theo tuyến Venice – Alexandria.

    Các mối quan hệ nảy nở với thương nhân Venice giúp anh được phụ trách một chuyến tàu chở vải vóc và hương liệu từ Ai Cập về Venice – mối làm ăn đem lại lợi nhuận khổng lồ . Nhưng lần ấy thượng đế đã bỏ rơi đoàn thủy thủ Anh, vào một ngày trời lặng gió trên eo Otranto, hai tàu gale Thổ Nhĩ Kỳ cố áp sát họ. Mọi người vừa tháo chạy vừa bắn trả nhưng vẫn bị bắt kịp.

    Bản thân Nelson không bao giờ quên tiếng hét: “ Al lahhh!” đồng loạt khi bọn cướp biển đổ bộ lên chiếc thương thuyền, chúng được vũ trang bằng rìu và gươm lưỡi cong. Các thủy thủ bắn trả bằng súng hỏa mai, đẩy lùi đợt tiến công thứ nhất nhưng hàng trăm tên khác lại đổ tới từ chiếc thuyền cướp biển còn lại. Mọi người quyết định thà chết còn hơn bị rao bán ở các chợ nô lệ phương đông. Họ đặt dây cháy chậm vào kho thuốc súng rồi vừa chiến đấu vừa rút xuống xuồng đổ bộ.

    Vụ nổ sau đó đánh đắm cả ba chiếc thuyền, hàng trăm người ồ ạt nhảy xuống nước khi chiếc tàu buôn bùng lên thành một quả cầu lửa chết chóc. Đoàn thủy thủ người Anh cố cứu được càng nhiều người phe mình càng tốt. Nhưng khi thủy thủ địch bơi đến gần, chúng bị đập chết bằng mái chèo, những ngón tay bám vào mạn xuồng bị đoản kiếm hay rìu chặt đứt. Hai giờ sau, những người sống sót cập vào bờ biển xứ Naples – hồi ấy còn đang cấm vận tàu thuyền Anh quốc theo các sắc lệnh của nhà vua Tây Ban Nha – mệt nhoài, tả tơi, không một xu dính túi và đang ở trên lãnh thổ thù địch…

    _Nếu senhõ có một hạm đội mười chiến hạm ba cột buồm như chiếc Neptune, liệu có cơ may nào đánh bại hạm đội hùng hậu của đế quốc này không?

    Không cần quay người lại, Nelson cũng nhận ra giọng nói lơ lớ, chêm lẫn tiếng Tây Ban Nha với phương ngữ Naples của tử tước Flavio. Anh trả lời đơn giản là: “ chắc chắn “ vừa kịp trông thấy nét nghi ngờ trong đôi mắt xanh biếc khi quay người đứng đối diện với tử tước. Năm năm trước, khi Nelson được áp giải đến phủ đệ của hoàng thân, cậu bé Flavio hãy còn sợ sệt đứng nhìn anh từ xa như đang xem một con vật lạ. Nhưng ngày nay cậu đã ra dáng một nhà quý tộc. Theo tiêu chuẩn của các gia đình quyền quý phương nam, trưởng thành là phải nghe và hiểu thật nhiều, tiếp nhận bí mật, lưu giữ bí mật, sử dụng bí mật, nhưng tuyệt đối không tiết lộ bí mật.

    _Tôi ngạc nhiên vì Don Blanco không về cùng chúng ta.- Nelson thử gợi chuyện, anh vốn có cảm tình với chàng trai này, trong suốt chuyến hải hành từ Napoli đến Istanbul, ngoài những lúc phụ giúp Don Blanco chuẩn bị, thu xếp tài liệu, cậu thường đi lại khắp tàu, hỏi rất nhiều và tỏ vẻ say mê đặc biệt với ngành hàng hải, háo hức như một đứa trẻ khi tìm hiểu cách sử dụng la bàn và kính lục phân.

    _Đức ông Jerico còn vài điều khoản cần thu xếp với tể tướng Ottoman, nhưng hai bên gần như đã đi đến sự thống nhất chung, có lẽ vì vậy mà người không cần đến sự phục vụ của tôi nữa- Flavio làm ra vẻ bị tổn thương, dù thật ra cậu xem đó là một ân huệ lớn, tự do hoàn toàn trong chuyến trở về, không phải lo sợ bị nghe lén hay đề phòng đám ngoại đạo cứ dõi theo cậu với ánh mắt thèm muốn.

    _Tôi nhớ hồi đầu mùa hạ, Don Blanco cũng nói hệt thế, và tình hình vẫn không tiến triển đến tận cuối thu- Nelson cáu kỉnh đáp, thói đa nghi của người Ottoman làm anh phát bực, dù đã cảm thấy hài lòng với một bản hiệp ước, họ vẫn cố kéo dài để chắc chắn là mình không bị lừa. Ngòai điểm đó, một ấn tượng xấu khác đến từ việc đám vô đạo này công nhiên chấp nhận các mối quan hệ lâu dài và phi đạo đức giữa những người đàn ông đã lập gia đình và các cậu thiếu niên học việc xinh xắn.

    ‘ Nhưng chẳng phải nhiều người trên tàu của ngươi cũng mắc phải tội phạm thánh ấy? Vậy thì khác biệt là ở điểm nào? Cố gắng biện minh những trò kê gian ấy là do bị tách khỏi đất liền và phụ nữ suốt nhiều tháng trời ư? Và chính ngươi nữa, khi đứng trước thằng bé này, có thật là ngươi chỉ nghĩ đến tình bạn và mong muốn được bảo vệ nó? Nếu…’ Nelson thoáng đỏ mặt với ý nghĩ mới mẻ chợt đến và cầu chúa tránh cho mình phạm phải tội lỗi ấy, lòng thầm nhủ sẽ nhắc nhở Flavio đừng quá gần gũi với đám pháo thủ và lính chiến, khi một gã thủy thủ say xỉn thì chỉ chúa mới biết hắn dám tiến xa đến mức nào…

    Flavio tiếp tục nói khi vuốt mớ tóc vàng bị gió biển làm rối sang bên trán, tỏ vẻ đồng tình với nỗi bực dọc của viên thuyền trưởng, nhưng cậu tránh đề cập sâu hơn đến mục đích hoặc thành tựu của cuộc thương thuyết. Và có thể Nelson không để ý nhưng sau một lúc, chủ đề câu chuyện đã chuyển sang những chuyện vô thưởng vô phạt, các cuộc chiến trên biển hay những tên cướp nổi tiếng, những phong tục kì lạ ở miền tây Ấn… các chủ đề như thế có vẻ tầm thường, tẻ nhạt với một tay sói biển lão luyện, nhưng lại rất có giá trị nơi các phòng khách sang trọng ở Napoli.

    Trong lúc trả lời nhiều câu hỏi của cậu tử tước, Nelson thoáng cảm thấy bất nhẫn, dù có tò mò hay háo hức đến đâu chăng nữa nhưng Flavio không thuộc mẫu người có thể dành trọn cuộc đời cho đại dương. Cậu ta rất sợ cô đơn và buồn tẻ, hai anh bạn vong niên với đời thủy thủ. Và theo những gì anh thấy ở Naples, chẳng phải ngài phó vương rất yêu quý tử tước sao? Vậy thì hà cớ gì lại tự làm khổ mình khi tách đứa trẻ ấy xa khỏi vòng tay bảo vệ của gia đình, vượt ngoài tầm mắt của mình? Ngài làm vậy là nhằm giúp tử tước thực sự trưởng thành… hay chỉ để xua tan những lời đồn thổi chướng tai về sự thân mật quá mức giữa họ? Rồi còn cuộc khủng hoảng mà anh chỉ loáng thoáng nghe qua…

    Một cậu thủy thủ học việc loạng choạng đánh đổ nước và xà phòng ra boong chính, cắt ngang câu chuyện giữa hai người. Lẽ ra phải phạt cậu ta trực thêm ca nữa, nhưng Nelson vờ như không thấy, lần đầu ra khơi thì ai cũng dại dột như nhau cả, bị cô lập với cả thế giới, tách khỏi gia đình, bè bạn và không chắc mình có trở về được nữa chăng… Nelson rùng mình nhớ lại chuyến hải hành đầu tiên của mình, khi đôi tay vấy máu người khác, rồi sự trừng phạt của chúa đến rất nhanh sau đó, cái chết của người cha, cảnh gia đình sa sút…Những kí ức đó khiến anh mệt mỏi và cảm thấy cần được ở một mình, anh giao lại quyền điều khiển cho viên hoa tiêu người Ý rồi hướng về cabin riêng. Một ngày nào đó, khi đã có tuổi và đủ giàu có, anh sẽ lên bờ, cưới một cô vợ, tận mắt nhìn các con mình lớn lên, và cuối cùng… không bao giờ cho phép chúng ra biển.
     
  8. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Chiếc chiến thuyền lướt đi trên những ngọn sóng vô hình trong chiều tối. Istanbul, một thành phố thật đẹp, cổ kính và thần thánh chỉ còn là những vệt sáng nhợt nhạt nơi chân trời, mỗi lúc một xa xăm. Flavio lơ đãng đi về phía mũi tàu, đàn cá heo tung tăng rẽ sóng phía trước chiếc Neptune thu hút sự chú ý của cậu được một lúc, nhưng giữa cảnh biển bao la, chút niềm vui nhỏ bé ấy cũng chẳng kéo dài. Flavio còn rất trẻ, quá trẻ để tự bảo vệ mình khỏi nỗi buồn và cảnh cô đơn, cậu chưa có đủ nghị lực hay tính kiên nhẫn để suốt ngày ẩn vào mê lộ các lời hứa hẹn nửa vời và lối thương thuyết nhùng nhằng của Don Blanco, cũng chưa gặp phải nhiều sóng gió và bội phản để trở nên đa nghi như ngài phó vương. Trước chuyến viễn du đến Istanbul, thế giới của cậu chỉ gói gọn trong các phòng khách sang trọng ở thành phố Napoli hay những tối được vinh dự tháp tùng hoàng thân dự các buổi tiếp tân với xứ thần Tây Ban Nha. Nhưng mỗi đứa trẻ đều cần phải lớn lên và cậu buộc phải rời xa gia đình tới xứ sở phương đông kì lạ này. Đó cũng là cái giá phải trả khi Flavio thử một lần được làm chủ cuộc đời mình
    .
    “ Điện hạ hết sức tức giận, người phạt roi tên xà ích vì không chuẩn bị ngựa xe sẵn sàng để đến phủ đệ của hoàng thân. Rồi cho rằng nếu mình thân hành đến đó sẽ là dấu hiệu của sự nhượng bộ, đức ngài viết ngay tờ lệnh yêu cầu hoàng thân đến diện kiến ở lâu đài Nuovo, nhưng dĩ nhiên hoàng thân lại tìm cách lẩn tránh cho đến khi cơn giận của cha ruột qua đi và chỉ đến Nuovo với toàn bộ nội các, rồi…”- Flavio nhớ lại giọng nói lo lắng của người anh cả Renato khi vừa về đến nhà. Cậu không hiểu nổi sao một quyết định đơn giản của mình lại làm phát sinh nhiều rắc rối đến vậy?

    Theo lời Renato, ngài phó vương thật sự bị tổn thương khi Flavio từ chối hàm thiếu tá cận vệ quân và cho rằng chính hoàng thân là người phải chịu trách nhiệm về quyết định nông nổi ấy. Sự vụ chỉ tạm lắng khi cậu tử tước được chỉ định làm thư ký riêng cho Don Blanco trong chuyến thương thuyết với người Ottoman. “ Dẫu sao thì đó cũng là một cách an toàn để tiến thân “- hoàng thân đã an ủi cha cậu như thế, và Flavio mơ hồ nhận ra một nụ cười hài lòng trên gương mặt đức ngài. Nhưng rốt cuộc, danh vị sứ thần không nhẹ nhàng như cậu tưởng tượng.

    “ Tất cả là vì tương lai của con “- cha cậu đã nói thế khi tiễn chân đứa con thứ lên tàu hồi sáu tháng trước, trước đó, cả hoàng thân lẫn anh trai cậu cũng nói những điều tương tự vậy, đến mức chính cậu cũng tin là thật và đã ra khơi với lòng nhiệt huyết và hăng hái đặc thù của tuổi trẻ. Thế rồi hết các cuộc đàm phán công khai đến những buổi thương thuyết bí mật và Flavio tưởng như mình bị bỏ rơi. Nếu thiếu đi những buổi chuyện trò thú vị với Nelson hay nhiệm vụ nho nhỏ của hoàng thân luôn khiến cậu tất bật ngang dọc khắp thành Istanbul thì có lẽ cậu đã chết vì buồn. Nơi đây, ngay cả các vì sao cũng có vẻ lạ lẫm, gió mang đến vị biển rất riêng và đâu đâu cũng toàn những gương mặt xa lạ.

    Suốt mùa hạ, ngoài những lúc tháp tùng Don Blanco trong các cuộc thương thuyết rắc rối, Flavio dành phần lớn thời gian để tìm ra các nhà tiểu họa và thư pháp bậc thầy lẩn khuất trong những phố nhỏ ồn ào của Istanbul. Thật cũng chẳng dễ dàng gì, khi triều đại hoàng đế Murad III kết thúc, nền hội họa Thổ Nhĩ Kỳ trượt dài xuống một vực thẳm vô cùng. Các họa sư dần từ bỏ phong cách cũ để học theo luật phối cảnh của người Venice hoặc chuyển sang trang trí thảm và đồ gốm. Những bản thảo theo lối truyền thống bị hắt hủi, và mối mọt, hỏa hoạn, nạn cướp bóc càng đẩy nhanh sự lãng quên.
    Dù hết sức cố gắng, Flavio chỉ tìm thấy năm thợ cả tiếp tục minh họa theo phong cách cũ, một người đã mù và chìm vào cuộc sống nửa lú lẫn, nửa thần thánh. Lúc đó cậu cảm thấy thất vọng ghê gớm, tự hỏi sao hoàng thân lại nảy ra ý định sưu tầm các họa phẩm và thư pháp theo phong cách Ottoman khi người đã có hàng trăm tấm tranh của những bậc thầy Venice. Và… cầu chúa tha tội, cậu ngờ là điện hạ làm thế chỉ để thỏa tính xa hoa chứ bản thân người hoàn toàn mờ mịt với nền hội họa và thư pháp của đế quốc phương đông này.

    Theo lời khuyên của đức ông Jerico, thay vì trả công cho các nhà tiểu họa để đổi lấy những tấm tranh đuợc hoàn tất gấp rút, cẩu thả. Flavio nhờ họ thẩm định các tác phẩm được lũ lái buôn Istanbul hay các gia đình quý tộc sa sút mang đến. Đa phần là vô giá trị hoặc giả mạo nhưng cũng có nhiều tuyệt tác vô song: những họa bản cổ có diềm trang trí bằng vàng, một tập tranh làm các nhà tiểu họa thổn thức khi nhận ra bút tích của bậc thầy vĩ đại Bihzad hay các bản thư pháp rất đẹp theo lối viết chân phương hoặc hình học Kufic, và lối viết lượn tròn như sóng cuộn Naskhi. Cả những kiểu thư pháp và trang trí đặc biệt đẹp được dành để chép kinh Koran.

    Tuy không mấy am hiểu nền văn hóa của người Thổ, thông qua các tấm tranh, Flavio nhận thấy nhiều truyền thuyết của dân tộc phương đông này lại rất gần gũi với thế giới của người Tây Âu. Họ cũng tin vào thượng đế và Satan cùng ông tổ Abraham... Trong một tập bản thảo có minh họa một truyện cổ: để thử thách đức tin của Abraham, thượng đế ra lệnh cho ông hiến tế con trai đầu lòng Ishmael để đổi lấy sự ban phúc của người. Trong tranh, hình ảnh Ishmael được thể hiện là một thiếu niên có nước da mịn như cánh hồng, mắt hạnh nhân và đôi mày thanh tú hơi chau lại để thể hiện vẻ kiên định. Quỷ Satan cũng xuất hiện ba lần dưới những hình dạng khác nhau để lung lạc đức tin của Ishmael, xúi bẩy chàng khước từ yêu cầu của cha. Câu chuyện kết thúc có hậu khi thượng đế tỏ lòng thương xót, ngài cử thiên thần mang đến một con cừu để làm lễ hiến sinh và ban phước cho họ có nhiều con cái. Nhưng tấm tranh tiếp theo lại tả cảnh Ishmael bị xua đuổi khỏi gia đình do lòng đố kị của Sarah –vợ cả của Abraham- rồi chàng lập nên một vương quốc hùng mạnh, trở thành tổ tiên của người Hồi giáo trong khi đứa em trai là Isaac sinh ra Jacob cùng Esau, hai ông tổ của người Do Thái và Palestines, các mối bất hòa ngày một lớn đến khi tình cốt nhục không cản nổi lòng thù hận. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, tất cả trẻ con của người Hồi giáo và người tây Âu đều được dạy phải căm thù và tiêu diệt lẫn nhau. Ngay cả cha Flavio cũng nhắc đi nhắc lại rằng:” Một tên Thổ Nhĩ Kỳ tốt tức là hắn đã chết.”

    Trong lòng Flavio gợn lên những mảnh kí ức nhạt nhòa thuở bé, cứ mỗi lần cha và anh trai cậu tham gia cùng ngài phó vương trong các chiến dịch mùa hè ở Sicily hay giao chiến với người Ottoman ngoài biển Hy Lạp, người mẹ và đứa con nhỏ lại lánh đến cung điện của công nương. Hai chị em run rẩy cầu nguyện và an ủi nhau trong nước mắt. Thái độ của họ làm Flavio cảm thấy hoang mang, không hiểu mình đã làm gì sai để mẹ buồn như vậy? Những năm sau này, khi hiểu ra mọi sự, cậu chán ghét chiến tranh kinh khủng và chấp nhận một chân thư ký trong bộ của hoàng thân chứ không theo binh nghiệp như dự định của gia đình. Dĩ nhiên, đó cũng là nguyên nhân kích động cơn giận của ngài phó vương.

    Tạm gác lại những thủ đoạn trong ngành ngoại giao lẫn các rắc rối gia đình, vẫn còn một chuyện khó chịu khác làm cậu xao động… về yêu cầu thứ hai của hoàng thân, làm tiêu tốn hơn tám trăm đồng tiền vàng và khiến cậu hết sức bối rối. Điều đó trái với cả giáo luật của người Ottoman lẫn người tây Âu. Nhưng vàng có sức thuyết phục hết sức thần kì và trông vào sắc mặt các họa sư Ottoman khi họ ngượng ngùng, tức giận giao cho cậu hiếc hộp gỗ, Flavio tin chắc họ sẽ chẳng bao giờ muốn gặp lại cậu nữa, thế là tốt cho cả hai? Tất nhiên là tốt cho cả hoàng thân nữa. Và dù cho kẻ nào nhận được món quà này, hắn sẽ có những giây phút tuyệt vời trước khi chết.
     
  9. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    “ Đại dương thì xanh, hoàn hảo và trống rỗng, đến một lúc nào đó, nó nuốt chửng mọi biên giới. Để điện hạ dễ hình dung, cứ như có một trận lũ quét qua thành phố và mọi con đường chìm trong nước. Ta phải dựa vào la bàn, hải đồ và cả đức tin, đối mặt với muôn vàn nỗi sợ, lạc đường, bão tố hay thủy thủ nổi loạn”- Nelson nói một hơi dài, không ai ngắt lời anh mà cũng không ai tỏ thái độ gì. Anh buộc phải phủ phục trước kẻ thống trị của một vương quốc thù địch, cố chuộc lại mạng sống cho bản thân và các thủy thủ. Rồi cậu bé tóc vàng nấp sau chiếc ghế tựa khẽ cười trước dáng vẻ hốt hoảng của viên thuyền trưởng và ánh mắt hoàng thân theo đó mà dịu lại. Mãi sau này, Nelson vẫn có ấn tượng rằng nhờ nụ cười của cậu mà anh còn sống.

    Trời tối rồi trời lại sáng, và thời gian cứ thế trôi đi…

    Ngọn đèn treo trên trần lắc lư theo từng nhịp sóng, ván thuyền kẽo kẹt rên rĩ. Có tiếng chuông báo đổi phiên gác và tiếng gõ nhẹ ý nhị lên cửa cabin. Dù không hề muốn, anh vẫn phải trở dậy. Vết thương ở tay anh nhói lên, thậm chí viên thuyền trưởng còn không nhớ nổi đây là lần thứ mấy mình bị thương, mà dường như, lần sau bao giờ cũng đến nhanh hơn.

    Một con mèo có thể bằng lòng với chín mạng sống, nhưng bất kì hoa tiêu hay thuyền trưởng nào, chỉ tạm thỏa mãn với sinh mạng thứ mười, mà thế vẫn còn chưa đủ, không bao giờ đủ cả! Trớ trêu là dù các hoa tiêu kinh hãi việc chết trên biển, nhưng rất hiếm người nghĩ đến chuyện sống an phận trên bờ. Đa phần họ nợ như chúa chổm, tiền bạc kiếm được bị vung phí cho đám gái nhà thổ và sòng bạc. Vậy nên từ bỏ biển cả nghĩa là chết mòn trong nghèo đói.

    ‘ Điều đó sẽ không bao giờ xảy đến với mình.’- viên thuyền trưởng tự trấn an, sau khi quy phục hoàng thân hồi năm năm trước, anh đã nhanh chóng khiến y mắc nợ mình một mạng sống. Vụ mưu sát bất thành năm đó từng khiến những kẻ chủ mưu gánh chịu một làn sóng trả thù khủng khiếp từ phía hoàng thân, nhưng cánh cửa hạnh vận của Nelson cũng mở ra từ dịp ấy. Với mức độ ân sủng mới mẻ mà anh được hưởng, những lời góp ý dạo trước, từ chỗ : “ sẽ được lưu ý xem xét “, đã tiến một bước dài đến:” cần bao nhiêu vàng để kế hoạch này được thực hiện”…

    Viên hoa tiêu Poldi có đôi mắt hõm sâu gượng gạo chào Nelson khi anh vừa bước lên boong. Nhìn ông ta, dù không nói ra nhưng anh hiểu ánh sáng trong cuộc đời ông đã tắt. Sự từng trải, kinh nghiệm nhiều năm trời vốn tạo cho viên hoa tiêu lớp vỏ tinh thần vững chãi nay đã không thấy đâu nữa. Poldi mà anh đang thấy chỉ là bóng ma dật dờ của một Poldi khác, người anh từng rất tôn trọng.

    Tối qua, khi hai thủy thủ xốc viên hoa tiêu say khướt vào cabin của anh, Nelson suýt nữa đã không nhận ra ông ta. Một người vốn luôn chỉn chu và cứng rắn giờ chẳng khác nào một gã bợm rượu hạng bét. Ông ta la hét và nguyền rủa mọi người, đôi mắt đỏ ngầu và tay chân run rẩy mà cứ luôn miệng đòi rượu. Thái độ vô trách nhiệm ấy làm viên thuyền trưởng phát bực, không phải anh vô cảm hay độc tài, nhưng than khóc cho một chuyện đã rồi, mà lại làm phiền mọi người như thế thì thật là ngốc. Và thử nghĩ xem sau chuyện này, đám thủy thủ có còn tôn trọng ông ta nữa thôi. Kỉ luật, nghị lực và sự tôn trọng là những thứ phải luôn tồn tại trên một con tàu, hay ít nhất là trên tàu của anh, bất kể cái giá phải trả là gì đi nữa.

    “Thật sự, tôi không biết nói sao với mẹ thằng bé, cha nó -tức là con trai tôi- cũng là hoa tiêu và hiểu những bất trắc trong nghề thủy thủ, nhưng con dâu tôi… Thậm chí tôi còn không đưa xác đứa nhỏ về, giờ này có lẽ lũ cá đang rỉa thịt thằng bé. “

    Phải mất một lúc lâu, vừa xoa dịu vừa dọa nạt, anh mới tạm làm viên hoa tiêu bình tĩnh lại. Sau đó ông ta bắt đầu khóc như một mụ đàn bà và cứ kể mãi chuyện đứa cháu kém may mắn thế nào, về những dự định giờ sẽ không bao giờ thực hiện được nữa. Đại khái như: “Tôi nhớ hồi tuần trước nó còn hồ hởi đưa tôi xem mấy vỏ ốc biển lúc chúng ta cập vào đảo Crete. Tôi mắng nó, bảo nó bỏ những của vô dụng ấy lại. Ôi! Sao tôi có thể tàn nhẫn đến thế được. Nó là cháu tôi mà, Juan bé bỏng! “

    Nelson biết cái chết của cậu bé đã phần nào làm nguội lạnh niềm hân hoan chiến thắng của đội thủy thủ. Juan là một thành viên được mọi người yêu thích. Tối qua, Flavio còn tâm sự với anh rằng cậu đã nhìn thấy hồn ma của chú bé tội nghiệp vẫn lưu luyến con tàu. Anh đã cố nặn ra một nụ cười, chế giễu thói mê tín của cậu trai người Naples và nhanh chóng hướng cuộc trò chuyện sang chủ đề khác. Nhưng thật tâm, phải chăng anh cũng lo sợ và tiếc nuối. Trong chín năm qua, anh đã đọc kinh cầu nguyện và ra lệnh ném bao nhiêu cái xác xuống biển? Phải đến hàng trăm.

    Mùi muối biển mằn mặn và ánh nắng ấm áp tạm kéo viên thuyền trưởng khỏi những suy nghĩ u ám nọ, nhưng khi trông thấy các cánh buồm được vá vội vàng, cột buồm chính nham nhở vết đạn bắn, thì đó còn hơn cả nỗi đau. Không dân đi biển nào nghĩ về ngôi nhà trên biển của họ đơn thuần là một chiếc tàu. Trong bốn năm qua, máu của anh và nhiều thủy thủ khác đổ xuống đủ để biến “ cô nàng “ thành một bộ phận cơ thể của mình, một thực thể sống có tri giác, linh hồn… một tình nhân. Mọi sự xâm phạm đến chốn thiêng liêng này, đều phải trả giá bằng máu. Đó là điều đám cướp biển Thổ Nhĩ Kỳ vô đạo hoàn toàn không hiểu.

    ‘ Flavio hẳn sẽ có nhiều chuyện để kể khi chúng ta cập bến‘- Viên thuyền trưởng thầm nhủ. Bàn tay thô ráp, đầy những vết chai sần nhẹ nhàng ve vuốt các thớ gỗ nứt nẻ. Rốt cuộc, chuyến hải hành từ Istanbul về Naples hóa ra không êm đềm như anh nghĩ. Giữa các đảo nhỏ ngoài khơi Hy Lạp, họ bị hai tàu cướp biển phục kích. Cầu chúa thiêu đốt linh hồn lũ khốn đó trong hỏa ngục đời đời, phục kích một tàu galleon ba cột buồm cỡ ba mươi sáu là một hành động liều lĩnh và ngu ngốc. Phải! Cực kì ngu ngốc. Bọn cướp đã bị đánh tả tơi, treo cổ đến tên cuối cùng, tàu của chúng bị chiếm, những của cải cướp bóc trở thành chiến lợi phẩm của người chiến thắng. Tất nhiên là phía các thủy thủ cũng có nhiều mất mát, cậu bé Juan, viên thuyền phó James vui tính… Nhưng xét cho cùng, đó vẫn là một cái giá nhỏ để chiến thắng.

    Tiếng hô lớn:” Đất liền “ của người thủy thủ trên đài quan sát đánh động viên thuyền trưởng. Với một cử chỉ thiên về bản năng, anh rút vội chiếc viễn kính trong túi áo khoác, chú ý quan sát đường chân trời theo hướng người thủy thủ nọ vạch ra.

    Đầu tiên chỉ thấy mặt nước lấp lánh ánh sáng, rồi những chóp núi phủ mây bồng bềnh hiện ra từ chân trời, cảm giác thấy lại đất liền thật ngọt ngào biết bao. Nhưng chừng hai giờ nữa, từ bờ vịnh xanh như ngọc sẽ vút lên những ngọn tháp tròn từ thời trung cổ, các công sự hình sao mới đắp thêm sau này. Và cái mênh mông của thành phố, người chen chúc như kiến, nhà cửa san sát, sự giàu có không tưởng tượng nổi, nguy hiểm và gian dối không tưởng tượng nổi. Ở Napoli, ngay cả hoàng thân cũng không dám chắc về sự an toàn của mình. Còn anh, hẳn sẽ có một mộ chí đề tên Nelson – đã từng là thuyền trưởng – nếu bí mật tội lỗi ấy bị tiết lộ.

    “Đừng sống ở một đất nước thiếu một trong năm điều sau: một vị vua hùng mạnh, một quan tòa công minh, một cái chợ buôn bán rạch ròi, một y sĩ giỏi và một con sông đầy nước. “ – Nelson nhớ trong cuộc hành trình, Flavio đã trích dẫn một câu nói nổi tiếng của Chosroes. Nhưng Naples thiếu tất cả những thứ đó và thủ phủ Napoli của vương quốc vẫn tranh giành quyết liệt với Paris danh hiệu thành phố vĩ đại nhất tây Âu. Điều đó thật lạ lùng?
     
  10. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    _Bao giờ chúng ta mới cập bến, thưa senhõ?

    _Chắc là vào xế chiều. Cậu không định lên boong à?

    _Không- Flavio ngã người ra ghế trong cabin lớn phía đuôi tàu, ánh mặt trời rọi vào phòng qua các ô cửa kính đã vỡ, cậu thầm ngưỡng mộ những đường nét gai góc của viên thuyền trưởng, đôi mắt sắc màu nâu ánh vàng, mắt mèo. Nhận thấy đĩa của anh đã hết, Flavio với qua bàn chuyển chiếc đĩa bạc đựng bánh quy lại gần hơn

    Nelson gật đầu cảm ơn nhưng ra hiệu mình không đói nữa, anh đột nhiên trở nên im lặng và đầy suy tư. Tử tước nhận ra điều đó với một thoáng u sầu, rồi cậu đột ngột hỏi:

    _Anh dự định lưu lại Napoli bao lâu?

    _ Cho tới khi việc sửa chữa vỏ tàu và cabin chính hoàn tất, cũng cần thay mới buồm và một số thừng bện. Vả lại tôi có một số việc riêng.

    _Nghĩa là bao lâu?- giọng cậu tử tước trở nên gấp gáp hơn.

    _Độ một tháng.

    _Còn sau đó?

    _Có lẽ tôi sẽ trở về Anh để giám sát việc hạ thủy ba tàu galleon mới và làm một số công tác cho điện hạ.

    _Nếu phải chọn giữa nước Anh và Naples, anh sẽ quyết thế nào?- Rồi như nhận ra điều gì, cậu vội nói thêm- Anh đừng hiểu lầm, đấy chỉ do tôi tò mò thôi, điện hạ không hề có vai trò gì trong chuyện này cả.

    _. Tôi hiểu mà!- Nelson thoáng hoảng hốt với câu hỏi của cậu, không rõ nó xuất phát từ động cơ gì, nhưng khi nhìn vào mắt Flavio, nỗi nghi ngờ đuợc thay thế bởi lòng tin và sự thương cảm. Viên thuyền trưởng để thứ cảm xúc nguy hiểm nhưng dễ chịu nọ xâm chiếm đầu óc mình một lúc và cảm thấy ngạc nhiên vì ở cậu trai người Naples không có vẻ gì là dối trá hay lừa phỉnh, điều gần như không tưởng khi cậu ta có quan hệ gần gũi với hoàng thân đến thế.

    _Anh sẽ quay lại chứ?

    _Dù trở về Anh quốc chăng nữa, tôi vẫn nhớ lời tuyên thệ trung thành với điện hạ.

    _Không còn lí do gì khác sao? Chẳng hạn như…

    _Cậu còn có cả tương lai phía trước, hãy trân trọng nó, việc này không đáng đâu!- Nelson định nói thêm gì nữa, rồi thái độ buồn tủi của cậu tử tước làm anh im lặng. Vậy là còn một tháng nữa, và đó có thể là cả thiên thu.

    ‘ Nhưng mày biết là lẽ ra không nên bắt đầu tất cả những chuyện này, mày biết là nó không phải thứ có thể dễ dàng quên được khi đã trót sa vào, mày biết là… ‘ - một phần nào đó trong anh lên tiếng. Rồi phần còn lại, yếu mềm hơn nhưng kiên quyết không kém, đáp trả: ‘ Nhưng tao không hối hận về những quyết định đó, dù cái giá phải trả là gì, thì nó cũng rất xứng đáng. ’
    Số phận thật lạ lùng và không tiên liệu trước được. Trong chuyến hải hành hai tuần lễ, anh đã đánh bại con tàu đáng nguyền rủa có các cánh buồm tam giác xấu xí, đã thỏa mãn khát vọng thầm kín và tội lỗi mình ao ước bấy lâu. Nhưng ý nghĩa của những việc đó là gì? Xét cho cùng, cuộc đời phải chăng là giấc mơ trong một giấc mơ, và cả tuổi xuân lẫn kỉ niệm đều lụi tàn theo năm tháng?

    ****​

    Trở về từ Istanbul sau chuyến tháp tùng đức ông Jerico, Flavio bắt đầu một cuộc hành hương kì lạ trong lòng thành phố Napoli. Cậu tử tước thoải mái dạo bước trên những con đường lát đá cổ xưa, ngắm nhìn vô vàn các loại hàng hóa bày tràn từ cửa hiệu ra đến mặt đường, các chủ tiệm người Italia, hồ hởi mời gọi những du khách hiếu kì ghé xem cửa hiệu mình trong khi nhiều nhà buôn từ Istanbul chỉ trầm ngâm ngồi hút tẩu bên các tấm thảm Ba Tư sặc sỡ hay những bình cổ cao khảm bạc, ánh mắt mơ màng hướng về cõi xa xăm.

    Khách qua đường cũng gồm đủ mọi lớp người. Các nhà quý tộc lịch lãm, đầu đội mũ dạ đắt tiền, thắt lưng màu tía lủng lẳng thanh gươm, cưỡi trên những chú ngựa lực lưỡng, bóng bẩy. Những tiểu thư xinh đẹp, ăn vận chỉnh tề ngồi trên xe song mã, những người phụ nữ đeo mạn che mặt, tay dắt theo lũ trẻ con, những bà cụ già, những chàng trai trẻ, những người đàn ông lớn tuổi, vài lính vệ binh rôm rả trò chuyện bên quán rượu, tiếng rao í ới của dân bán hàng rong, tiếng rên rỉ ỉ ôi của vài gã ăn mày… tất cả quyện vào nhau tạo thành một dòng sông người cuồn cuộn.

    Tại đài phun nước trung tâm trước đại thánh đường, Flavio ném cho một nghệ sĩ vĩ cầm mù lòa đồng xu bạc, lập tức, đôi ba đứa trẻ mặt mày lem luốt liền tụ lại quanh tử tước, giơ những ngón tay bé xíu, bẩn thỉu về phía cậu. Giữa lúc tử tước đang bối rối thì lũ trẻ đã vội tản đi khi thấy bóng vài lính tuần canh đeo súng hỏa mai. Flavio nhìn theo chúng với ánh mắt thương cảm. Bất chấp số người khá giả ngày một tăng, Napoli sẽ không bao giờ vắng bóng những gia đình lụn bại hay dân tứ xứ đổ về mong mỏi một cơ hội làm giàu. Qủa có nhiều người rất thành công, nhưng không ít kẻ đã mạo hiểm tất cả để rồi chết mòn trong những khu ổ chuột ngoại ô hoặc vùi đời vào các nhà thổ, quán rượu rẻ tiền.

    Như để tăng thêm gánh nặng cho lớp thị dân nghèo, trong bốn năm liên tiếp, Napoli luôn có tên trong danh sách các đô thị đắt đỏ nhất Italia, cùng với Rome và Milan. Tiền không còn chút giá trị nào ở các đô thị xa hoa này. Vào lúc cậu tử tước từ giã gia đình, bè bạn, để dấn thân vào sự nghiệp sứ thần, có thể dễ dàng mua được những ổ bánh mì lớn phết bơ với giá chỉ một đồng xu bạc. Cùng những cửa hàng đó khi cậu trở về, các ổ bánh chỉ tầm tầm hai phần ba dạo trước, rỗng ruột, không có tí bơ nào. Và nếu các bà nội trợ có trách nhiệm, muốn chồng con mình được thưởng thức thứ gì đó tương tự như những bữa ăn dạo trước mà than phiền với chủ tiệm, họ sẽ nhận được câu trả lời rất hợp lí là :” do năm rồi mất mùa to” . Tất nhiên, dù năm sau có được mùa hoặc chính quyền ra lệnh nhập thêm lúa mì từ Pháp và Nga, cũng không thể khiến đám chủ tiệm hám tiền giảm giá được.

    Tuy không hoàn toàn vô tâm với cảnh lạm phát và trụy lạc, nhưng ưu tư và phiền muộn là thứ gì đó xa vời và khó lòng tồn tại lâu dài trong trái tim một thanh niên mười tám tuổi. Hơn nữa, bản thân Flavio chưa từng đối mặt với tình cảnh thiếu thốn, nên cậu dễ dàng có cái suy nghĩ rằng mọi người ở Napoli cũng dễ dàng chấp nhận chi gấp rưỡi cho những món hàng nho nhỏ như cậu đang làm, thậm chí còn hài lòng vì đã gián tiếp giúp cho gia đình ông chủ hiệu bánh, các mụ Do Thái bán găng tay và khăn lụa… có thêm thu nhập.

    Vậy nên, nếu có ai hỏi Flavio nghĩ gì về thành phố quê hương, cậu có thể trả lời không ngần ngại rằng:” rất đẹp, rất giàu, và luôn biến đổi “. Một khu phố hôm trước còn nhộn nhịp buôn bán, hôm sau có thể trở thành đống tro tàn. Tỉ lệ phát hỏa cao không tưởng từng khiến đoàn hiến binh nghi ngờ rằng một số vụ hỏa hoạn đã được tiến hành có chủ đích do ý muốn điên rồ của những kẻ ác tâm hoặc các âm mưu tôn giáo nhuốm màu thế tục. Nhưng bằng cách nào đó, chưa bao giờ ngài trưởng quan Lavini của lực lượng tận tụy này có đủ bằng chứng để kết tội bất cứ tổ chức hay cá nhân nào. Và theo nhiều người nhận xét, đức ngài quá cay cú trong cuộc đấu đá ngấm ngầm với trưởng quan Renato của đội cận vệ danh dự đến mức chẳng còn tâm sức đổ vào một cuộc điều tra quy mô lớn. Thế là vụ việc được khép lại – hay nói theo một thuật ngữ khiến mọi dân đi biển đều sợ hãi- là “ chìm xuồng “. Rồi chỉ vài tháng sau, các vết tích u buồn đó lại tan vào hư ảo, nhường chỗ cho nhiều căn nhà phố san sát, các dinh thự sang trọng có tiền sảnh lát đá hoa, cửa sổ lắp kính màu đắt tiền nhất.

    Cậu tử tước dừng bước trước khối nhà lớn treo nhiều cờ đuôi nheo màu đỏ sọc vàng, đối diện với đại thánh đường, tổng hành dinh của đội cận vệ danh dự. Viên đội trưởng toán lính canh chào mừng tử tước với thái độ niềm nở đặc biệt. Họ vốn kính trọng trưởng quan Renato nên cũng đâm ra dễ dãi với cậu em rất được cưng chiều này. Flavio nhã nhặn đáp lại những lời thăm hỏi của viên đội luống tuổi, rồi theo thói quen từ bé, nhanh nhẩu chạy ngay đến văn phòng người anh cả.
     
  11. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Vị trưởng quan đời trước của đội cận vệ danh dự là một quý ông thực sự, đã rất cẩn thận và cầu kì trang trí cho phòng làm việc của mình. Sàn trải thảm Ba Tư hiếm quý, những xà gỗ đẹp chạy ngang trần nhà và ánh nắng êm dịu rọi chiếu qua khung cửa sổ rộng mở, tiếng chim ríu rít ngoài vườn lọt vào. Vẻ thanh bình yên ả khiến nơi này trông giống một điền trang nơi đồng nội hơn là trụ sở của lực lượng tinh nhuệ, chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn cho gia đình các phó vương Tây Ban Nha và những con cháu của dòng họ Fernández. Đó là kí ức rất đẹp về một thời an bình và ổn định hơn hiện nay.

    Khu vườn ấy, người ta đã phá đi rồi, những viên đá lát xám xịt ngang ngạnh thế chỗ các khóm hoa hồng, hàng lựu trĩu quả cũng bị đốn hạ. Vị trưởng quan mới- bá tước Renato của dòng họ Francisco- tận tụy nhưng nghiêm khắc, nhận thấy khung cửa sổ kiểu Pháp sau bàn làm việc hóa ra là điểm yếu chí tử để một tên sát thủ tưởng tượng nào đó khai thác, nên cho xây bít bằng gạch thẻ. Vì trưởng quan cũng rất mê hút tẩu, tấm thảm Ba Tư giờ đã lấm lem, bị đục nham nhở bởi tàn thuốc. Sát hai vách tường được bổ sung thêm các tủ kiên cố có khóa sắt, đựng thứ gì thì chỉ có chúa mới biết, nhưng rõ ràng là chúng càng khiến căn phòng thêm âm u và đầy vẻ đe dọa. Có một lần, hoàng thân đến thăm người bạn của mình, điện hạ ấn tượng đến mức sáp nhập luôn cơ quan mật vụ vào biên chế của lực lượng này. Nhờ vậy, sau một thời gian dài kém thế, đội cận vệ giờ đã có thế lực tương đương với đoàn hiến binh, điều đó làm mọi người nức lòng, nhưng cũng gây ra không ít rắc rối…

    _Nghe này, tôi đã thu xếp để vụ của anh được xét xử trong một hội đồng quân sự, tránh khỏi đám thẩm phán thân thuộc với lão Lavini chết tiệt ấy.-Trưởng quan Renato chậm rãi nói, cây bút lông ngỗng kẹp giữa ngón trỏ và ngón cái, anh tựa người vào lưng ghế, đôi mắt sáng quắc chăm chú quan sát nét mặt một viên đội dưới quyền. Thấy y vẫn giữ im lặng và tuân phục, Renato lại tiếp:

    _Vấn đề còn lại là anh sẽ khai thế nào?

    _Tối hôm đó, tôi được lệnh…

    Anh không được khai với họ mình làm theo lời hoàng thân, thậm chí là làm theo chỉ thị của tôi, như thế sẽ là một vụ tai tiếng chính trị.- Renato đột nhiên gắt, nghĩ ngợi một lúc, anh tiếp tục nói- tối hôm đó anh vừa hết phiên trực và định rủ các thuộc cấp ăn mừng vì mới sinh con trai.

    _À vâng… thưa đại tá.

    _Khi đến trước quán Bel Biatoo thì anh trông thấy một thị dân đã bị thương đang hoảng hốt kêu la về những tên giết người và phóng hỏa, Vậy là tuy đã hết phiên trực, tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ quân nhân đã thôi thúc anh đến kiểm tra. Rồi anh thấy gì nào?- Renato cố gợi mở để viên đội hoàn tất nốt câu chuyện.

    _Một nhóm mười lăm người vũ trang với súng con và đoản kiếm đang vội vã rời khỏi địa điểm phát hỏa. Đại tá cũng rõ chính ngài thủ tướng đã ra sắc lệnh cấm mọi thị dân mang theo súng ngắn hoặc tụ tập gây bạo loạn. Mà bọn người kia thì vừa la hét, vừa vung vẩy súng cùng gươm tuốt trần.

    _Rồi sao nữa? Tôi đang nghe đây.

    _Một thanh niên, có vẻ là thủ lĩnh của đám người nọ bắt đầu cự cãi với tôi khi toán của tôi cố giải tán họ, hơn nữa, do đốt nhà là một tội to, mà kẻ phạm tội phải bị thiêu sống nên tôi nghĩ mình hoàn toàn có quyền dùng vũ lực để hoàn tất công việc mà nhà nước đã tin cậy giao phó. Một người của tôi bị bắn, rồi gã trai nọ rút vội khẩu súng giấu trong áo và nhằm thẳng vào mặt tôi. Thế nên tôi nện báng súng vào đầu hắn…

    _Vậy là anh không biết cái gã bị anh nên trúng ấy là chuẩn nam tước Ferante, con trai của ngài Lavini? - Renato chợt nở một nụ cười đùa cợt.

    _Hoàn toàn không, thưa đại tá.- viên sĩ quan cũng cười, có nhiều đồng đội của anh từng bị thương trong các xung đột với đoàn hiến binh – dù họ gây thiệt hại cho phe kia còn nhiều hơn thế- nhưng chưa ai có cơ hội ra tay với đứa con cưng của lão nam tước một cách đường hoàng đến thế.

    _Anh và đồng đội đang phơi mình dưới hỏa lực địch khi cố giải tán một vụ xung đột. Và anh nhận ra một trong đám lông bông đó có một gã sẵn sàng thổi bay đầu mình. Vậy, thay vì bắn trả, anh đã mạo hiểm áp sát, cố khống chế y.

    _Rồi tôi nện hắn bằng báng súng- viên đội tự hào đáp.

    _Hay đấy, nếu phải dịp khác thì tôi đã biểu dương anh trước toàn đơn vị rồi, nhưng khai như thế không được- Renato cười chán nản.

    _Đốc gươm?

    _Không có thứ gì nhẹ nhàng hơn sao? Ví dụ khi anh cố kiềm chế thằng côn đồ bạo ngược đó, chẳng may nó vấp ngã và đập đầu vào tường hay nền đường lát đá gì đấy?

    _Tôi e là phía đoàn hiến binh họ lại kết luận khác…

    _Dĩ nhiên là lão Lavini đã công khai bác bỏ giả thiết của tôi khi chúng tôi tranh luận trước ngài phó vương. Mà rõ ràng là lão kém lí hơn ta, lão bảo chính thủ tướng ra lệnh phái đội hiến binh vận thường phục bảo vệ khối nhà đó nhưng không trưng ra được sắc lệnh nào.Về phần phó vương, đức ngài cũng có những lí do riêng để ủng hộ chúng ta, vì sao thì anh biết rồi đấy.

    _Tôi hiểu thưa đại tá. Được phục vụ ngài và điện hạ là vinh dự của cuộc đời tôi- người quân nhân cúi người chào, nhẹ nhõm vì cuộc điều tra, tranh tụng kéo dài hơn một tháng qua đã gần đến hồi kết. Anh định lui đi, nhưng Renato đã giữ tay anh lại và đặt vào đó một túi da nhỏ căng phồng.

    _Ngài không cần làm thế!-Viên đội hoảng hốt nói.

    Sau đó, Renato lí giải rằng đây là món quà chung anh em trong đơn vị mừng cháu bé mới sinh. Ngài trưởng quan cũng đứng dậy và chào, rồi với một ánh buồn trong mắt, ra hiệu cho người sĩ quan lui đi.

    Khi còn lại một mình trong phòng, Renato chộp vội chiếc tẩu, châm mồi và rít một hơi dài. Trong buổi trò chuyện hồi tháng trước, hoàng thân đã gợi ý rằng một vụ tự sát vì hổ thẹn và thiếu trách nhiệm sẽ đỡ tốn kém hơn mua chuộc nhân chứng cùng các ủy viên của hội đồng quân sự, quan trọng nhất là mắt xích bị phá vỡ hoàn toàn, không thể lần ra dấu vết gì nữa. Renato cũng công nhận phương sách đó là an toàn và hiệu quả nhất. Nhưng được chỉ huy những người lính thế này là cả một niềm vui. Anh không muốn danh dự quân nhân của họ bị hoen ố, không muốn có thêm một người vợ mất chồng và đứa trẻ nọ lớn lên mà không có sự bảo bọc của cha.

    Trong màn khói thuốc mờ ảo, một suy nghĩ vu vơ kéo đến làm lòng anh tràn ngập u sầu. Một ngày nào đó, khi chính anh trở thành mắt xích yếu ớt, liệu điện hạ có do dự khi định loại trừ anh? Hiển nhiên cậu bé Nuvola anh quen năm xưa sẽ không bao giờ làm thế, còn đức hoàng thân hiện nay? Đó là cả một bí ẩn, nhưng không có nghĩa là anh sẽ thôi trung thành. Nếu hoàng thân, thay vì gợi ý hay đề nghị, mà đưa ra một mệnh lệnh trực tiếp – điều điện hạ rất hiếm khi thực hiện- yêu cầu anh giết viên sĩ quan nọ thì anh sẽ chẳng ngần ngại kí giấy tử hình y. Mối quan hệ giữa anh và hoàng thân không còn đơn thuần là tình bạn hay chủ-tớ. Và hẳn điện hạ sẽ giết anh nếu người biết cái giá của lòng trung thành tuyệt đối này là gì.

    Cánh cửa văn phòng đột ngột mở tung, theo thói quen từ hồi đi đánh trận ở Sicily, Renato rút khẩu súng ngắn giấu trong hộc bàn và sẵn sàng nhả đạn, nhưng khi trông thấy mái đầu vàng hoe đang hướng thẳng về phía anh với đôi tay dang rộng, vẻ căng thẳng trên mặt viên trưởng quan chợt biến mất, anh giấu vội khẩu súng trước khi Flavio kịp trông thấy, rồi bước tới đón nhận cái ôm thân tình của cậu em. Flavio cao hơn anh một tẹo, nhưng Renato thì rắn chắc, vững vàng hơn, mắt anh cũng nâu thẫm giống bố, mái tóc đen và không xoăn. Dù cùng mang hai dòng máu Tây Ban Nha và Ý Đại Lợi, nếu không được giới thiệu trước, hẳn chả ai nghĩ họ là hai anh em. Thật lạ lùng là khi Flavio đứng cạnh hoàng thân thì sự hiểu lầm sẽ diễn ra theo hướng ngược lại.
     
  12. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Poldi lộ rõ vẻ bất an khi cùng viên quản gia đội món tóc giả rắc phấn đi dọc theo dãy hành lang trải thảm quý. Đây là lần thứ ba ông được diện kiến hoàng thân, mà mỗi lần lại có ấn tượng khác nhau. Lần đầu tiên cách nay gần hai năm, điện hạ đang ở đỉnh cao quyền lực, bận đến mức chỉ cho ông gặp mặt độ năm phút, và phòng đợi bên ngoài văn phòng thì ken đặc những người đến cầu xin ân huệ, liên tục gấu gó, tranh cãi nhau, cứ như một tác giả điên khùng nào đó cố tình dựng một vở hí kịch quy mô trong rạp hát dã chiến. Tuy vậy, trước mặt hoàng thân thì những khuôn mặt mới phút trước còn đỏ gay, hùng hùng hổ hổ đều thể hiện thái độ quỵ lụy làm viên hoa tiêu phát tởm, xong việc thì ai cũng lủi đi thật nhanh, chừng như sợ gặp phải một người quen cũ…

    Hôm nay thì không nhứ thế, họ dừng lại trong một phòng đợi thanh lịch kiểu Pháp vắng người- đến mức Poldi cho rằng sự tồn tại của căn phòng này là hoàn toàn không cần thiết- và ông chợt lo lắng không biết mình đến đây thế này có phải là một quyết định sáng suốt không? Theo lời mọi người ở Napoli thì điện hạ đã bị thất sủng hoàn toàn, không còn tí quyền lực nào và phải ẩn thân ở miền ngoại ô, vậy mà ông vẫn cứ đến?

    Năm cận vệ vận quân phục trắng sọc lam canh gác cánh cửa phía bên kia căn phòng là lập tức cảnh giác. Một người có vẻ là sĩ quan chỉ huy, tách khỏi nhóm quân nhân, bước về phía Poldi.

    _Xin ông thứ lỗi cho. – người sĩ quan giơ hai tay ra phía trước, các ngón tay xòe rộng và ra dấu cho Poldi làm tương tự. Dường như ngại viên hoa tiêu sẽ bất tuân, y nhã nhặn nói thêm: “ Trong năm năm qua đã có bảy vụ âm mưu ám sát điện hạ, nên tôi buộc lòng phải khám người ông.”

    Không thấy viên hoa tiêu phản ứng, người sĩ quan lại chào và thận trọng kiểm tra khắp phần ngực áo, lưng, thắt lưng, hai bên đùi và cả đôi ủng, sau đó y lập lại tất cả những động tác ấy, còn tỉ mỉ và cẩn trọng hơn nữa, rồi lui về chỗ đứng lúc nãy của mình và ra hiệu cho hai thuộc cấp mở cánh cửa gỗ sơn trắng dẫn vào căn phòng họ đang canh gác.

    Theo thói quen của dân đi biển, Poldi nhanh chóng nhìn quanh một lượt, thật ra, văn phòng của hoàng thân không lớn lắm nhưng bài trí rất bắt mắt và sang trọng. Ánh mặt trời rọi qua các khung cửa kính hẹp và cao sau bàn làm việc, đọng lại trên những món trang trí bằng bạc đặt rải rác khắp phòng, nhiều tấm tranh lớn, sáng màu treo dọc theo các mặt tường. Trên bàn làm việc đặt một lọ mực đồng, chiếc chặn giấy ngà và một quyển sổ lớn có bìa bọc da, hoàng thân hí hoáy ghi nốt vài dòng cuối trang rồi quay sang Poldi:

    _Hi vọng các quân nhân bên ngoài không làm ông bực tức. Hình như ngài trưởng quan đội cận vệ dọa sẽ trừng phạt họ nặng nề lắm nếu để tôi bị ám sát. Theo lời y, một lời chào hỏi hợp thức trong thời điểm nhiễu nhương này là:” Rất vui được làm quen với quý vị, và nhân tiện, các vị là gián điệp của ai? ” - Hoàng thân cười hóm hỉnh và ra hiệu cho Poldi ngồi đối diện với mình, đó là lần đầu tiên viên hoa tiêu được quan sát điện hạ kĩ càng và ở khoảng cách gần đến thế.

    Mắt anh ta xanh một màu lam đậm, không thường thấy ở những người miền nam, mái tóc vàng lợt, không để râu, trông như một phiên bản lớn tuổi hơn cậu thiếu niên Flavio- mà Poldi hơi khinh thị vì sự mềm yếu và không quyết đoán-, nhưng cằm hoàng thân nhọn hơn, ánh mắt tự tin đầy truyền cảm chứ không mơ màng như cậu tử tước. Và theo Poldi nhận xét, điện hạ không hề có vẻ mệt mỏi chán chường của những người bất đắc chí, thậm chí còn tươi tỉnh hơn dạo người đang nắm giữ uy quyền lớn.

    _Tôi đến đây theo ý nguyện của mình, thưa điện hạ- Poldi nói và cúi người chào.

    _Rất ít người đến với tôi vì lòng thành, đặc biệt là trong những ngày này.

    _Một giao kèo không còn là một giao kèo khi có người từ chối hoàn tất các điều khoản của nó.

    _Một giao kèo, hóa ra chỉ có thế!- Hoàng thân tự lẩm nhẩm, rồi y nhìn thẳng vào mắt Poldi, chậm rãi nói:” Ông biết không, thường nhật, tôi rất ít khi ra phố, thay vào đó, tôi dành kha khá thời gian để quan sát mọi người dạo bước trên đường, thử đánh giá mình bằng cặp mắt của người khác. Họ nghĩ gì về vẻ ngoài của tôi, cử động, dáng đi, chuyện đời tư của tôi, kể cả các vụ tai tiếng vốn rất hay được đoàn hiến binh thêu dệt thêm. Ban đầu việc đó thật khủng khiếp, đầu óc tôi hiếm khi nghĩ tốt về người khác, nên khi áp đặt mình vào vị trí của họ và xét đoán chính bản thân tôi, hẳn ông cũng hiểu phát súng vọng lại khủng khiếp đến thế nào. Tuy vậy, tôi vẫn là người biết giữ lời hứa, và rất hài lòng khi ông có chung quan điểm về vấn đề này. “ Đến câu cuối, nét mặt hoàng thân có sự đổi khác rất lạ, ra vẻ như muốn nói:” bây giờ ta bắt đầu vào chủ đề chính.”

    Viên hoa tiêu tóm lược chuyến hành trình của mình, thời gian ông ở Istanbul và cả cuộc đụng độ trên biển. Sau đó, đến những việc tỉ mỉ hơn như ông nhận xét ra sao về chất lượng chiếc chiến thuyền, tốc độ tối đa của nó khi thuận gió và ngược gió, hoặc thời gian nạp đạn, tầm bắn, kết cấu vỏ tàu, nếu so với các tàu carack truyền thống, thì mẫu galeon mới này có rẻ hơn không? Các câu trả lời của viên hoa tiêu bị ngắt quãng nhiều lần bởi tính hiếu kì của hoàng thân, tuy ông dám chắc điện hạ thậm chí còn không biết giá một cân hạnh nhân ngài hay dùng là bao nhiêu, hay tên người xà ích của mình là gì, nhưng người đặc biệt tò mò với các tin đồn mới nhất ở Trung Đông, hăm hở ra mặt khi nghe tin đế quốc Ottoman đang có xung đột với vương triều Safavid rồi vội phủ lấp sự hứng thú của mình bằng vẻ thờ ơ, và ra hiệu cho ông kể tiếp.

    Cứ như thế, cuộc đối thoại kéo dài hàng giờ, cho đến khi mẩu thông tin cuối cùng bị tước đi và hoàng thân chìm dần vào dòng suy tư bất tận. Sau một lúc, y chậm rãi nói:

    _Khi kể về chuyến đi từ Istanbul về Napoli, hình như ông có chuyện gì đó còn giấu tôi.

    _Tôi đã nói hết những điều mình biết, thưa điện hạ.

    _Không, tôi cảm giác là vẫn còn chuyện gì đó, có thể chính ông cũng không chắc chắn nhưng cứ nói ra chẳng phải hay hơn sao? Ông nghĩ gì về viên thuyền trưởng người Anh? Cả về cậu bé tóc vàng mà tôi là người bảo trợ nữa? Nãy giờ ông không nhắc gì đến họ cả. Mối quan hệ giữa họ có tốt không? Tôi rất hi vọng họ trở thành bạn.

    Poldi cảm thấy cần phải nói câu gì đó giúp mình thoát khỏi tình cảnh lúng túng hiện nay, nhưng ông không nghĩ ra câu xã giao tinh tế nào. Hoàng thân lại cứ hỏi dồn và bắt đầu đặt ra một số giả thiết, rồi tình cờ, y buông một câu làm viên hoa tiêu giật nảy mình:” chẳng lẽ họ lại chung chăn gối với nhau à? “

    _Có bao nhiêu người biết việc này?

    Câu trả lời của viên hoa tiêu nghẹn lại nơi cổ, lòng tràn ngập nỗi hối hận vì không giữ được bình tĩnh lúc hoàng thân nêu ra cái giả thiết tai hại vừa rồi, nhưng ông còn sợ nhiều hơn là hối hận. Và trong thoáng chốc, khuôn mặt tím tái của thằng bé Juan ám lên mọi suy nghĩ của ông. Cặp môi bĩu ra như chuẩn bị đặt thêm một câu hỏi ngây thơ, mái tóc bết máu sậm màu cùng một lỗ đạn ám khói bên thái dương. Poldi tưởng chừng mình sắp phát khóc và sợ run lên, nhưng có thứ gì đè nặng nơi quả tim đến mức không một tiếng kêu than hay giọt lệ nào thoát ra được. Cháu ông nằm trên sàn tàu nhầy nhụa máu, thân thể cứng đơ duỗi dài như một tấm ván, sự im lặng của nó khiến ông sợ hãi, sợ vì đã vui mừng khi mình còn sống, vì sự ích kỉ đang nhen lên và mình dần hèn yếu đi…

    _Có bao nhiêu người biết việc này?-Hoàng thân lặp lại câu hỏi một cách khó chịu.

    _Có lẽ là vài thủy thủ người Anh.

    _Nghĩa là tôi đã đúng?

    _Đây không phải là chuyện có thể nói chắc hoàn toàn, thưa điện hạ.

    _Vậy thái độ lúc nãy của ông là thế nào?

    _ Nhưng thưa điện hạ, đó chỉ là một phỏng đoán.

    _Phỏng đoán… được, ông biết cái “ phỏng đoán “ này tai hại thế nào không? Mà vì sao ông cho rằng hai người bọn họ…- hoàng thân bỏ lửng câu nói, tay y phác một cử chỉ thông tục bằng ngón cái và ngón trỏ.

    _Từ đầu chuyến hải hành, cậu ta đã rất gần gũi với thuyền trưởng, rồi sau cuộc hải chiến, có vài thủy thủ bảo với tôi là họ nghe có tiếng rên rỉ trong cabin của thuyền trưởng hàng đêm, có một lần chính tôi trông thấy…

    _Họ làm tình với nhau sao?

    _Không, tôi chỉ trông thấy ông ấy hôn lên má cậu ta.

    _Nếu ông gọi thế là bằng chứng, ông sẽ kết tội toàn nước Ý đấy, đó là tập quán của chúng ta.

    _Nhưng ánh mắt của hai người bọn họ…

    _Tôi mặc kệ ánh mắt của họ thế nào, và cả vụ rên rỉ kia nữa, Trong trận đánh ông nói đến, thuyền trưởng có bị thương không?

    _Dĩ nhiên là có, ông ấy bị vào cánh tay.

    _Thế chẳng phải đơn giản hơn sao, vết thương cũ làm thuyền trưởng đau và Flavio dành ra một ít thời gian rảnh rỗi để chăm sóc ông ta, này Poldi, ông nghĩ tôi nói thế có đúng không?- hoàng thân nở một nụ cười dàn hòa, mắt nhìn chăm chăm viên hoa tiêu.

    _Điện hạ luôn luôn đúng- Poldi cảm thấy tim mình dần đập chậm lại rồi với tất cả nỗ lực, ông cũng nặn được một nụ cười trên môi.

    _Tôi biết ông còn một đứa cháu nữa, tên cậu ta là gì ấy nhỉ?

    _Là Antonio thưa điện hạ.

    _Cậu ta bao nhiêu tuổi rồi?

    _Mười bốn ạ!

    _Vậy gia đình đã có dự định nào cho cậu bé chưa?

    _Sau những gì xảy đến với Juan, cả con trai tôi và vợ nó đều phản đối chuyện cho Antonio theo nghề thủy thủ.

    _Do những mất mát gia đình ông đã chịu đựng, tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu cậu Antonio này, tỏ ra thích thú với nghề thiết kế tàu buồm thay vì chu du trên những con tàu được người Anh vẽ kiểu. Và thật trùng hợp là tôi có quan hệ rất tốt với ông De Gronrini bên học viện hàng hải. Bù lại, tôi nghĩ sẽ tốt cho mọi người nếu mối quan hệ giữa Flavio và viên thuyền trưởng dừng lại ở mức bạn bè, ông hiểu mà phải không Poldi?

    _Tôi sẽ im lặng thưa điện hạ- Poldi vội vàng đáp, rồi không đợi hoàng thân ra hiệu, ông đứng dậy chào và nhanh nhẹn rời khỏi phòng, không ngờ mình có thể thoát hiểm và đã làm hoàng thân nhượng bộ như thế, vậy mà lúc trông sắc mặt y khi chuyện bê bối giữa hai người đó bị lộ, Poldi cứ tưởng ông không bao giờ trông thấy mặt người thân nữa.

    ‘ Năm nay có thể không quá xấu với mình, và gia đình mình sẽ có thêm một kĩ sư hàng hải thay vì một thủy thủ. ‘- viên hoa tiêu thầm nhủ.
     
  13. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Trong buổi chiều muộn, mặt trời uể oải náu mình sau các cụm mây màu tía, các thân sồi nứt nẻ trút đi những chiếc lá cuối cùng, nhuộm con đường trải sỏi dưới màu nâu vàng loang lỗ. Trời mát và thanh sạch, đức hồng y Miveto cho ngựa phi nước kiệu đến cuối con đường, vượt qua cánh cổng sắt tạo dáng theo lối cổ, hai-ba gia nhân vội chạy đến giúp đức ông xuống ngựa. Miveto cao tới sáu bộ hai tấc và trông thật oai nghiêm trong bộ đồ thụng đỏ tía, đầu đội chiếc mũ nhỏ cùng màu nhằm che đi chỏm đầu cạo nhẵn. Mùa hạ vừa rồi, đức ông vừa mừng sinh nhật ba mươi sáu tuổi và tự hào vì được sinh ra là người Tây Ban Nha.

    Hồi năm ngoái, hoàng thân có mời ông đến thăm trang viên vừa được thừa kế từ một người họ hàng bên ngoại. Thuở ấy khối nhà chính đã cũ kĩ, gần như đổ nát, nhưng con đường dẫn vào dinh thự thì sừng sững những thân sồi cổ thụ mà tương truyền do đích thân đại thống lĩnh Gonzalo Fernández trồng khi ông đổ bộ vào Naples với các chiến hữu bảo hoàng Aragonese. Khoảng thời gian sau này, tuy có nghe nhiều lời bàn tán về tòa dinh thự mới, Miveto quá bận rộn với công việc của giáo hội để tự mình đến thăm. Chỉ đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng nội các và hoàng thân lui về miền ngoại ô, đức hồng y mới tất bật đi về giữa Napoli và Alveno để hòa giải hai cha con.

    Xét đến tình cảnh nhàn rỗi quá mức của một ông hoàng bị thất sủng, Miveto đoán mình sẽ không phải đợi lâu. Khi vừa bước vào nhà, ông đã cảm nhận được cảnh vắng vẻ và bầu không khí ảm đạm phủ chụp lên tòa dinh thự lộng lẫy, dường như đám khách khứa, bọn ăn bám, các gia đình tiểu quý tộc ưa xin xỏ đã bỏ rơi vị chủ nhân quyền lực một thời trong nỗi cô đơn, chỉ còn lại vài người nô bộc trung thành. Thế là tốt cho sứ mạng của Miveto, bởi hoàng thân không thuộc mẫu người có thể thích nghi với cảnh sống nhàn rỗi, những lời vuốt ve bóng bẩy, một vài câu khen ngợi sẽ đem lại kết quả ngoài sức tưởng tượng.

    Viên quản gia Veruno cúi chào Miveto và trịnh trọng mời ngài nghỉ chân nơi phòng khách trong lúc gia nhân thông báo cho hoàng thân. Lát sau, y trở lại với một nụ cười lịch sự, cho biết hoàng thân đang dùng bữa cùng vài người bạn trong vườn, nhưng người sẵn lòng mời đức ông tham dự. Miveto nhã nhặn từ chối, bảo rằng mình không muốn quấy quá bữa tối của cậu em thứ và sẽ chờ trong phòng khách. Khi Veruno lễ phép xin rút lui, ông nhận thấy một thoáng bất mãn trong mắt y. Có lẽ y ngờ đức ông không tin tưởng vào tài nghệ bếp núc của đám gia nhân hoặc do ông đã tước đi cơ hội được khoe khoang những thay đổi y vừa tiến hành trong khu vườn trứ danh của dinh thự.

    Hơn nửa giờ đồng hồ, Miveto ngồi không nhúc nhích, mắt nhìn trừng trừng vào ngọn lửa trong lò sưởi mà không thấy gì. Ánh lửa hắt thứ ánh sáng huyền hoặc lên chiếc thập giá bạc ông đeo trước ngực. Trên bức tường bên là tấm tranh khổng lồ họa cảnh núi Vesuvius. Về phía đối diện, những kệ sách bằng gỗ nhiệt đới có vân hồng phủ khắp cả mặt tường. Bất chợt, mối quan tâm của Miveto chuyển sang dãy kệ sách nọ. Không phải ông chưa từng nghe chuyện hoàng thân có sự mê say đặc biệt với các tác phẩm nào từng khiến tác giả bước lên giàn hỏa thiêu, và phủ đệ của y có một bộ sưu tập vô song nhiều ấn phẩm từng bị pháp đình tôn giáo ra lệnh đốt bỏ…

    ‘ Thật là cả một sự lãng phí, biết bao tài năng và kiến thức như thế! ‘ -Miveto ngậm ngùi nghĩ, ông đã thực hiện lời thề thứ tư, trở thành một Regimini Militantis Ecclesiae, một người lính của chúa, chấp nhận đi mọi nơi, thực hiện mọi phi vụ để bảo đảm sự an toàn cho tòa thánh, chỉ cần lệnh trực tiếp của giáo hoàng. Nhưng liệu quyết định của đức thánh cha có phải bao giờ cũng đúng? Giáo hội đã chọn cách thu mình lại, tự cô lập với đà phát triển của thế giới. Chúng ta từng tuyên bố trái đất là trung tâm của vũ trụ, từng thiêu sống những người cổ súy thuyết nhật tâm. Vậy là khi Magellan đi vòng quanh thế giới, tòa thánh phải hứng chịu một cú sốc chưa từng có…

    Có tiếng cửa xịch mở và những bước chân êm nhẹ đều đều tiến lại chỗ ngồi cạnh lò sưởi của đức hồng y, ông vừa đứng dậy định chào hỏi thì vị chủ nhà đã kịp buông một câu xã giao mang nặng tính giễu cợt. Miveto phớt lờ thái độ khiếm nhã đó, hơn hai mươi năm qua ông đã quá quen với tính khí ương ngạnh, thất thường của cậu em thứ. Cậu ta có thể lịch sự nếu công việc yêu cầu phải thế, nhưng bản chất vẫn cứ là ưa châm chích và mỉa mai. Vả lại khi bị bãi nhiệm, thất sủng và bỏ rơi thì không ai có thể tỏ ra nhã nhặn, hợp lí được. Hai anh em trò chuyện xã giao một lúc, rồi nhân một phút hoàng thân đang tỏ ra vui vẻ, đức hồng y bắt đầu vào đề.

    _Hãy gửi cho cha một bức tranh khắc chân dung của chú, hẳn người sẽ chấp nhận nó như một tín hiệu dàn hòa.- Miveto nhỏ nhẹ thuyết phục bằng chất giọng trầm ấm, có độ rung cảm rất riêng của một nhà diễn thuyết.

    _Thưa đức cha, ý người là pho tượng bạc tôi gửi tặng đại thánh đường tháng trước chưa đủ thể hiện lòng thành sao?- hoàng thân hỏi từ chỗ ngồi cạnh lò sưởi, trong chiếc ghế có lưng tựa cao, y trạc hăm bảy tuổi, kiêu hãnh và sắc xảo như một con chim ưng chưa thuần.

    Miveto tỏ ra thản nhiên trước thái độ giễu cợt của đứa em cùng cha khác mẹ, biết rằng từ nhiều năm trước mình đã bỏ lỡ cơ hội trở thành một người anh oai nghiêm. Ông chưa bao giờ đủ nghiêm khắc để gieo vào lòng cậu em này nỗi sợ hãi và kính trọng lẽ ra phải có, mà việc này thì ngay cả cha ông- ngài phó vương- cũng thấy là vượt quá sức của đức ngài. Từ trước đến giờ, chỉ có ba trường hợp ngoại lệ, có lẽ số phận của Nuvola là khuất phục mọi người đàn ông và chịu sự khuất phục của những phụ nữ mà cậu ta yêu quý.

    _Chú bướng quá, Nuvola! Ý anh là cha của chúng ta- Miveto chậm rãi đáp, và chợt nhận thấy một thoáng chua xót trong giọng mình. “ Cha của chúng ta” thật dễ dàng thốt ra điều đó, nhưng nếu ông nói: ” mẹ của chúng ta” thì thái độ của gã trai trẻ đối diện có lẽ sẽ rất khác. Ngay từ nhỏ, cậu em ngỗ ngược này đã ý thức rất rõ, công nương là mẹ của cậu, chỉ riêng cậu thôi, khi những đứa em lần lượt ra đời, cậu buộc phải chia sẻ vị trí độc tôn của mình, nhưng người anh cả chưa từng nằm trong danh sách đó.

    _Giữa cha và em không có bất đồng nào cả, chỉ đơn thuần là em muốn dành ít thời gian để nghỉ ngơi và cha thì tìm được một nội các thay thế mới xuất sắc làm sao!- Nuvola trả lời với nụ cười tự tin thường lệ, anh không ưa Miveto? Đó là sự thật, nhưng anh cũng nhớ là Miveto đã từ chối quyền thừa kế toàn bộ tước hiệu, gia sản nhà Solena để phụng sự đức tin cao cả, và khiến anh trở thành người thừa kế hợp pháp của gia tộc cổ xưa này, dù rằng anh mang họ Fernández?

    _Vậy tối mai chú hãy đến dùng bữa ở Nuovo với anh.

    _Anh cũng biết là tùy tiện đến dùng bữa mà không có sự cho phép của chủ nhân là một hành động hết sức khiếm nhã.

    _Lâu đài Nuovo là nhà chú.- Miveto kiên nhẫn lồng các ngón tay vào nhau, để tăng thêm sức nặng cho lời mời, ông tiếp- Florie luôn miệng hỏi anh bao giờ chú mới trở về, con bé rất nhớ ông anh vui tính của nó.

    _Florie cũng tám tuổi rồi nhỉ- Hoàng thân khẽ thở dài.

    _Chỉ sáu- bảy năm nữa là bọn con trai sẽ chầu chực vây quanh cô bé.

    _Thật đẹp, thật ngắn ngủi, bài học từ Neomi dạy chúng ta nhiều điều, em sẽ không…

    _Vậy thì hãy dành thời gian cho Florie khi nó còn trong vòng tay bảo bọc của gia đình, tối mai chú hãy đến nhé!- Miveto khấp khởi hi vọng, đề cập đến Florie luôn là một nước cờ hay, đó là điểm yếu rất dễ khai thác của Nuvola.

    _Em sẽ suy nghĩ về lời mời này, không liên quan đến chính trị chứ?

    _Hoàn toàn không.

    _Và cha thực sự muốn em có mặt?

    _Đó là điều người luôn mong mỏi- Miveto nở một nụ cười hài lòng, chân thật.

    _Ngay cả khi… ừm, chuyện này thật khó giải thích cho rõ ràng. Nhưng em sợ là đã quá muộn để dừng mấy tờ báo đó lại.

    _Sao lại có báo chí ở đây?- Nụ cười trên môi đức hồng y tắt lịm, rồi ông thảng thốt kêu lên:” Chú đã làm gì hở Nuvola? ”

    Đêm đó Miveto không sao chợp mắt. Thường thì nếu gặp khó khăn trong vấn đề nào đấy, ông sẽ lùi nó vào sáng hôm sau, khi tinh thần thoải mái nhất. Nhưng đêm nay có quá nhiều thứ để suy nghĩ.

    Làm thế nào để chấm dứt mối bất hòa giữa cha và Nuvola trong khi những bài chỉ trích nội các sẽ xuất hiện đồng loạt trên báo sáng mai?

    Tại sao cha lại bãi nhiệm Nuvola chỉ vì rắc rối cỏn con liên quan đến thằng bé Flavio?

    Những xích mích trong nội bộ Naples sẽ tác động ra sao lên nhà thờ, và quan trọng hơn hết là triều đình Tây Ban Nha sẽ phản ứng thế nào? Dù trên danh nghĩa, đức vua Philip III là người cai trị toàn bộ Naples, ai cũng biết là suốt bảy mươi năm qua, các vua chúa Tây Ban Nha chưa từng can thiệp quá sâu vào nền chính trị rắc rối của vương quốc này. Nhưng trước tình hình bất ổn triền miên gần đây, rất có khả năng nhà vua sẽ xét lại các đặc quyền của người.

    Rồi còn những lời đồn về vị nữ công tước kiêu kì đến từ Florence…

    Miveto thở hắt ra một hơi, cuộc sống rất đẹp nhưng cũng đáng buồn thay! Qúa khứ bị bóp méo, tương lai mờ mịt vô định còn hiện tại thì rắc rối không tưởng tượng nổi. Trước đây ông vốn tin vào lí thuyết cho rằng mọi vấn đề phức tạp đều hợp thành từ những rắc rối nhỏ hơn, có thể tách ra và xử lí lần lượt. Nhưng các mối quan hệ nhập nhằng và mâu thuẫn trong nội bộ hoàng gia Naples thật vượt quá khả năng của ông.
     
  14. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Alroy thuộc về lớp quý tộc Tây Ban Nha hồi những năm bảy mươi của thế kỉ trước, xốc nổi, hiếu thắng và trọng danh dự. Sau cái chết của người vợ mà ông buộc phải cưới vì mục đích chính trị thuần túy, ông để lại cậu con đầu lòng cho một trường dòng ở Valencia dạy dỗ còn mình thì sang Naples- lúc bấy giờ đang sôi sục mối lo ngại về cuộc xâm lăng của quân Ottoman-. Vì xuất thân từ dòng đại quý tộc và đã vài mươi lần giao chiến với người Ottoman trên Địa Trung Hải, Alroy được quận công Don Juan thu nạp rồi theo hạm đội khổng lồ của liên minh thần thánh đánh bại Ali Pasha tại chiến trường Lepanto. Vậy là thay vì cái chết, ông đã tìm được vinh quang, rồi công danh dẫn đường cho tình yêu tìm đến.

    Đó là chuyện ba mươi ba năm trước.

    Người trung tá hải quân năm nào giờ đã là phó vương xứ Naples, khi một người đạt đến địa vị như thế, dễ đoán là ông ta chẳng còn trẻ trung gì nữa. Hiểu rằng mình ngày càng mất đi sự nhanh nhạy, tính chính xác và rất nhiều vốn quý báu khác là một sự thật không lấy gì làm dễ chịu, Alroy biết thế vì ông đã trải qua rồi, ông thực sự ngán ngẩm cảnh già.

    Lúc này, ông đang ngắm đứa cháu trai Flavio với vẻ hài lòng kín đáo, và nhận thây lòng mình đang nhen lên sự ghen tỵ mơ hồ với bố cậu ta. Về ngoại hình, Flavio khá giống người con trai thứ hai của Alroy- kẻ luôn khiến ông mệt mỏi- nhưng cháu ông gầy hơn và thỉnh thoảng lại có những cử chỉ hơi bồn chồn nhưng phù hợp. Cậu ngồi khép nép trên ghế, hai tay đặt lên gối theo thói quen, chỉ nói khi được hỏi và gật đầu tỏ vẻ tán đồng mỗi khi ông nhắc đến điều gì quan trọng.

    Như những người ở tuổi mình, phó vương rất thích cái cách cậu trai trẻ này hôn tay ông với thái độ ân cần, rồi lễ phép trao cho ông thanh gươm lưỡi cong của người Thổ mà cậu đoạt được trong trận thủy chiến ngoài khơi Hy Lạp. Thích cả thái độ kính trọng, rụt rè trong giọng nói khi cậu ngượng ngùng gọi ông là: “ dượng kính mến của cháu.” Dù rằng hàng ngày Alroy vẫn nghe hàng tá những câu chúc tụng kiểu ấy, nhưng biệt tài của Flavio là lặp lại cũng những lời như vậy, với vẻ thành thật đáng kinh ngạc.

    _Ta muốn cháu kể chi tiết hơn về trận hải chiến nọ, như thế không có vấn đề gì chứ?- Alroy vội đổi đề tài khi cảm thấy mình dần bị cuốn vào cảm giác thỏa mãn và tự cao mà những người nắm quyền lực lớn thường có khi ai đó làm họ vừa lòng, dù biết rằng mình không nên như thế.

    Flavio bắt đầu kể trong khi phó vương vẫn ngồi suy nghĩ rất lung. Những câu dài và lối kể quá chi tiết của đứa cháu nhỏ khiến ông chú tâm vào vẻ thành thực và nhiệt tâm của cậu hơn là nội dung câu chuyện, nhưng sau một lúc, bức tranh toàn cảnh về những điều đã xảy ra cũng tìm đuợc cách len lỏi vào đầu phó vương.

    Đầu tiên là cảnh cháu ông đứng tựa lưng vào mạn tàu, lơ đễnh xem mọi người tất bật với công việc hằng ngày như thường lệ. Nguyên văn của Flavio vốn là:” cháu đang giở mũ chào và làm dấu thánh khi chiếc Neptune lướt quanh một mũi đất hiểm trở, có tòa tu viện nằm chênh vênh bên vách đá.” Phó vương đã nhiều phen qua lại vùng biển ngoài khơi Hy Lạp, nên ông hiểu “ hiểm trở “ ở đây là như thế nào. Các dãy đá ngầm sắc lẻm, những ngọn sóng hung hăng chực lôi thuyền vào bờ đá, nước triều lên xuống thất thường, chưa kể gió mạnh và mưa giông rất thường xảy ra. Trong hoàn cảnh đó, phải cho người dò độ sâu liên tục, xem xét hướng gió, thủy triều, kiểm tra la bàn để tránh lạc hướng hoặc đắm tàu. Sở dĩ cháu ông có thể nhàn hạ ngắm cảnh là vì đám thủy thủ người Anh nể mặt anh họ nó hoặc họ ngại vướng chân vướng tay. Tuy vậy, khi phó vương hỏi lại kĩ càng thao tác của đội thủy thủ, cách thuyền trưởng điều khiển con tàu, lòng ông chợt dâng lên một nỗi lo vô hình, và ông cảm thấy quyết định trọng dụng viên thuyền trưởng người Anh của con trai ông không còn vô lý như trước nữa.

    Chờ một lúc không thấy dượng nhận xét gì, Flavio lại tiếp tục, nỗi ngượng ngùng lúc đầu giờ nhường chỗ cho sự nhiệt tình tuổi trẻ. Cậu huơ tay, sử dụng nhiều điệu bộ, cố thể hiện không khí hoảng hốt và khẩn trương trên tàu khi người thủy thủ trên đỉnh cột buồm trông thấy hai bóng nâu đe dọa lồ lộ hiện ra từ hỏn đảo phía nam. Có lẽ chúng đã mai phục từ lâu giữa những vịnh nhỏ vốn rất thường gặp ở vùng biển này và chỉ chờ dịp xông ra ép con mồi vào vùng nước nguy hiểm gần các dãy đá ngầm. Theo trí nhớ của Flavio, cậu chưa từng nghe thấy nhiều lời chửi rủa và quát nạt trong một khoảng thời gian ngắn như vậy. Cả thuyền trưởng, thuyền phó, hoa tiêu, trưởng đội lính thủy đều hoa chân múa tay, ngược xuôi ngang dọc khắp chiếc chiến thuyền, đại bác được nhồi sẵn đạn, những hòm lớn chứa súng và đoản kiểm nhanh chóng cạn sạch, nhiều người vũ trang đầy đủ tranh thủ chiếm lĩnh các cao điểm để có tầm bắn tốt hơn. Khung cảnh nhộn nhạo không thể tưởng được.

    _Vậy lúc đó cháu làm gì?- Alroy hỏi, dù biết rằng khó mà nhận được một câu trả lời thỏa đáng. Qủa nhiên, cháu ông im lặng một lúc rồi ngượng ngùng bảo là thuyền trưởng liên tục yêu cầu cậu trở về cabin chính với những thành viên còn lại của đoàn sứ thần. Đó là điều thật sự đáng tiếc vì cậu đã bỏ qua hầu hết cuộc rượt đuổi, đấu trí giữa chiếc chiến thuyền với tàu hải tặc, chỉ mơ hồ bảo rằng có nhiều cú chuyển hướng rất gấp làm thân tàu rên lên phản đối, sau đó thì hàng loạt tiếng nổ lớn làm tai cậu điếc đặc. Đến khi cậu không cản nổi lòng hiếu kì rồi xông thẳng lên boong chính, một trong hai tàu địch đã bị đánh đắm, chiếc còn lại đang chạy song song với Neptune, gần đến nỗi có thể giơ tay ra mà chạm tới được.

    Ngài phó vương cố nén một tiếng thở dài, vì ông xuất thân là sĩ quan hải quân nên dù đã già và cũng thôi chỉ huy hạm đội từ lâu, những cuộc rượt đuổi trước khi hai tàu giáp chiến mạn đối mạn luôn khiến ông hứng thú. Đẳng cấp chỉ huy, tài ứng biến của thuyền trưởng bộc lộ rõ nhất ở màn vờn nhau này, nếu khéo léo, một con thuyền nhỏ có thể đánh bại kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần. Thế nên cũng dễ hiểu khi phó vương hết sức tò mò, muốn biết cho rõ ngọn ngành chiến thuật của thuyền trưởng người Anh, nếu Flavio không giải đáp được thắc mắc này, ông sẽ tìm cách moi được nó từ đám sĩ quan trên tàu, việc này đòi hỏi phải tiến hành bí mật để khỏi mất mặt với viên thuyền trưởng.

    Nghĩ đến đó, Alroy chợt cảm thấy dễ chịu, ông thôi không làm cháu mình bối rối vì những câu hỏi khó nữa, cứ để cậu huyên thuyên về vụ hỗn chiến trên tàu, về đám mây khói súng đã che mờ cả ánh mặt trời, mặt biển thì xám xịt, dập duềnh những mảnh ván vỡ nát, thỉnh thoảng lại rực lên sắc đỏ khi tia lửa đồng loạt phụt ra từ các họng pháo. Flavio nói rằng cậu thấy bản thân mình chẳng là gì cả, mắt cay xè vì khói, tai ù đi và đầu kêu oong oong giữa tiếng gầm của đại bác. Những bài học đánh kiếm trở nên vô dụng khi thủy thủ phe địch ồ ạt lao đến bất kể sống chết. Cậu đã mấy lần trượt ngã trên boong tàu nhầy nhụa những máu, những dây tời và ròng rọc cháy xém, và cả xác người. Khung cảnh điên loạn ấy dường như kéo dài bất tận, những đám cháy bùng lên rồi chợt tắt, dấu hiệu chiến thắng duy nhất có lẽ là tiếng la ó và tiếng súng nổ giờ đã chuyển sang boong tàu địch…

    Họ thắng trận với một cái giá khá đắt, Jame bị một quả đạn pháo tiện đôi người, viên hoa tiêu già đau khổ gục xuống bên xác đứa cháu nhỏ, nhiều người mà Flavio không nhớ nổi tên cũng đã chết, số khác phải mang thương tật suốt đời... Trước khi kết thúc, cậu tử tước đột nhiên có vẻ rất trầm tư. Đây là lần thứ ba cậu phải kể lại chuyện này. Trong vòng một tháng tới, Flavio hiểu rằng mỗi tối tiếp tân mà mình được mời, sẽ có những người hoặc thành tâm, hoặc vì phép lịch sự mà đòi hỏi cậu kể đi kể lại chuyện cũ này. Cứ như vậy, phần sự thật sẽ càng ít đi và vì giữ thể diện, vai trò của cậu trong câu chuyện sẽ ngày một lớn hơn. Nhưng kể ra thì mầm mống của sự dối trá đã bắt đầu từ chiều hôm qua rồi, khi cậu nói với anh trai là mình chỉ xem thuyền trưởng như một người bạn lớn.

    Hai người im lặng một hồi lâu. Alroy ngã ra sau ghế, nhắm mắt lại. Flavio hiểu cử chỉ ấy như một dấu hiệu yêu cầu cậu rời đi. Lẽ ra ông có thể ngăn cậu lại, nhưng lại không làm thế. Từ nhiều năm trước, mẹ của Flavio từng cố tìm mọi lí do để các con bà được thường xuyên đến thăm gia đình người anh rể vì bà đã tiên liệu một tương lai cho con trai mình tại đây. Kế sách đó tỏ ra khá thành công, tuy Flavio không tỏ ra đắc dụng như Renato, nhưng cậu lại rất thân thiết với hai vợ chồng phó vương. Ôi! Ông đã vạch sẵn cho đứa cháu này một tương lai tươi sáng biết bao nhiêu, vậy mà sự can thiệp của Nuvola đã làm rối tung hết mọi sự.

    Còn lại một mình trong phòng, Alroy chợt thấy mình cũng giống một lão nhà quê bơ vơ nào đó, ngồi tiếc rẻ tuổi xuân đã qua và cam chịu già đi một cách vô ích, mất dần sự cương quyết và tài lãnh đạo. Sáu tháng trước, cũng trong căn phòng này, ông đã có một cuộc cãi vã nảy lửa với Nuvola, dù rất ghét cái lối mỉa mai châm chích, thói đa nghi và ưa nghĩ xấu về người khác của đứa con thứ, nhưng giả thiết con trai ông đặt ra trước khi từ nhiệm lại có sức hấp dẫn mãnh liệt và đáng sợ đến mức Alroy không thể làm ngơ được.

    Ông bước đến ô cửa sổ trông xuống bờ vịnh, cố gợi lại những lời Nuvola nói tối hôm ấy. Nhưng cảnh quan tuyệt diệu bên ngoài chỉ khiến ông càng quên nhanh hơn. Mặt biển xanh như ngọc, sóng biển phủ lên pho tượng hải vương những hạt nước bé xíu, lấp lánh. Thế rồi ánh mắt Alroy quét thấp xuống, trên con đê chắn sóng phía nam, một gã vận áo khoác màu rượu chát dường như đang nhìn chằm chằm về phía ông. Phó vương vội chụp lấy chiếc viễn kính trên bàn làm việc, muốn nhìn cho rõ kẻ to gan nọ là ai nhưng gã đã vội quay lưng bước về phía cảng chính, rồi tiếng gõ cửa dồn dập khiến sự chú ý của ông bị phân tán. Ông bực dọc quát lên:” Cứ vào “ và quay người lại, cuộc đàm thoại sau đó còn khiến ông giận dữ hơn nhiều.
     
  15. keyis123

    keyis123 Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    6/7/09
    Bài viết:
    372
    vẫn chưa ra bản mới àh :| đang hay :)
     
  16. Machiavelli

    Machiavelli Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    6/11/08
    Bài viết:
    136
    Nelson ngoái lại nhìn tàu gale của địch, lòng nặng trĩu âu lo. Nó đã đối hướng chạy, cố lao vào đuôi chiếc Neptune theo một đường thẳng. Vào lúc bình thời, nếu anh hạ lệnh giương hết buồm, con sâu biển ngoan cố kia đã bị bỏ lại từ lâu, còn như đánh đắm con tàu nọ thì càng dễ dàng hơn: giả vờ hỗn loạn, hạ bớt buồm mũi và buồm chính, chờ khi kẻ địch vào tầm bắn chính xác thì bẻ ngoặt một cú về bên trái rồi mười sáu khẩu pháo bên mạn tàu sẽ thổi tung mũi tàu địch, vô hiệu hóa hỏa lực của chúng và tiếp tục oanh kích cho tới khi quân thù đầu hàng hay bị nhấn chìm. Đó là một kịch bản hết sức dễ dàng, từ lâu đã được các thuyền trưởng Tây Âu dùng đối phó với các tàu gale đi lẻ.

    Tình huống lúc ấy lại không cho phép anh làm thế. Chiếc gale chỉ là mối lo nhỏ, nhưng một tàu đáy bằng của địch đang chạy song song với mạn trái chiếc chiến thuyền. Kẻ thù ranh mãnh giữ mình nằm ngoài tầm đại bác của con mồi- mà nó biết là mạnh và kiên cố hơn mình- nhưng vẫn chú tâm theo dõi, không bỏ sót dù chỉ một chuyển động nhỏ nhất.

    “ Giương buồm ngọn lên “- Nelson hét giục viên đội trường thủy thủ quản lí buồm, đấy là quyết định anh hết sức tránh cho đến thời điểm này, tự hỏi mình nhận định có đúng không? Hiện họ đang tiến thuận gió, cứ đà này chỉ sau nửa giờ, chiếc gale sẽ bị bỏ hẳn lại phía sau, khi đó tàu cướp biển còn lại sẽ không dám một mình gây hấn với chiến hạm vượt trội nó về hỏa lực. Dù vậy, bên mạn phải chiếc Neptune lại sừng sững các vách đá dựng đứng, tuy trước mắt họ mặt biển trải rộng mênh mông nhưng hiểm họa bị mắc cạn hoặc va phải đá ngầm lúc nào cũng rình rập.

    Từ trên sàn lái, Nelson chăm chú quan sát chiếc gale mà mình đang dần bỏ lại, các tay chèo bên mạn trái tàu gale lỡ mất một nhịp, rồi lại một nhịp nữa trong khi những mái chèo dài bên mạn phải vẫn nhịp nhàng lịa mạnh xuống mặt nước. Không để dấu hiệu ấy xuất hiện đến lần thứ ba, Nelson thảng thốt gào lên: “ Thả neo mạn trái” đồng thời xoay mạnh bánh lái. Thân tàu phát ra những tiếng kẽo kẹt nguy hiểm, cả mũi và đuôi tàu đều sủi bọt, các cánh buồm căng phồng kêu lốp bốp như tiếng súng nổ, dây neo đứt tung kèm theo một cú giật mạnh làm mọi người loạng choạng. Tiếp đó lại có một va chạm rất mạnh, làm hai trăm người ngã nhào ra boong chính, chiếc chiến thuyền nghiêng về một bên rồi từ từ lấy lại thăng bằng, tiếp tục rẽ nước theo hướng mới, gần như vuông góc với đường chạy cũ về phía trái.

    Phần lớn thủy thủ trên tàu vẫn chưa hiểu chuyện gì vừa xảy ra, một vài người nhanh nhẹn chạy đến quan sát bên mạn phải. Mặt biển đục ngầu, bùn và cát cuộn lên một màu vàng quạch, ban đầu họ ngạc nhiên ngẩn người ra, rồi họ văng tục, nguyền rủa cái bẫy chết người của lũ cướp biển. Nếu viên thuyền trưởng không đổi hướng kịp thời, con tàu hàng trăm tấn đã lao thẳng vào bãi cát ngầm và mắc kẹt ở đó mãi mãi, tha hồ phơi mình ra cho kẻ địch cướp phá. Nửa giờ sau đó, hai bên còn tiếp tục lượn vòng, đánh lừa, thay đổi đường chạy liên tục. Điểm khác biệt là tinh thần của bọn cướp biển đã cùn nhụt trong khi đoàn thủy thủ Anh quốc lại chất chứa đầy oán hận và khao khát trả thù. Vào lúc Flavio không chịu nổi cảnh buồn tẻ dưới cabin mà quyết ý tham gia chiến đấu cùng mọi người, chiếc gale đã bị trọng pháo đánh đắm…

    Nelson sải những bước dài trên con đường xuôi xuống bến cảng, không khí đượm mùi của biển và mùi cá, nước triều đã rút, phơi ra các bến, các kè đá bám đầy hà… Một con tàu lớn đang dỡ hàng, nhịp sinh hoạt của thành phố vẫn bình thường, không có tiếng chuông đánh dồn dập mà cũng chẳng có các toán quân tất bật khám xét người qua đường.Dù vậy, anh vẫn không kìm được một tiếng rủa, chẳng hiểu thứ linh hồn xui rủi nào đã khiến phó vương bắt gặp anh khi ấy.

    Ngay khi hai người hoảng hốt nhận ra sự hiện diện của đối phương, vì trẻ hơn và đã chuẩn bị trước cho những tình huống thế này, anh liền kéo sụp mũ xuống và quay người bước nhanh nhưng vẫn kịp nhìn thấy cánh tay của phó vương dịch chuyển. Lúc đó Nelson đã trông chờ một viên đạn, thậm chí nếu ông ta không bắn trúng, tiếng súng sẽ đánh động các toán hiến binh trên cảng và anh hoặc bị tóm gọn hoặc phải liều lĩnh nhảy xuống biển. Vậy mà thật ngạc nhiên là anh có thể rời đi mà không hề bị truy đuổi.

    ‘ Chiếc mũ lông, áo choàng và cả bộ áo dạ màu rượu chát đều phải đốt bỏ, còn thanh gươm… không thể bỏ được vì là quà tặng của hoàng thân, nhưng mình sẽ tránh không đeo nó nếu có dịp đến lâu đài.’- Nelson tiếc rẻ mân mê bộ ria mép rất đẹp của mình ,quyết rằng sẽ cạo bỏ ngay khi về đến cabin. Nhưng những thứ ấy chẳng đáng là gì nếu so với nỗi nghi ngờ đang giày vò anh. Sau chừng ấy năm, một tia hi vọng mong manh lại xuất hiện… thế rồi hành động thiếu suy nghĩ vừa qua đã làm mọi chuyện trở nên khó khăn biết bao nhiêu…

    Viên thuyền truởng sải những bước dài nhưng không bỏ chạy, và không hề nhầm lẫn hay chần chừ trước mỗi ngõ quẹo hay khúc quanh. Nhác trông thấy một đội tuần tra cảng, anh đi chậm lại nhưng vẫn giữ thái độ kiêu kì của một nhà quý tộc. Người trưởng đội tuần tra gật đầu chào Nelson nhưng bản thân anh lại không nhận ra y, chỉ khẽ đáp:” grazie” vì phép lịch sự đơn thuần. Vừa vượt qua toán lính, anh rẽ vào một con phố tồi tàn, từ đấy có thể vòng ra cầu cảng nơi chiến Neptune đang được sửa chữa.

    Một đám độ bốn-năm đứa trẻ lem luốt rượt đuổi nhau trên đường, đứa nhỏ nhất trạc sáu- bảy tuổi, bị bọn kia xô đẩy, mất đà lao vào người Nelson. Cố giữ để khỏi ngã xuống mặt đường, nó giơ tay nắm lấy vạt áo khoác của viên thuyền trưởng và làm đứt mất chiếc cúc bạc đính trên áo.

    _Scusa- thằng bé ngước mắt nhìn Nelson, sắc mặt trắng bệt và hoảng loạn, thấy anh không đáp, nó lại xin lỗi một lần nữa và bối rối như sắp khóc.

    _ Vattene via - anh phẩy tay, ra dấu bảo nó đi đi, nhưng thằng bé vẫn ngơ ngác đứng đó trong lúc đám bạn lo lắng khép nép phía xa, “se ne vada “- Nelson thử một từ khác, trong lòng bực bội vì không biết diễn đạt sao cho đúng, nhưng có vẻ thằng bé đã hiểu. Nó lóng ngóng cảm ơn anh rồi vội chạy theo chúng bạn.

    Vụ va chạm bất ngờ khiến Nelson quên bẵng chuyện phải trở về tàu, anh dừng lại ở một quán nhỏ bên đường, tự thưởng cho mình vài cốc vang ngọt rồi lần tìm túi tiền ở thắt lưng nhưng chỉ cảm thấy nhẹ hẫng một cách đáng lo ngại. Anh xem kĩ lại lần nữa và kinh hoàng nhận ra dải dây buộc túi đã bị cắt mất.

    _Là đứa bé…- Nelson lắp bắp rồi im bặt, mặt anh đỏ bừng lên vì giận dữ và xấu hổ, lão chủ quán mỉm cười gượng, kiên nhẫn đợi. Cách phục sức của vị khách quá sang trọng, lão không dám làm căng, nhưng cũng không cam chịu bị mất vốn, mọi người đều lúng túng và ngượng ngập.

    _Non ho soldi- anh ngượng ngùng thú nhận mình chẳng còn đồng nào, rồi vội vàng nói thêm- Tiền của tôi bị mất cắp… mất cắp, ông hiểu không… tôi không có gì để trả cho ông cả. Nhưng ông có thể giữ thanh gươm để làm tin nếu muốn.

    _Soldi, signore- lão chủ quán vẫn kiên trì, vẻ mặt ngày càng lo lắng.

    Nelson chợt cảm thấy ngán ngẩm, trên mặt biển, anh là thuyền trưởng – tức là cũng ngang quyền với bất kì ông vua chuyên chế nào trong lãnh thổ của mình-.Ngay cả trên đất liền, đến phó vương cũng không làm anh mảy may tổn hại được. Có ai ngờ, trong một quán rượu tồi tàn, chỉ vài đồng xu cỏn con lại làm anh chết cứng. Anh cố lảng tránh cái nhìn của ông chủ quán, liếc trông ra cửa sổ, rồi đứng bật dậy và gọi to tên người thanh niên vừa lướt ngang qua, mừng thầm là danh dự bản thân đã được cứu. Nhưng vừa trông thấy gương mặt lo lắng của cậu trai trẻ ấy, lòng anh lại dậy lên một linh cảm chẳng lành
     

Chia sẻ trang này