Lịch Sử Việt Nam

Thảo luận trong 'Kỷ niệm Hội Vườn Đào' bắt đầu bởi trungyhth, 24/11/04.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. batigol_19852002

    batigol_19852002 Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    6/9/04
    Bài viết:
    86
    Nơi ở:
    Hải dương
    tạm gác những bức súc sang 1 bên. hôm nọ lần đầu tui vào phần hội vuờn đào thấy có nói về lịch sử việt nam, tui cũng thích tìm hiểu về lịch sử nước nhà có nhiều điều cần hỏi cần tìm hiểu để mở mang đầu óc nhưng hôm đó do đang mang tâm trạng bực mình về mấy chuyện tuyển quân nên quên mât không đưa ra những câu hỏi về lịch sử mà mình không biết nhưng hôm nay bình tĩnh lại và tui muốn hỏi 1 số điều sau:

    1, theo sách "những triều đại việt nam" tui đã đọc thì thấy nói vị vua đầu tiên của nước ta là Kinh Dương vương túc "Lộc tục" mà sách lại nói ông này là con cháu của vua thần nông bên trung hoa nên tui thắc mắc phải chăng ngày xa xưa nước ta và trung Hoa có chung một thuỷ tổ. Vẫn biết theo truyền thuyết thì nước ta được sinh ra từ Lạc Long Quân ( Sùng Lãm , là hậu nhân của Kinh dương Vương) và Âu Cơ nhưng truyền thuyết vẫn chỉ là truyền thuyết còn lích sử lại luôn là sự thật.
    2, cũng đọc sách đó tui lại có 1 thắc mắc nữa , khi tìm hiểu đến triều Trần tui đọc thấy trong các con của Trần Cảnh có 1 vị tên Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang( ông này theo lịch sử thực ra là con của Trần liễu) không biết ông này có phải là Cha của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản Không qua chương trình lịch sử giảng dạy ở trường lớp lúc truớc tui học thì không thấy nói đến gia thế của Trần quốc Toản nên không biết Cha của ông là ai và Hậu nhân của ông là ai mà chỉ biết đến sự tích bóp nát quả cam và những chiến công cùng quân dân nhà TRần đánh giặc Nguyên thôi
    3, Người Chiến sĩ lái xe tăng húc đổ cổng dinh độc lập có phải là Bùi Quang Thận( hinh như tên vậy tui cũng không nhớ chính sác lắm) hay là nguời khác có dạo tui thấy bạn bè nó nói người được nêu tên trong sách lịch sử được học ở trường không phải là người húc đổ cổng dinh độc lập mà là 1 chiến sĩ khác còn người được nêu tên là kẻ " cươp công Thạch Sanh" điều này làm tui thắc mắc mãi bây giờ mới có dịp để hỏi nên có ai biết thì xin giải đáp cho tui với.
     
  2. therebex

    therebex T.E.T.Я.I.S

    Tham gia ngày:
    21/12/03
    Bài viết:
    622
    1. Người Việt, người Hoa, người Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật ... tất cả đều có chung một quê hương là châu Phi và tất cả đều có chung một thủy tổ là ... khỉ đó bác.
    Tui hổng quan tâm đến ba cái dòng dõi, văn hóa, tộc này tộc nọ bao giờ, có khi vài trăm năm trước tổ bác và tổ tôi là anh em ruột chưa biết chừng đó. Tui chỉ quan tâm đến chiến tranh là chết chóc và đau khổ thôi.
    2. Trời đất, nếu bác không biết bác hãy hỏi cô giáo dạy sử của bác, suy đoán lung tung tội nghiệp ông Quốc Toản chết. Ông ấy là con của Hoài Đức Vương Trần Bá Liệt đó. Mà ông này là con của ông Trần Thừa.
    3. Người húc cổng quả nhiên là ông khác. Hổng phải ổng "cướp công Thạch Sanh" đâu mà lúc húc đổ cổng thì có phóng viên nào quay phim đâu. Sau đó mọi người muốn quay lại giờ phút lịch sử đó mới dùng một chiếc khác để quay đó chứ.
    Các bác có xem đoạn phim Hit-le và người tình của Eva tự sát không ? Đoạn phim ấy được xem là đoạn phim tư liệu đó (tất nhiên rồi vì Hit-le thật tự sát ai dám quay phim ?) vì ông đóng Hit-le giống y như thật. Cái này cũng thế
     
  3. wiwi

    wiwi The Pride of Hiigara

    Tham gia ngày:
    31/1/04
    Bài viết:
    9,401
    Nơi ở:
    *ADULT CONTENT*
    câu (1) therebex chơi trò đánh trống lảng :)) :
    thật ra thì dân tộc chúng ta hoàn toàn không có quan hệ gì với Trung Hoa nếu bạn muốn nói chính xác về dân tộc bởi vì người Việt cổ đã tiến hóa trực tiếp từ vượn người chứ không phải là dân phương Bắc di cư vào. Về chuyện thần thoại thì khó nói lắm nhưng theo sách sử thì quả đúng là một trong các hậu duệ của Hoàng Đế (vị vua trong thần thoại của Trung Hoa, lại "thần thoại" :))) đã di cư xuống phương Nam. Tuy nhiên, lúc này thì các tộc người Việt Cổ đã hình thành rồi nên chắc chắn dân Việt không phải hậu duệ của dân Tàu :D!
     
  4. batigol_19852002

    batigol_19852002 Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    6/9/04
    Bài viết:
    86
    Nơi ở:
    Hải dương
    rất cảm ơn các bác giải đáp hộ những thắc mắc của tui để tui hổng còn suy doán lung tung nữa nhùn các bác vẫn chưa trả lời kỹ lắm
    trần Bá Liệt ông này là con của thượng hoàng Trần Thừa theo sách tui đọc có nhắc đến thì phải nhưng mà do đọc lâu rồi cũng quên hình như ông này là con riêng của Trần Thừa đúng không và ông này chỉ chính thức được công nhận khi Trần Thừa nhận Ra mảnh áo tía của mình năm xưa cắt trao cho mẹ Trần Bà Liệt chính là chiếc khăn chít trên đầu của của Trần Bá Liệt khi ông này đi thi đấu vật đúng hông.
    Còn Nữa khi học qua sử sách thì tui rất quan tâm đến những người xung quanh Trần Quốc toản Nhung mà máy sách lịch sử thông thường chỉ nhắc đến những triều đại với nền móng chủ yếu là các công thần có công hiển hách đặc biệt như ở triều Trần thì chỉ thường nhắc đến Trần Cảnh , Trần Thừa, Trần Liễu, Trần Thủ độ, Trần quang khải, Trần hưng Đạo, trần Bình Trọng và nhà ngoại giao tài ba Trần nhật duật ( Những nhân vật nổi Bật đầu thời trần) Và Trần quốc toản nữa là bậc hậu sinh của những ông này ngoài ra thì những nhân vật khác thì chỉ nói sơ qua thôi. nên bác nào am hiểu hãy post 1 số tư liệu về những nhân vật cụ thể sau: Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, Hoài văn Hầu Trần Quốc Toản, Và Chiêu Thành vương ( vị Nay Thì tui học văn học bài nói về Trần Quốc Toản ( Không nhớ là ở lớp mấy vì tui học song thpt mấy năm nay rồi) vị này là chú ruột của trần quốc toản thì phải không biết ông tên gì nhỉ.
    mong các bác hãy giải đáp hộ để tui đỡ di phần nào những hiểu biết nông cạn
     
  5. therebex

    therebex T.E.T.Я.I.S

    Tham gia ngày:
    21/12/03
    Bài viết:
    622
    Chiêu Thành Vương hổng biết tên bạn à, không thấy sử sách chép tên ông ấy
    Trần Bá Liệt đúng là "con rơi, con rớt" của Trần Thừa
     
  6. batigol_19852002

    batigol_19852002 Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    6/9/04
    Bài viết:
    86
    Nơi ở:
    Hải dương
    theo bac noi Trần Bá liệt chính là thân phụ của trần Quốc Toản phải không cai này thì quả thật tui không biết nên hiểu lầm chết thật vậy mà tui cứ nghĩ.....
    nhưng diều giải đáp của bác lại làm tui thắc mắc thêm đấy
    nếu theo bác nói Trần Quốc Toản là con của Trần Bà Liệt thì => Trần Quốc toản Có vai vế Ngang hàng với Trần Nhật Duật Và Trần Quang Khải ( Anh em Họ Đó mà) nhưng sao trong Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng Thì Quốc Toản là cháu của mấy ông kia thế mới lạ chứ còn nữa có đoạn nói Quốc toản với vua Thiệu Bảo ( Trần Khâm cháu Nội của Trần Cảnh, là Vua Trần Nhân tông) là anh em họ vậy là sao nhỉ ,hay do bác Nguyễn Huy tưởng tác Giả chuyện này già nên lú lẫn viết nhầm chính điều này làm tui thắc mắc
     
  7. therebex

    therebex T.E.T.Я.I.S

    Tham gia ngày:
    21/12/03
    Bài viết:
    622
    Trời, bác quật mả ông Huy Tưởng lên mà hỏi ý, chứ nghi ngờ Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên là không tốt đâu he he :)) :)) Bác đừng quên "Lá cờ thêu sáu chữ vàng" là tác phẩm văn học chứ không phải chính sử, tác giả phải thêm thắt tình củm vô sách mới bán được chứ
     
  8. batigol_19852002

    batigol_19852002 Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    6/9/04
    Bài viết:
    86
    Nơi ở:
    Hải dương
    Bó tay luôn, quật mồ bác nguyễn huy tưởng tội chết, trời đánh chết ngay tại chỗ ấy chứ thôi tôi cung khỏi thắc mnắc lkàm gì nũa, mà bác tìm hiểu gì thêm về Trần Quốc Taỏn nữa không nói cho tui biết nhé
     
  9. tuankiet_1988

    tuankiet_1988 Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    21/2/05
    Bài viết:
    128
    Nơi ở:
    hồ chí minh
    sao buồn qua vậy gì thêm về Trần Quốc Taỏn nữa không
     
  10. Odisey

    Odisey The Miscast Sorcerer GVN LEGENDARY ‍ ⚚ Mystic Mage ⚚ GVN Dalit

    Tham gia ngày:
    24/6/03
    Bài viết:
    40,790
    Nơi ở:
    Hồ Chí Minh
    Hội Vườn Đào đây sao :-/
    1 câu hỏi thôi , ai hiểu sao thì hiểu
     
  11. wiwi

    wiwi The Pride of Hiigara

    Tham gia ngày:
    31/1/04
    Bài viết:
    9,401
    Nơi ở:
    *ADULT CONTENT*
    em không hiểu, bác nói rõ hơn nữa được không :))
     
  12. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814
    Trần Cảnh (1218-1277) lên làm vua lấy hiệu là Trần Thái Tông, cha là Trần Thừa làm Thượng hoàng, chú là Trần Thủ Độ làm Quốc Thượng phủ. Từ đó, vì Trần Thái Tông còn nhỏ, Trần Thủ Độ đã chi phối rất nhiều đến công việc chính trị như việc bức tử Thượng hoàng Lý Huệ Tông (1226), việc xây dựng lại thành Thăng Long (1230), việc thảm sát tập thể tôn thất nhà Lý (1232).

    Khi lớn lên, Trần Thái Tông tỏ rõ ra có bản lĩnh, đưa được xã hội đã bị rối loạn cuối triều Lý trở lại ổn định. Để sửa lại kỷ cương đã quá lỏng lẻo cuối triều Lý, nhà vua định ra pháp luật khá nghiêm khắc. Những người phạm tội trộm cắp đều phải chặt chân, chặt tay, thậm chí bị voi giày.

    Khác với các vua nhà Lý, các vua Trần có lệ nhường ngôi sớm cho con để lên làm Thái Thượng hoàng. Thái Thượng hoàng cùng vua trông nom việc nước. Thực chất đây là giai đoạn thực tập thuật trị nước cho vị vua mới.

    Hệ thống quan lại cũng được định chế lại dưới triều vua Trần Thái Tông. Cao hơn hết là Tam Công, Tam Thiếu, Thái úy, Tư Mã, Tư Đồ, Tư Không. ở dưới là các quan văn võ chia làm hai chức: nội chức (quan tại triều ở các bộ) và ngoại chức (quan địa phương). Cứ 10 năm thì các quan được thăng thêm một hàm và 15 năm thì lên một chức. Ai có quan tước thì con được thừa ấm làm quan, còn những người khác bất kể giàu nghèo đều phải đi lính. Tuy thế, những người có học vẫn có thể tham chính qua con đường thi cử.

    Các vua Trần rất chú ý đến việc chiêu hiền đãi sĩ. Từ năm 1232 vua Trần Thái Tông đã mở khoa thi Thái học sinh, đến năm 1247 lại đặt ra Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Chính trong kỳ thi này đã xuất hiện nhiều kỳ tài như Trạng nguyên 13 tuổi Nguyễn Hiền, Bảng nhãn và về sau là sử gia Lê Văn Hưu.

    Triều Trần phân ra hai loại ruộng công: ruộng quốc khố và ruộng thác điền. Ruộng thác điền là ruộng thưởng công cho các quan, đóng thuế rất ít. Thuế thân thì căn cứ vào số ruộng có được mà đóng bằng tiền còn thuế ruộng thì đóng bằng thóc.

    Trong nước có một số thay đổi về hành chính. Năm 1242, Trần Thái Tông chia nước ra làm 12 lộ, mỗi lộ có An Phủ sứ chánh và phó cai trị và có sổ dân tịch riêng. Dưới lộ là phủ, châu huyện do các Đại Tư xã hay Tiểu Tư xã trông coi, Đơn vị sau cùng là làng xã. Xã quan do dân bầu, được gọi là chánh sử giám.

    Người trong nước được phân ra từng hạng: con trai vào 18 tuổi thì gọi là tiểu hoàng nam, từ 20 tuổi là đại hoàng nam, 60 tuổi trở lên là lão hạng.

    Dưới triều vua Trần Thái Tông, vào năm 1258, quân Mông Cổ sang xâm lược Đại Việt. Nhà vua lãnh đạo toàn dân, đẩy lui được cuộc xâm lăng này. Sau chiến thắng, vua nhường ngôi cho Thái tử Hoảng và lên làm Thái Thượng hoàng. Ngài về quê Tức Mặc, lập cung Trùng Quang để ở, dành thì giờ đi ngao du sơn thủy và nghiên cứu Thiền học. Ngài trước tác một số tác phẩm quan trọng như "Kiến trung thường lệ" (năm quyển), "Quốc triều thông chế", một số thi văn và quan trọng nhất là cuốn cảo luận triết học 'Khóa hư lục". Ngài làm Thái Thượng hoàng 19 năm thì mất (1277).

    Trần Thánh Tông là một ông vua nhân từ. Dưới triều của nhà vua, trong nước bình yên không có nội loạn hoặc ngoại xâm. Nhà vua chú trọng đến nông nghiệp, bắt các vương hầu công chúa chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn đất hoang. Điền trang của vương hầu bắt đầu có từ đấy.

    Năm 1278 vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Khâm và lên làm Thượng Hoàng.

    Thái Tử Trần Khâm lên làm vua, lấy hiệu là Trần Nhân Tông.

    Dưới thời Trần Nhân Tông, chữ Nôm bắt đầu được trọng dụng. Nguyễn Thuyên, quan Hình bộ Thượng thư đã làm thơ phú bằng chữ Nôm, về sau nhiều người làm theo và gọi đó là Hàn luật.

    Một điểm son khác của thời này là công cuộc đánh đuổi quân Nguyên. Đế quốc Nguyên Mông bành trướng thế lực, diệt được nhà Tống, phát động hai lần xâm lược Đại Việt từ 1284 đến 1288. Nhưng vua Trần Nhân Tông cùng các kiệt tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản... đã oanh liệt đánh bại toán quân được mệnh danh bách chiến bách thắng này.

    Năm 1293, khi việc nước đã ổn định, vua Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Thuyên và lên làm Thái Thượng hoàng rồi đi tu ở núi Yên Tử lấy hiệu là Trúc Lâm đầu đà. Sau khi Thượng hoàng mất, các môn đệ tôn ông là Đệ nhất Tổ phái Trúc Lâm.

    Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, ấy là Trần Anh Tông. Đây là một bậc minh quân biết trọng đãi tôi trung, thưởng phạt phân minh và có một chính sách cai trị vững vàng.

    Vua Anh Tông không kể gì đến thân hay sơ trong việc dùng người, nhà vua chỉ căn cứ vào tài năng mà cho chấp chánh chứ không cứ phải là người họ Trần. Vì thế nhà vua được nhiều nhân tài giúp sức như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão.

    Một nhân vật khá đặc biệt và tài ba là Mạc Đĩnh Chi, người học trò thi đỗ Trạng Nguyên vào năm 1304, đã giúp vua tích cực trong việc ngoại giao với nhà Nguyên. Trong chuyến đi sứ vào năm 1308, với tài năng ứng đối linh động ông đã thu phục được sự kính nể của vua Nguyên và được vua Nguyên phong danh hiệu "Lưỡng quốc Trạng nguyên".

    Đoàn Nhữ Hài là một người học trò có tài đã giúp vua ổn định được hai châu Ô và Lý. Trương Hán Siêu vốn là mạc khách của Trần Hưng Đạo, được Trần Hưng Đạo tiến cử lên vua. Vua trọng dụng ông, sai ông soạn nên những bộ sách quan trọng về tổ chức chính quyền và về luật pháp như "Hoàng Triều Đại Điển", "Hình Luật Thư".

    Dưới thời Trần Anh Tông, Đại Việt có thêm được đất hai châu Ô và Lý (vùng đất Bình Trị Thiên ngày nay) do cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân, em vua với Chế Mân, vua Champa. Để cưới được công chúa Huyền Trân, Chế Mân (Shinhavarman III) lấy hai châu ấy làm lễ dẫn cưới. Một năm sau khi gả Huyền Trân, vào năm 1307, vua Anh Tông cho thu nhận hai Châu Ô và Lý, đổi tên lại là Hóa Châu và Thuận Châu, sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.

    Dưới thời Anh Tông, tục lệ Việt Nam có nhiều thay đổi như tục xâm mình của các vua được bãi bỏ. Từ thời Hùng Vương cho đến bấy giờ, các vua Việt có tục lệ lấy chàm vẽ rồng vào đùi nhưng Anh Tông từ chối thực hiện tục lệ ấy. Vì thế các vua thời sau cũng không theo nữa. Một hủ tục khác cũng được bỏ dần, đó là tục hôn nhân cận huyết của họ Trần. Dù chưa được chấm dứt hẳn nhưng hôn nhân trong họ đã dần dần ít đi.

    Vua Trần Anh Tông làm vua đến năm 1314 thì nhường ngôi cho Thái tử Mạnh và lên làm Thái Thượng Hoàng.

    Thái tử Mạnh (Minh Tông) lên làm vua, thừa hưởng được sự thịnh trị của các triều vua trước. Các quan đại thần tài năng trước như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu tiếp tục giúp vua cai trị đất nước. Ngoài ra còn có các nhân vật khác nổi lên như Mạc Đĩnh Chi, Chu An góp phần vào việc chấp chánh.

    Dưới thời vua Minh Tông, các quân sĩ không phải vẽ mình như trước nữa (1323) và từ đấy nước ta bỏ lệ vẽ mình. Để đề cao tình gia tộc, nhà vua ra lệnh cấm người trong họ đi kiện nhau. Danh nho Chu An đỗ Thái học sinh năm 1314, nhưng không ra làm quan. Mãi sau, nghe danh tiếng của ông, vua Minh Tông mời ông ra bổ nhiệm làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám và dạy học cho Thái tử Trần Hạo.

    2. Công cuộc chiến đấu chống Nguyên Mông (1258-1288)

    2.1 Chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258)

    Chiến công đầu tiên xảy ra dưới thời vua Trần Thái Tông vào năm 1258. Vào đầu thế kỷ XIII quốc gia Mông Cổ được thành lập dưới quyền uy của Thành Cát Tư Hãn (Thiết Mộc Chân), tung hoành vó ngựa xâm lược khắp Âu á và thành lập được một đế quốc rộng lớn từ bờ Thái Bình Dương cho đến bờ biển Hắc Hải.

    Vào năm 1258, Chúa Mông Cổ bấy giờ là Mong-ké (Mông Kha, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn) sai em là Hốt Tất Liệt (Kubilay) đánh lấy nước Đại Lý (Vân Nam bây giờ) và chuẩn bị đánh nhà Tống. Để dùng Đại Việt làm bàn đạp tấn công nhà Tống từ phía Nam, Hốt Tất Liệt cho sứ sang bảo vua Trần phải thần phục. Vua Trần Thái Tông cho giam đoàn sứ giả lại rồi sai Trần Hưng Đạo đem quân lên giữ phía Bắc.

    Không thấy đoàn sứ giả trở về, quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) tràn xuống sông Thao, xâm lấn Đại Việt. Trần Thái Tông thân chinh ra cự địch nhưng không thắng phải rút về Thăng Long. Trước sức uy hiếp của ba vạn quân Mông thiện chiến, nhà vua lại phải rút khỏi Kinh thành về đóng ở sông Thiên Mạc (Đông An, Hưng Yên).

    Quân Mông Cổ chiếm được thành Thăng Long, tìm thấy đoàn sứ giả bị trói trong ngục, lại có một người đã chết nên vô cùng tức giận, ra sức chém giết dân chúng trong thành.

    Trong tình thế nguy nan ấy vua Trần Thái Tông hỏi kế triều thần. Người em ruột của vua là Trần Nhật Hiệu khuyên nên "nhập Tống" nhưngThái sư Trần Thủ Độ khảng khái trả lời: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo". Được khích lệ, Trần Thái Tông yên tâm chuẩn bị lực lượng.

    Không quá mười ngày sau khi chiếm thành Thăng Long, quân Mông Cổ đã gặp khó khăn vì không kiếm ra được lương thực lại thêm không phủ hợp thủy thổ, nên bị ốm bệnh rất nhiều. Trần Thái tông liền phản công, cho tiến quân ngược dòng sông Hồng đánh lấy Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng ở Hà Nội) và đuổi bật quân Mông Cổ ra khỏi Thăng Long. Quân Mông Cổ thua, chạy rút về Vân Nam, trên đường tháo chạy, vì quá mỏi mệt và khiếp sợ nên không quấy nhiễu dân chúng, do đó được gọi là giặc Phật.

    Ngày mồng một Tết năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông ngự triều làm lễ phong thưởng cho các người có công. Một tháng sau đó, nhà vua truyền ngôi cho Thái tử Hoảng và lên làm Thái Thượng hoàng. Đại Việt có được một thời gian yên bình từ sau chiến thắng này cho đến năm 1285.

    Tuy tình hình trong nước yên ổn, nhưng quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và Mông Cổ gặp nhiều rắc rối. Nhân dịp vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho vua Trần Thánh Tông, vua Mông Cổ sai sứ sang phong vương và đặt điều lệ là ba năm phải cống một lần. Lệ cống gồm có nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán số và thợ thuyền. Mỗi thành phần ba người, cùng với các sản vật quý như sừng tê, ngà voi, đồi mồi... Ngoài ra, vua Mông Cổ còn đặt quan giám trị (Đạt lỗ hoa xích) để kiểm tra các châu quận của Đại Việt.

    Tuy bề ngoài thần phục Mông Cổ nhưng vua Trần Thánh Tông chú trọng việc quân sự để phòng bị. Vua cho tuyển đinh tráng ở các lộ làm lính, phân quân đội ra làm quân và đô, mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người.

    Năm 1266, vua sai sứ sang Mông Cổ thương lượng để không phải cống người nữa. Vua Mông Cổ đồng ý nhưng ra 6 điều khoản khác:

    Vua Trần phải qua Mông Cổ chầu
    Vua Trần phải cho con hay em sang Mông Cổ làm con tin
    Đại Việt phải nạp số dân trong nước cho Mông Cổ
    Đại Việt phải chịu việc binh dịch
    Đại Việt phải nộp thuế
    Mông Cổ vẫn duy trì chế độ quan giám trị.
    Vua Thánh Tông cứ lần lữa không chấp nhận. Bấy giờ Hốt Tất Liệt đã lên làm vua Mông Cổ (1260), cho sứ sang dụ vua Trần sang chầu. Vua Trần Thánh Tông cáo bệnh không đi.

    Năm sau, Hốt Tất Liệt lại cho sứ sang xác định vị trí của cột đồng Mã Viện. Vua Thánh Tông cho trả lời là cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không tìm ra.

    Đến năm 1275 vua Thánh Tông cho sứ sang nhà Nguyên (Hốt Tất Liệt đổi quốc hiệu thành Đại Nguyên vào năm 1271) xin miễn chức giám trị đi, mà thay vào một loại có tư cách như sứ thần. Nhà Nguyên không chịu, cứ bắt Đại Việt phải tuân thủ 6 điều lệ như đã định. Vua Trần Thánh Tông cũng không nhượng bộ.

    Năm 1279 nhà Nguyên đánh bại nhà Tống, làm chủ Trung Hoa. Từ đó nhà Nguyên tiếp tục mở rộng đất đai về phía Nam. Đại Việt trở thành mục tiêu của đại quân tinh nhuệ nhà Nguyên.

    Nghe tin vua Trần Nhân Tông lên ngôi (1279) vua Nguyên sai sứ là Sài Thung sang hạch hỏi, lấy cứ vua Trần dám tự lập làm vua không xin phép triều đình nhà Nguyên. Sài Thung buộc vua Nhân Tông phải sang chầu Nguyên chủ để chuộc lỗi nhưng vua từ chối.

    Năm 1282, nhà Nguyên lại cho sứ sang dụ vua qua chầu, vua cử người chú là Trần Di ái đi thay mình. Vua Nguyên không bằng lòng, lập ra "tuyên phủ ty" để giám trị Đại Việt. Khi phái đoàn nhà Nguyên đến để tiến hành việc giám trị, vua nhân Tông cho đuổi về.

    Hốt Tất Liệt bèn mua chuộc Trần Di ái, phong ái làm An Nam quốc vương và sai Sài Thung dẫn 1.000 quân hộ tống về nước. Vua Trần cho quân đón đánh ở ải Nam Quan, Sài Thung bị bắn mù một mắt phải tháo chạy về nước còn Trần Di ái thì bị bắt, bị tội đồ làm lính.

    2.2 Chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ hai (1285)

    Năm 1282. Nguyên chủ sai con là Thoát Hoan làm Trấn Nam Vương, cùng Toa Đô và Ô Mã Nhi dẫn 50 vạn quân giả lấy tiếng mượn đường sang Champa. Riêng Toa Đô chỉ huy một toán thủy binh, tiến đánh Champa bằng đường biển.

    Trước mưu toan xâm lược của quân Nguyên, vua Trần triệu tập công hầu, quan lại tại Bình Than (Hải Hưng) bàn kế phòng đánh và chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu. Trần Hưng Đạo được phong làm tiết chế thống lĩnh toàn quân, Trần Quang Khải làm thượng tướng, Trần Khánh Dư làm phó Đô tướng quân.

    Để khích lệ mọi người đứng lên chiến đấu vì đại nghĩa Trần Hưng Đạo viết và truyền bài hịch nổi tiếng "Hích Tướng Sĩ"

    Trong hịch có đoạn tha thiết: "... Huống chi ta cùng các người, sinh ra vào lúc rối ren, lớn lên vào buổi hoạn nạn, thấy sứ giả của giặc qua lại dọc ngang ngoài đường, khua tất lưỡi cú vọ mà khinh rẻ triều đình, đem cái thân dê chó mà ngạo mạn tể tướng... Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa, ruột như như cắt, chỉ giận không được ăn thịt nằm da, đốt gan uống máu thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng..."

    Tướng sĩ được khích lệ, ai nấy một lòng diệt giặc. Họ lấy mực xâm lên tay hai chữ "sát Đát" để tỏ lòng quyết tâm của mình.

    Trần Hưng Đạo phân công Trần Khánh Dư đem quân ra trấn giữ cảng Vân Đồn, còn Trần Bình Trọng thì đi đóng đồn trên sông Bình Than. Phạm Ngũ Lão đóng từ biên giới cho đến Chi Lăng, Trần Nhật Duật đóng ở Tuyên Quang đến Tam Đái (Nam Phú Thọ, Đông Bắc Vĩnh Yên). Các tướng khác cũng đem quân đóng giữ các nơi quan yếu. Riêng Trần Hưng Đạo đóng ở Nội Bàng (vùng xã Bình Nội, Bắc Giang), trên con đường đi về Vạn Kiếp (Hải Dương) để tiếp ứng cho các nơi. Trong khi ấy, vua Nhân Tông cho người mang lễ vật sang xin nhà Nguyên hoãn binh nhưng nhà Nguyên không chấp nhận. Thoát Hoan được lệnh tiến quân. Vua Nhân Tông bèn triệu tập hội nghị Diên Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh (1.1285).

    Tháng 1.1285, đại quân do Thoát Hoan chỉ huy ào ạt tiến qua Lạng Sơn, nhằm đến Nội Bàng. Trên đường đi, tuy bị quân của Đại Việt chận đánh kịch liệt, đại quân của Thoát Hoan vẫn kéo đến được Nội Bàng và bao vây quân Đại Việt tại đây. Ngày 2.2.1285, một trận chiến ác liệt nổ ra. Thấy thế quân Nguyên quá mạnh, Trần Hưng Đạo cho quân rút về Vạn Kiếp. Thoát Hoan lại cho quân truy đuổi, dùng lực lượng kỵ binh hùng hậu bao vây Vạn Kiếp. Một lần nữa, Trần Hưng Đạo lại cho rút quân. Một bộ phận đến đóng ở Hải Đông (Hải Dương), một bộ phận khác tiến về Lạng Sơn, còn đại bộ phận rút về giữ Nam ngạn sông Hồng. Cầm cự một thời gian, đại quân rút về Thiên Trường (Nam Định). Vua và triều đình cùng rời bỏ Thăng Long về tụ tại đây.

    Quân Nguyên vào thành Thăng Long, gặp phải cảnh "nhà không vườn trống", một chiến thuật của nhà Trần được nhân dân hưởng ứng. Thoát Hoan cho một toán quân truy đuổi quân Trần Hưng Đạo đến Thiên Trường. Để chặn bước tiến của địch, Trần Hưng Đạo cho đánh một trận ở sông Thiên Mạc (Hưng Yên). Tại đây Trần Bình Trọng bị bắt và tử tiết với lời nói bất hủ: "Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc".Bấy giờ 100.000 quân của Toa Đô không đánh thắng được Champa, bèn kéo quân theo đường bộ ra đánh Nghệ An để hợp quân với Thoát Hoan. Thoát Hoan liền sai Ô Mã Nhi đem quân theo đường bể tiếp ứng. Trần Hưng Đạo cho Trần Quang Khải đưa binh vào đóng ở Nghệ An chận đường Toa Đô. Toa Đô liền dùng thuyền nhỏ đưa quân theo đường biển ra Trường Yên (Ninh Bình ngày nay).

    Tình hình hết sức nguy cấp. Quân địch hai gọng từ phía Bắc và dưới phía Nam, cùng đánh thốc để hợp quân. Trần Hưng Đạo phải đưa vua chạy đến Hải Dương, sau đó đến Quảng Yên rồi lại theo đường sông trở về lại Thanh Hóa. Trong hoàng tộc họ Trần có người ra đầu hàng mà điển hình là Trần ích Tắc, con thứ năm của Trần Thái Tông.

    Để chặn không cho Toa Độ hội quân cùng Thoát Hoan, Trần Hưng Đạo điều động Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản đón đánh Toa Đô ở bến Hàm Tử (Hưng Yên). Toa Đô thua to phải rút về chống giữ. Đồng thời Trần Hưng Đạo phái Trần Quang Khải cùng Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản đi vòng đường bể, đánh thẳng vào quân Nguyên ở Chương Dương và tiến sát thành Thăng Long. Thoát Hoan đem quân ra chống cự không lại phải bỏ thành Thăng Long chạy về Bắc Ninh. Quân Đại Việt chiếm lại được thành Thăng Long. Để đánh dấu chiến thắng này, Trần Quang Khải làm bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư".

    Trong khi ấy, Trần Hưng Đạo cho tiến quân đánh Toa Đô và Ô Mã Nhi ở Tây Kết. Toa Đô bị trúng tên chết còn Ô Mã Nhi thì chạy trốn về nước.

    Nghe tin Toa Đô tử trận, Thoát Hoan vội đem quân chạy, định rút về, nhưng Trần Hưng Đạo đã đoán được ý đồ ấy, cho Phạm Ngũ Lão đợi ở Vạn Kiếp, khi quân Nguyên chạy sang thì đổ ra đánh. Quân Nguyên thua to, mất hết nửa quân số còn Thoát Hoan thì phải chun vào ống đồng cho quân đẩy chạy về. Quân Đại Việt đại thắng.

    2.3. Chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ ba (1287-1288)

    Thất bại nặng nề ấy làm Hốt Tất Liệt hết sức tức giận, quyết định đình việc đi đánh Nhật Bản và sai đóng thêm chiến thuyền, chuẩn bị sang đánh lại Đại Việt. Sang năm 1287 quân Nguyên ồ ạt kéo sang. Quân bộ vẫn do Thoát Hoan chỉ huy, vượt biên giới, đánh vào Lạng Sơn rồi tiến xuống phía Nam và đóng tại Vạn Kiếp. Quân thủy gồm 600 chiến thuyền lớn, do Ô Mã Nhi chỉ huy, tiến vào Đại Việt bằng đường biển và hội quân cùng Thoát Hoan ở Vạn Kiếp.

    Biết đại quân như thế tất phải có nhu cầu cao về lương thực, Trần Hưng Đạo phân công Trần Khánh Dư đem quân chặn đánh đường vận lương của quân Nguyên. Trần Khánh Dư tập kích địch ở Vân Đồn, phá được thuyền lương của địch. Đợi mãi không thấy thuyền lương, Thoát Hoan xua quân tiến đến Thăng Long. Triều đình nhà Trần phải rút về Thanh Hóa. Thoát Hoan đốt phá kinh thành rồi rút quân về Vạn Kiếp. Nhưng Thoát Hoa không thể ở đây được lâu. Thiếu lương thực trầm trọng, Thoát Hoan phải rút quân. Trên đường tháo chạy, đến sông Bạch Đằng, quân của Thoát Hoan lọt vào trận địa cọc ngầm do Trần Hưng Đạo bố trí sẵn. Ô Mã Nhi bị bắt, Thoát Hoan thoát được về nước (1288).

    Tuy thắng trận, nhưng trước sức mạnh của quân Nguyên vua Trần Nhân Tông cho người sang xin giảng hòa. Vua Nguyên cũng đành bằng lòng.

    Vua Trần định công tội cho quan lại, ghi chép công trạng của tướng sĩ vào sách gọi là Trung Hưng thực lục. Còn những người trong hoàng tộc đã đầu hàng và hợp tác với quân Nguyên thì bị bắt buộc phải đổi họ khác. Ngoài ra để yên lòng dân chúng, vua và Thái Thượng hoàng cho đốt hết tất cả hàng biểu đi. Từ đó dân chúng yên tâm xây dựng lại đất nước.

    Sự nghiệp củng cố đất nước, sự nghiệp chống xâm lăng của triều Trần đã để lại trong lòng dân chúng một niềm mến phục sâu xa. Cho nên khi Hồ Quý Ly giành ngôi nhà Trần, dù có nhiều cải cách quan trọng và tích cực, nhưng lòng người vẫn còn nhớ đến các vua Trần.

    II. Giai đoạn suy vong

    Nội bộ họ Trần mất đoàn kết vào khoảng cuối thời trị vì của vua Minh Tông. Nhà vua vì nghe lời dèm pha, giết hại Trần Quốc Chân, một công thần và đồng thời là cha của Hoàng hậu. Từ đó mầm mống chia rẽ nổi lên.

    Vua Minh Tông nhường ngôi cho Thái Tử vào năm 1329 lên làm Thượng hoàng. Thật ra Thượng hoàng vẫn nắm trọn quyền hành vì Trần Hiển Tông khi làm vua chỉ có 10 tuổi và đến năm 23 tuổi thì chết. Một người con khác của Minh Tông lên làm vua là Trần Dụ Tông.

    Bắt đầu từ đây triều đại nhà Trần suy yếu dần. Vua Dụ Tông là người rượu chè, hoang phí, hay xây cung điện và đánh bạc. Các người tài giỏi của thời trước thì đã qua đời, thế hệ tiếp chưa có ai, chỉ còn lại Chu An. Thấy triều đình chính nghiêng ngả, Chu An dâng sứ xin chém 7 nịnh thần (vẫn thường được gọi là "Thất trảm sớ") nhưng vua không nghe, Chu An bèn từ quan về ở ẩn.

    Trong nước loạn lạc khắp nơi. Ngoài ra, người Chăm, dưới sự lãnh đạo của vị vua tài ba Chế Bồng Nga, đòi lại đất Hóa Châu và Thuận Châu.

    Từ đấy cho đến khi bị Hồ Quý Ly cướp ngôi, triều Trần lâm vào cảnh rối loạn. Quân Chăm đánh phá liên tục. Các ông vua không đủ sức bảo vệ đất nước. Một ông vua bị giết tại trận chiến (vua Trần Duệ Tông) còn quân Chăm thì "ra vào Đại Việt như chỗ không người". Trong các năm 1377, 1378 quân Chăm vào đánh tận Thăng Long, vua Trần phải bỏ thành mà chạy. Mãi đến 1389. Trong một trận quyết chiến, Trần Khát Chân giết được Chế Bồng Nga, đất nước mới tạm yên về mặt đối ngoại, nhưng trong nội bộ thì thế lực của nhà Trần đã hết. Một thế lực khác nổi lên chi phối toàn bộ việc triều chính, đó là của Lê Quý Ly.

    Lê Quý Ly vốn có tổ tiên họ Hồ, người Chiết Giang (Trung Quốc) sang sinh sống ở Quỳnh Lưu. Đến ông tổ bốn đời của Quý Ly lại dời ra Thanh Hóa làm con nuôi cho một gia đình họ Lê nên đổi ra hộ Lê. Quý Ly có hai người cô đều lấy vua Trần Minh Tông, một người là mẹ của vua Trần Nghệ Tông, người kia là mẹ của Trần Duệ Tông. Dưới triều vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), Lê Quý Ly làm đến chức Khu Mật đại sứ và rất được Nghệ Tông tin dùng. Vào đời Trần Duệ Tông (1372-1377), ngoài việc bản thân vua là con người cô của Quý Ly, thì hoàng hậu cũng là em họ của Quý Ly. Uy quyền của Quý Ly vì thế nghiêng trời lệch đất.

    Sau khi vua Trần Duệ Tông chết trong trận đánh với quân Chăm, con là Trần Nghiện lên nối ngôi, sử sách thường gọi là Đế Hiển (1377-1388). Nhà vua thấy Lê Qúy Ly quá chuyên quyền muốn trừ đi nhưng âm mưu bại lộ. Quý Ly bèn tâu với Thượng hoàng Nghệ Tông rằng Đế Hiển chỉ là cháu của Nghệ Tông mà lại được làm vua, xưa nay thiên hạ bỏ cháu nuôi con chứ không ai bỏ con nuôi cháu. Nghệ Tông nghe lời, giáng Trần Nghiện xuống rồi bắt thắt cổ chết và lập con út của mình lên làm vua, đó là Trần Thuật Tông (1388-1398).

    Quý Ly đem con gái gả cho Thuật Tông còn bản thân thì giữ chức Phụ chính Thái sư. Vào năm 1397 Quý Ly cho xây dựng kinh đô mới ở Thanh Hóa, gọi là Tây Đô (tức là thành ) rồi ép vua phải vào đấy ở.

    Năm sau, Quý Ly lại ép Trần Thuận Tông phải nhường ngôi cho con là Trần án (cũng là cháu ngoại của Quý Ly). Nhưng rồi Thuận Tông cũng bị Quý Ly bức tử chết.

    Trần án chỉ mới ba tuổi, lên làm vua là Trần Thiếu Đế. Quý Ly xưng là Quốc tổ Chương hoàng đế, mặc áo màu bồ hoàng, ở cung Nhân thọ, lạm dụng nghi vệ của thiên tử, ra vào dùng đến 12 chiếc lọng vàng. Một số quan đại thần mưu loại trừ Quý Ly nhưng bất thành, bị Quý Ly trả thù, giết đến 370 người, trong số ấy có tướng Trần Khát Chân.

    Vào năm 1400, Quý Ly phế Trần án và tự xưng làm vua thay cho nhà Trần. Nhà Trần chấm dứt sau 175 năm trị vì, trải qua 12 đời vua.

    III. Kinh tế - Xã hội dưới đời Trần

    Dưới thời Trần đã xuất hiện những sở hữu đất đai rất lớn, đó là những điền trang của quý tộc và quan lại. Nhà Trần khuyến khích việc khẩn hoang, đặt ra chức Đồn điền chánh sứ và phó sứ để phụ trách việc khẩn hoang. Vua Trần Thánh Tông chủ trương cho các vương hầu, công chúa, lao động đường phố mã chiêu tập dân nghèo đi khai khẩn các vùng đất ven biển. Nhờ vậy mà những điền trang hoặc thái ấp rộng lớn đã xuất hiện. Như thái ấp của Trần Hưng Đạo ở Nam Định hoặc điền trang của nhà sư Pháp Loa, đệ nhị tổ phái thiền Trúc Lâm. Nhà sư này có đến khoảng 15.000 đệ tử, 1.000 tá điền và gần 2000 mẫu ruộng.

    Công việc đê điều cũng được các vua đầu đời Trần chăm sóc, các chức Hà đê phó chánh sứ được đặt ra dưới triều vua Trần Thái Tông đã đưa công việc bảo vệ đê điều vào quy củ. Năm 1244, đê Đĩnh Nhĩ (đê Quai Vạc) được đắp dọc theo hai bên bờ sông Hồng, ngăn được nước lũ cho các đồn điền ven sông. Nhà Trần còn ra lệnh bồi thường cho nông dân nếu đê đắp lấn vào ruộng của dân. Hàng năm, vào tháng giêng quan Hà đê phải đốc thúc việc bồi đắp các đê đập cho đến mùa hè thì phải xong. Vào mùa mưa lở, quan phải thân hành đi kiểm tra tình hình đê điều và khi hữu sự thì bất phân giàu nghèo, già trẻ ai ai đều phải tham gia việc bảo vệ đê.

    Công thương nghiệp đã có những bước phát triển mới. Kinh đô Thăng Long có vùng phụ cận, có chợ, có phố xá và các phường thủ công. Buôn bán được mở rộng trao đổi với nước ngoài. Hải cảng cho tàu buôn nước ngoài đến là Vân Đồn, các tàu buôn từ Trung Quốc và các nước Đông Nam á tấp nập ra vào thương cảng này.

    Trong cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, nền kinh tế nước nhà bị chựng lại. Kinh thành Thăng Long bị quân thù chiếm đóng ba lần. Nhiều công trình kiến trúc bị thiêu hủy, nhiều làng xóm bị phá hoại. Sau chiến tranh, nền kinh tế được phục hồi nhanh chóng. Kinh thành được xây dựng lại, chùa chiền mọc lên.

    IV. Phát triển văn hóa

    Văn học

    Vào thời Trần, đội ngũ trí thức tiếp thu tư tưởng tu, tề, trị, bình của Nho giáo phát triển mạnh. Tư tưởng này hòa lẫn với lòng yêu nước, với hòa khí của dân tộc đã được phát huy cao độ qua ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. áng văn tiêu biểu nhất cho hào khí này là "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo. Bài hịch đã viết từ 700 năm trước nhưng tinh thần "cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh" vẫn còn làm rung động người ngày nay.

    Bên cạnh bài hịch bất tử ấy, còn có nhiều tác phẩm bộc lộ khí phách dân tộc như bài thơ ứng khẩu "Tụng giá hoàn kinh sư" của Trần Quang Khải sau khi thắng trận Chương Dương, đuổi quân Nguyên ra khỏi thành Thăng Long.

    Đoạt sáo Chương Dương độ,
    Cầm Hồ Hàm Tử quan
    Thái bình tu nỗ lực
    Vạn cổ thử giang sơn
    (Chương Dương cướp giáo giặc,
    Hàm Tử bắt quân Hồ
    Thái bình nên gắng sức
    Non nước nọ nghìn thu).

    Hoặc bài "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão:

    Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu,
    Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
    (Ngang giáo non sông trải mấy thâu
    Ba quân hùng dũng khí thôn Ngưu...)

    Các vua quan và văn nhân đã sáng tác rất nhiều: các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Nghệ Tông đều có làm thơ, vua Anh Tông soạn "Thủy Vân tùy bút", Trần Quang Khải có "Lạc Đạo Tập", Chu An có "Tiều ẩn thi tập", Trần Nguyên Đán có "Băng Hồ Ngọc Hán tập", Nguyễn Phi Khanh có "Nhị Khê tập", sư Huyền Quang có "Ngọc Tiên tập".

    Trương Hán Siêu là người có tài văn chương và chủ trương bài xích tệ mê tín dị đoan, ông thường dùng văn chương để đả kích các tệ hại trên. Bài phú Bạch Đằng Giang của ông là một kiệt tác ca ngợi ý chí tự cường của dân tộc vùng vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.

    Khoa học lịch sử đã có một bước tiến đáng kể. Trước hết là bộ "Đại Việt sử ký" của Lê Văn Hưu (1230-1322), được soạn xong vào năm 1272 sau đó là các tác phẩm "Việt Nam thế chí" và "Việt Sử cương mục" của Hồ Tông Thốc (thế kỷ 14); "An Nam chí lược" của Lê Tắc; "Việt sử lược" của tác giả khuyến danh (1377). Ngoài ra còn có các văn kiện quan trọng như "Bình Thư yếu lược", "Vạn kiếp bí truyền", "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo, "Thất trảm sớ" của Chu An, "Ngọc Tĩnh liên phú" của Mạc Đĩnh Chi "Bạch Đằng Giang phú" của Trương Hán Siêu, "Việt điện u linh tập" của Lý Tế Xuyên, "Khóa hư lục" của Trần Thái Tông, "Thiền uyển tập anh" của tác giả khuyến danh... Tất cả đều là những tuyệt tác có giá trị vô cùng to lớn cho kho sử liệu của nước nhà.

    Kiến trúc thời Trần không huy hoàng như thời Lý nhưng cũng có những công trình quan trọng như tháp mộ của vua Trần Nhân Tông trước chùa Phổ Minh ở Tức Mặc (Nam Định) xây năm 1310, thành ở Thanh Hóa (1397).

    Âm nhạc thời Trần có chịu ảnh hưởng của Champa. Chiếc trống cơm rất thịnh hành thời ấy nguyên là nhạc khí của Champa. Đó là loại được dán hai đầu bằng cơm nghiền, được dùng để hòa cùng với dàn nhạc trong các dịp lễ Tết.

    Nghệ thuật hát chèo đã manh nha từ thời này. Theo Phạm Đình Hổ trong "Vũ Trung Tùy bút" thì vào những lúc có quốc tang, người xúm đen xem chật ních không thể rước tang được, nên mới sinh ra một nhóm người chuyên đi dẹp đường. Để lôi kéo sự chú ý của đám đông, nhóm người có bổn phận đi mở đường bèn đi hát diễn trên đường, mọi người đổ xô tới xem. Như thế mới có thể rước đám tang đi. Từ đó, những bài hát của những người này phong phú hơn và được gọi là "phường chèo".

    Tôn giáo

    Vào đời Trần, Nho giáo phát triển song song cùng phật giáo và đồng thời Lão giáo cũng được ưa chuộng.

    Phật giáo Sau khi thay nhà Lý, triều Trần tiếp tục truyền thống sùng tín đạo Phật và đồng thời phát huy lý thuyết Nho giáo như là một hệ triết lý chính trị cần thiết để cai trị đất nước. Phật giáo vẫn là một tôn giáo có thế lực nhất trong tất cả các loại tôn giáo thời ấy và có ảnh hưởng sâu đậm trong mọi tầng lớp cũng như mọi lãnh vực.

    Vua Trần Thái Tông là một nhà nghiên cứu uyên thâm về Phật học, khi làm Thái Thượng hoàng, đã chú tâm nghiên cứu lý thuyết nhà Phật và là tác giả của tác phẩm cảo luận Thiền học "Khóa hư lục".

    Tác phẩm "Khóa hư lục" vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay và đã được dịch ra chữ Quốc ngữ. Trong tác phẩm này Trần Thái Tông nêu lên thuyết tu hành là để diệt khổ chứ không phải vất bỏ cuộc đời để đi tu.

    Người sáng lập ra phái Trúc Lâm Yên Tử, phái thiền tư của Việt Nam là vị vua thứ ba của nhà Trần tức là Trần Nhân Tông. Là người đã oanh liệt thống lĩnh toàn quân và dân đánh thắng hai lần xâm lược của nhà Nguyên, đã áp dụng những chính sách "nới sức dân" khi còn tại vị, đến khi nhường ngai vàng cho con trai, người đã đi chu du khắp nơi rồi lên ở tu hẳn trên núi Yên Tử, lấy pháp danh là Trúc Lâm đại đầu đà. Nhân Tông viết rất nhiều tác phẩm phật học nhưng phần nhiều đã thất truyền. Với lý thuyết đề cao thái độ hướng tâm, đi tìm sự giác ngộ bằng cái tâm tĩnh lặng của chính mình, là "Phật tại tâm" chứ không cần gò bó khư khư theo khuôn phép giáo điều nào, nhà vua đã để lại một ảnh hưởng rất lớn trong việc phát triển đạo Phật và thời Trần. Chùa được xây dựng lên vô kể, các hội hè Phật giáo được tổ chức không ngừng.

    Tổ thứ hai của phái thiền Trúc Lâm là Thiền sư Pháp Loa. Nhân vật này có một uy quyền đặc biệt, có cả hàng ngàn đệ tử, sở hữu gần hai ngàn mẫu ruộng và đã cho đúc ba ngàn bức tượng Phật. Đó là một hiện tượng không bình thường mà chỉ có thể giải thích được bằng sự cực thịnh của Phật giáo.

    Ta có thể nói, dưới ảnh hưởng của các vị vua phật tử và các nhà thiền sư thời ấy, Phật giáo đã đạt đến mức phát triển huy hoàng của một tôn giáo, nếu không muốn nói rằng Phật giáo đã trở thành như quốc giáo vậy.

    Nhưng đến cuối đời Trần, Phật giáo bị lạm dụng và bị phức tạp nhiều yếu tố mê tín, dị đoan. Đồng thời, số tăng sĩ thất học tăng lên, nhiều tệ nạn xảy ra. Các vua Trần Hiển Tông và Trần Thuận Tông phải mở các kỳ thi sát hạch kiến thức Phật học cùng họ, để bắt các tăng sĩ thất học, giả danh, phải hoàn tục.

    Trong khi ấy thì giới nho sĩ lại được đào tạo theo trường lớp, tham chính qua đường thi cử gian nan, bắt đầu tấn công những tệ nạn trong giới Phật giáo. Điển hình là Trương Hán Siêu, chủ trương bài xích mê tín dị đoan. Thấy các chùa tháp mọc lên khắp nơi, ông viết bài ký châm biếm: 'Trong thiên hạ ba phần, chùa chiếm ở một phần, bỏ rứt luân thường, hao tổn của báu, ngây ngây mà chơi, ngẩn ngẩn mà theo..."

    Như thế, vào cuối đời Trần, Phật giáo không những tự bản thân bị suy yếu đi mà còn Nho giáo tấn công để chiếm địa vị ưu thế trong xã hội.

    Nho giáo: Khác hẳn với Phật giáo có lý thuyết thiên về nội tâm, về sự giác ngộ, về sự giải thoát con người ra khỏi bể khổ là cuộc đời, Nho giáo đòi hỏi con người phải nhập thế. Lý thuyết của Nho giáo dùng làm khuôn mẫu cho việc trị nước, cho việc tổ chức gia đình và cho việc tu thân, đã gặp môi trường thuận lợi trong xã hội Việt Nam dưới đời Trần, một xã hội đang phát triển đòi hỏi một thái độ nhập thế thiết thực.

    Ngay từ dưới thời nhà Lý, Nho giáo đã được bước đầu phát triển. Các vua Lý đã mở các khoa thi nho học. Vua Lý Thánh Tông cũng đã lập Văn miếu để thờ Khổng Tử, Chu Công và 72 vị tiền hiền. Đến thời nhà Trần các khoa thi được mở đều đặn và qui củ hơn. Nhà Trần mở ra Quốc sử viện để dạy tứ thư ngũ kinh cho con cháu các nhà quý tộc, Quốc học viện để cho các nhà nho có nơi rèn luyện việc học hành. Ngoài ra các trường tư cũng được khuyến khích, như trường tư của Chu An, nơi đã đào tạo nên các nhà nho nổi tiếng như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, hoặc trường của Trần ích Tắc giúp các văn nhân ở xa đến học và cấp cơm áo cho các hàn sĩ.

    Tầng lớp nhà nho được đào tạo qua các trường, các kỳ thi càng ngày càng đông tử sĩ. Hàng ngũ họ ngày càng có uy tín trong quan trường. Ta có thể kể những tên tuổi nổi tiếng như Lê Văn Hưu, Chu An, Mạc Đĩnh Chi, Hàn Thuyên, Trướng Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, Hồ Tông Thốc... Họ lần lần chiếm lấy vai trò lãnh đạo của các nhà sư trong đời sống chính trị và đồng thời công kích các nhà sư ham mê nhà cửa lộng lẫy, vườn xinh cảnh đẹp, phung phí của công vào việc xây dựng chùa chiền quá nhiều và quá to, mà lại trốn tránh lao động trong chiếc áo tu hành.

    Vào cuối đời Trần, Nho giáo chiếm ưu thế và đẩy phật giáo ra khỏi diễn đàn chính trị. Từ đó, các triều đại nối tiếp cũng chỉ dùng Nho giáo như khuôn mẫu cho việc trị nước chăn dân.

    V. Nhân vật, di tích tiêu biểu

    Nhà Trần đã để lại một dấu ấn lớn trong lịch sử Việt Nam với sự nở rộ đáng kể về số lượng danh nhân. Ta có thể phân biệt các danh nhân dưới triều Trần ra làm hai: Danh nhân thuộc họ Trần và danh nhân ngoài dòng họ Trần. Trong họ Trần, đó là Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1218-1277), Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1240-1290), Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1258-1308), Trần Hưng Đạo (12??-1300), Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Khánh Dư (?-1285), Trần Thủ Độ (1194-1264), Trần Huyền Trân, Trần Khát Chân (?-1399), Trần Quốc Toản... Những danh nhân ngoài dòng họ Trần có thể kể như sau: Lê Văn Hưu (1230-1322), Nguyễn Thuyên, Chu An (1292-1370), Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), Phạm Ngũ Lão (1255-1320), Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Hiền, Trương Hán Siêu (?-1354), Phạm Sư Mạnh, Hồ Tông Thốc... Trong số các danh nhân ấy, xin giới thiệu một người trong dòng họ Trần là thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản và một nhân vật ngoài dòng họ Trần là Lê Văn Hưu, sử gia đầu tiên của đất nước.

    Trần Quốc Toản (1266-?)

    Hội nghị Bình Than là một hội nghị giữa nhà vua cùng các vương hầu, quan lại, tướng soái cao cấp của nhà Trần để bàn sách lược chống lại sự xâm lăng của Nguyên Mông. Trong không khí bừng bừng ấy, một thiếu niên tôn thất nhà Trần là Trần Quốc Toản có theo đến nhưng vì còn nhỏ (16 tuổi) nên không được dự bàn. Quốc Toản uất ức, tay đương cầm quả cam bóp bẹp ra lúc nào không biết. Khi tan hội, các vương hầu ai nấy ra về, lo việc sắm sửa binh thuyền để cự địch. Trần Quốc Toản cũng thế, về nhà cho may một lá cờ to với sáu chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua). Ông tụ họp được hơn nghìn người thân thuộc, cùng nhau chuẩn bị vũ khí để chống giặc. Đến khi xuất trận, Quốc Toản luôn đi trước, khí thế dũng mãnh, đánh chỗ nào quân địch cũng phải lùi.

    Trong hai cuộc chiến thắng chống quân Nguyên (1284-1288), Trần Quốc Toản đều lập được công lớn. Trong trận Hàm Tử (1284), Quốc Toản được cử làm phó tướng cho Trần Nhật Duật, thắng trận, Quốc Toản được hân hạnh là người đưa tin về cho Trần Hưng Đạo. Đến trận Chương Dương, Quốc Toản đã cùng Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão đốc quân tử Thanh Hóa đi vòng đường bể đến tấn công bất ngờ vào quân Nguyên ở Chương Dương. Trong trận đuổi quân Thoát Hoan ra khỏi thành Thăng Long, Quốc Toản cũng góp phần đáng kể.

    Không rõ vị dũng tướng thiếu niên này hy sinh trong trận nào và vào năm nào. Chỉ biết một chi tiết là khi Quốc Toản chết trận, vua Trần Nhân Tông thương khóc làm bài văn tế có nội dung như sau:

    Cờ đề sáu chữ giải hờn này
    Lăn lóc muôn quân vẫn đánh say
    Công thắng quân Nguyên đà chắc trước,
    Từ khi cam nát ở trong tay (bản dịch)

    Lê Văn Hưu (1230-1322)

    Lê Văn Hưu là một học giả xuất sắc của đời Trần, và là người hậu thế xem là sử gia đầu tiên của Việt Nam. Ông quê làng Phú Lý (thôn Phủ Lý Nam, xã Thiệu Trung), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông nổi tiếng là người thông minh và học giỏi từ nhỏ. Năm 1247 nhà Trần mở khoa thi đầu tiên lấy tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhân, Thám hoa), Lê Văn Hưu đậu Bảng Nhãn, lúc đó ông mới 17 tuổi, Ông được bổ làm Kiểm pháp quan (một chức quan về hình luật), sau lại được sung chức Hàn lâm viện Học sĩ kiêm Quốc sứ viện Tu giám. Thời gian này Lê Văn Hưu được vua Trần Thái Tông sai soạn bộ "Đại Việt sử ký" viết về lịch sử Việt Nam từ đời Triệu Đà (207 trước Công nguyên) đến đời Lý Chiêu Hoàng. Không rõ Lê Văn Hưu soạn bộ này từ lúc nào, chỉ biết đến năm 1272 thì hoàn tất. Bộ sử gồm tất cả ba mươi quyển, được đưa lên cho vua Trần Thánh Tông xem và được nhà vua khen ngợi.

    Lê Văn Hưu có thời gian làm đến Thượng Thư bộ binh và là phó của Thượng tướng Trần Quang Khải, được phong tước Nhân Uyên hầu. Ông mất ngày 23.3 năm Nhâm Tuất (13322) thọ 92 tuổi, an táng tại xứ Mả Giòm, nay thuộc thôn Phủ Lý Nam xã Triệu Trung, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa.

    Tác phẩm của Lê Văn Hưu được biết duy nhất chỉ có bộ "Đại Việt sử ký" nhưng nay đã thất truyền. Tuy thế, chính từ cơ sở chủ yếu của bộ sử này mà Ngô Sĩ Liên, một sử gia đời Lê đã soạn được bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" có giá trị để người đời sau hiểu về cội nguồn của dân tộc.

    Chùa Phổ Minh

    Chùa Phổ Minh tọa lạc trên quê hương của họ Trần ở thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, cách thành phố Nam Định khoảng chừng 3 km về phía Bắc.

    Các vua nhà Trần, dù bận việc triều chính ở Thăng Long nhưng luôn hướng về quê hương, và khi lên làm Thái Thượng hoàng thì thường về sống ở đấy. Vua Trần Thái Tông, sau khi đuổi quân Mông Cổ ra khỏi đất nước, liền nhường ngôi cho con (1258), về sống ở Tức Mặc, cho xây cung Trùng Quang ở đây và thăng làng Tức Mặc lên làm phủ Thiên Trường. Chùa Phổ Minh được xây vào buổi đầu của vương triều (1262) nên có quy mô khá to lớn. Chùa nằm về phía Tây của cung Trùng Quang. Chùa Phổ Minh còn được gọi là chùa Tức Mặc hay chùa Tháp. Không biết chùa được xây từ năm nào, nhưng kiến trúc quan trọng nhất của chùa là chiếc tháp thì được hoàn thành vào năm 1305.

    Cấu trúc của chùa dựa theo trục cân xứng từ cổng Tam Quan qua nhà bia, tháp và đền toàn Tam Bảo. Trong toàn Tam Bảo có nhiều tượng đẹp và sinh động như tượng "Phật nhập Niết Bàn", "Văn Thù Bồ Tát", "Phổ Hiền Bồ Tát".

    Hiện vật tượng trưng cho nghệ thuật khắc gỗ của đời Trần còn lưu lại đáng chú ý nhất là bốn cánh cửa bằng gỗ lim lớn (mỗi tấm cao 1m92, rộng 0m79) được lắp ráp ở nhà Bái Đường, ngay ở lối đi vào chính giữa của chùa. Bốn cánh cửa này hiện nay vẫn còn chắc chắn và nguyên vẹn dù đã trải qua 700 năm. Mỗi cánh cửa được chạm rồng công phu và tinh xảo, con rồng uốn lượn theo hình lá đề rất uyển chuyển. Tất cả hoa văn ấy được bố trí cân xứng nhau, cho nên khi đóng lại tạo nên một không gian trang trí hoàn chỉnh. Ngoài bốn cánh cửa lim ấy ra thì chùa không còn đồ gỗ nào khác của thế kỷ ấy.

    Còn chiếc tháp, vì là cột kết cấu bằng gạch đá nên vẫn còn tồn tại. Tháp được xây muộn hơn chùa gần nửa thế kỷ (1305). Tháp quay mặt về hướng Nam, có hình chóp, cao 21m gồm 14 tầng. Tháp được xây trên một hồ cạn, vuông. Hồ có hành lang bao bọc, bốn phía có cửa. Để tháp hình vuông mỗi cạnh 5,2m. Tầng đế tháp cao 2,2m xây bằng đá xanh, có hình dáng bông sen nở xòa mỗi cạnh đều có cửa. Các tầng tháp đều có mái cong ở bốn phía và bốn cạnh cũng đều có cửa tò vò, tầng trên nhỏ hơn tầng dưới và cứ thế vút lên tạo nên dáng vẻ cách điệu và ước lệ của một chiếc hoa sen khổng lồ đang hé nở. Phía cao trên đỉnh tháp là một chỏm nhọn có hình bầu rượu.

    Vào năm 1987 chùa và tháp đều được trùng tu lại để bảo toàn di tích kiến trúc này cho hậu thế.

    --------------------------------------------------------------------------------
     
  13. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814
    mình rất thích về lịch sủ nhà trân nên post lên cho anh em cùng đoc nha
     
  14. QuansuBaoLong

    QuansuBaoLong Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    7/7/03
    Bài viết:
    255
    Nơi ở:
    biết để làm gì?
    Ủa! Tui kô có ý câu bài nhưng cho phép tui được hỏi 1 số câu:
    1-1 phần quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã lọt vào tay TQ ư? Sao trong bản đồ VN đâu có ghi hải đảo nào của TQ đâu!
    2-Tiểu sử của vị vua Bảo Đại-vị vua cuối cùng của VN? Tui nghe nói là ổng cưới Nam Phương hoàng hậu và mất tại Pháp! Tui chỉ muốn biết về ổng,thê thiếp và các đứa bộ công cụ lao động̉a ổng (các thái tử, hoàng tử ấy mà)!
     
  15. trungyhth

    trungyhth Mario & Luigi Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    6/5/04
    Bài viết:
    861
    Nơi ở:
    Trái tim KL
    Lập ra topic này mà không và theo giõi thường xuyên được,cảm thấy mình là người có tội thật đáng xấu hổ,mong được huynh đệ lượng thứ.
     
  16. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814
    mấy bác tài quá nhỉ đọc được chừng ây chử chắc khùng luôn quá tối thì chỉ thích nhửng trận đánh lớn của dân tộc thôi.
     
  17. great_sephiroth

    great_sephiroth Mayor of SimCity GameOver

    Tham gia ngày:
    29/5/04
    Bài viết:
    4,145
    Nơi ở:
    North Cave
    Vấn đề này đã được giải mật trong hồ sơ trắng của Bộ ngoại giao mới đây, nên nói ko sợ sai chính sách của Ban tư tưởng văn hoá TW.
    Thực ra khi quân ta đánh Sài Gòn, giữa TQ và Mỹ đã có những mật ước, TQ đảm bảo cho chế độ Nguỵ quyền Sài gòn ko sụp đổ, đổi lấy Mỹ sẽ tạo điều kiện cho TQ thu hồi Đài Loan. TQ đã xâm nhập quân đảo Trường Sa(khi mà Nguỵ quân còn đang nắm giữ), Thiệu đã xin Mỹ giúp, nhưng Mỹ, do mật ước này, đã làm ngơ.
     
  18. QuansuBaoLong

    QuansuBaoLong Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    7/7/03
    Bài viết:
    255
    Nơi ở:
    biết để làm gì?
    Ý của ông anh là Mỹ vì kô muốn cho TQ chiếm lấy Đài Loan nên làm ngơ bỏ mặc bọn Ngụy quyền Sài Gòn hả? Theo tui chắc là kô phải đâu! Do Mỹ đã kí hiệp định Pari 1973 với Bắc Việt Nam, vì thế để thực hiện cam kết nên nó kô thể nào tiếp tục dính líu quân sự, chính trị vào miền Nam Việt Nam được! Và nếu nó bỏ mặc làm ngơ thì tại sao nó vẫn còn để lại hàng chục cố vấn Mỹ ở Sài Gòn, đồng thời cung cấp trực thăng cho gia quyến bọn lính sĩ quan ngụy trốn sang Mỹ với lý do "tỵ nạn chính trị"?
     
  19. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    đọc đến đây ngẫm lại thấy buồn, kô hiểu sao những nhà sử học của VN nghĩ sao nữa. trên bản đồ thì cả 2 đều thuộc chủ quyền của VN nhưng trên thực tế thì ai cũng biết. thế mà trong sách lịch sử của bộ giáo dục và đào tạo tuyệt nhiên kô hề đề cặp gì đến vấn đề này. từ đó, thế hệ trẻ của chúng ta sẽ ra sao ? mới đây, vì tranh giành chủ quyền của một hòn đảo mà hàn quốc biểu tình chống lại nhật. còn VN mình thì sao ?
     
  20. wiwi

    wiwi The Pride of Hiigara

    Tham gia ngày:
    31/1/04
    Bài viết:
    9,401
    Nơi ở:
    *ADULT CONTENT*
    ối, cái đáng buồn thì cứ để đó, chúng ta cũng sẽ giải quyết một ngày nào đó (chúng ta hay chính phủ? :D). Đầu tiên chào mừng huynh Chiplucky trở lại (hay tạt qua? :)))
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này