ha ha chủ box bị interpol lùng nên ẩn cư rồi hôm nay bunkerbuster bom phá ngầm Function: Free-fall penetration bomb (guided when equipped as JDAM or Paveway) Length: 7 ft 11 in (2.4 m) Diameter: 14.6 in (370 mm) Weight: 1,927 lb (874 kg) Range: Varies by method of employment GBU 10 Primary Function: unpowered guided weapon Length: 14 ft 4in (3.84 m) Diameter: 18 in (460 mm) Range: More than 8 nm (14.8 km) GBU 15 Primary Function: 2,000-pound unpowered, television or infrared guided weapon Length: 12 ft 10 in (3.9 m) Diameter: 18 in (457 mm) Wingspan: 4 ft 11 in (1.5 m) Range: 5 to 15 nautical miles (9 to 28 km) GBU 24 Primary Function: 2,350 lb (1,066 kg) unpowered guided weapon Length: 14 ft 2in (4.32 m) Diameter: 14.6 in (370 mm) Range: More than 10 nm (18.4 km) GBU 27 Primary function: 2,000 pound (900 kg) unpowered, hard target laser guided weapon Length: 13 ft 10 in (4.2 m) Diameter: 2 ft 4 in (711 mm) Wingspan: 5 ft 5 in (1.65 m) Range: More than 10 nautical miles (19 km) GBU 28 Primary Function: 5,000 pound (2,268 kg) unpowered, hard target laser guided weapon Length: 25 ft (7.6 m) Diameter: 2 ft 4 in (711 mm) Wingspan: 5 ft 5 in (1.7 m) Range: More than 5 nautical miles (9 km) AGM 130
Cám ơn black octopus đã giúp tui trong lúc lẩn trốn Thứ 7 là sinh nhật tui nên đưa đợt hàng mới lên ăn mừng M270 Multiple Launched Rocket System "Steel Rain" M109 Paladin
cho buôn với tui buôn hàng hạng nặng Pháo tự hành tầm xa M107 175-mm, tự hành nhưng không bọc thép khi chiến đấu, lắp pháo M113, cal 60. Bắn đạn nặng 66,6kg sơ tốc 914 mét/giây, tầm bắn trên 30 km. Trong Chiến tranh Việt Nam được sơn chữ "Vua chiến trường" lên nòng. Thể hiện nhược điểm không bọc thép và cơ khí hóa nên bắn rất chậm (tối đa 3 phát phút, ở chiến trường Việt Nam tối đa chỉ 2, dễ tổn thương khi đấu pháo với M-46 130mm. Tổ chiến dấu 8 người rất dễ tổn thương, làm việc khó khăn. Pháo tự hành tầm xa 2S7 Nga, cỡ nòng 203 mm, tầm bắn 55 km. Hơi khác M107 ở hệ thống nhồi đạn cơ khí hóa. cỡ nòng 203 mm. 2S7 có máng nạp đạn thủy lực, như cánh tay người máy bên phải xe, tổ chiến đấu không phải mang đạn và liều lên mặt xe, tốc độ bắn cao và ổn định hơn M107. Lavochkin OKB S-75 ([Tiếng Nga) С-75, tên được NATO gán SA-2 Guideline hay Sam 2, là một loại tên lửa tầm cao do Liên Xô chế tạo. Kể từ lúc được đưa vào ứng dụng lần đầu vào năm 1957, S-75 nhanh chóng trở thành loại tên lửa phòng không được sử dụng nhiều nhất trong lịch sử ngành quân sự. Năm 1960, SA-2 đã bắn hạ chiếc U-2 của lực lượng Không quân Hoa Kỳ (U.S. Air Force (USAF)) khi nó đang bay trên bầu trời Xô Viết. Sau đó vài năm, lực lượng cách mạng miền Bắc Việt Nam đã sử dụng tên lửa này chống lại quân đội Mỹ, bảo vệ Thủ đô Hà Nội và Hải Phòng. Ngoài ra, S-75 còn được dùng tại Trung Hoa Dân quốc dưới tên gọi HQ-1 và HQ-2
An Anti Tank (AT) mine in sand A "Claymore" type anti-personnel mine (MRUD Yugoslavia) POMZ or PMRD6 Chinese PMN-1 mine in Afghanistan and southern Africa US made M19 Anti Tank mine Croatia and Bosnia Herzegovina PROM-1 The Italian VS-50 minimum metal min PMA-1 box mines
cho em gửi mấy con đầu đạn này ở đây nhá ! Để ở nhà ông già vặt cổ mất ! SS-4 Sandal TL đạn đạo tầm trung ss-4 thực chất là phiên bản nâng cấp của SS-3.Nó xuất hiện vào năm 1958 vạ là loại tên lửa chính trong cuộc khủng hoảng TL tại Cu-ba năm 1962.SS-4 được chuyên chở trên các xe kéo đặc biệt.Đưa tên lửa lên bệ phóng là 1 quá trình tiêu tốn rất nhiều thời gian.Tiếp nhiên liệu trực tiếp trước khi phóng.Thời kì đầu SS-4 được dẫn đường bằng Vô tuyênd điện,nhưng đến năm 1962 với sự xuất hiên của máy dẫn đường quán tính,phương án này được thay đổi.SS-4 sandal được trang bị cho Lục quân với số lượng đáng kể.Nhưng từ sau năm 1977 nhg phiên bản nâng cấp mới hơn đã thay thế cho SS-4.Tuy vậy SS-4 chỉ chấm dứt hoạt động hoàn toàn vào cuối nhũng năm 1980. Thông số chính: DIA SS-4 SS-4 NATO Sandal Sandal Dátum rozmiestnenia 3/4/1959 5/30/63 Typ hlavice Single Single Hlavice 1 1 Mohutnosť (Mt) 1-1.3 / 2-2.3 1-1.3 / 2-2.3 Náklad (t) 1.3 -1.4 / 1.63 1.3 -1.4 / 1.63 Celková dĺžka (m) 22.1 - 22.77 22.1 - 22.77 Dosah(km) 2,080 (2,000) 2,080 (1,800 - 2,000 SS-5"Skean" Đây là lớp tên lửa vượt đại châu đầu tiên của Liên Xô.SS-5 được giới thiệu như là phiên bản nâng cấp của SS-4 nhưng có những bước tiến về kĩ thuật.Những thông tin đầu tiên về "Skean"được xuất hiện ở Phương Tây vào năm 1964,nhưng sự thật là nó có mặt trong LLVT Xô-viết Sớm hơn từ 2 đến 3 năm.SS-5 là 1 trong nhũng lớp tên lửa đầu tiên hoạt động thiếu sự ổn định khí động học.Trong quá trình bay có những ống phun đặc biệt để đảm bảo tính ổn định..Béc-tơ kéo được bố trí theo góc gần của quĩ đạo bay-đảm bảo sự quay của tên lửa khi bay.Có hàng trăm tên lửa SS-5 được bố trí trong các hầm ngầm trên khắp lãnh thổ LX.Dần dần nó được thay thế bằng nhiên liệu phóng ổn định.Phần lớn SS-5 bị loại khỏi biên chế vào giữa nhũng năm 1970