QUYỀN THẦN LOẠN NƯỚC: 1. Đổ Anh Vũ: Thái Úy, Cảo điền nhi Tháng 9 năm 1138, Vua Lý Thần Tông băng hà lúc 23 tuổi, hoàng thái tử Thiên Tộ nối ngôi báu khi đó mới 3 tuổi, hiệu là Anh Tông Hoàng đế, tôn mẹ là Hoàng hậu Lê Cảm Thánh làm Thái hậu. Lê Thái hậu lại tư thông với Thái úy Đỗ Anh Vũ, cho nên phàm việc gì bất cứ lớn nhỏ đều ở tay Đỗ Anh Vũ quyết đoán cả. Đỗ Anh Vũ được thể ra vào chỗ cung cấm, kiêu ngạo và khinh rẻ đình thần, ức hiếp vua, uy hiếp quan lại trong triều. Năm Đại Định thứ 11 (1150), các tướng lĩnh chỉ huy các đội quân cấm vệ, một số thân vương như Vũ Đái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và lao động đường phố mã Dương Tự Minh thấy Đỗ Anh Vũ lộng quyền quá độ, lo trừ đi. Vua xử án Anh Vũ, đày Anh Vũ làm Cảo điền nhi (tức là đày đi là người cày ruộng cho nhà nước ở vùng Cảo Xã, nay thuộc đất Từ Liêm, Hà Nội). Thái hậu lo buồn, cố nghĩ cách để phục hồi chức tước cho Anh Vũ, bèn mở hội lớn nhiều lần để Vua ân xá cho tội nhân, mong rằng Anh Vũ cũng được dự vào đấy. Anh Vũ sau nhiều lần được ân xá tội lại giữ chức thái úy như cũ, càng được yêu dùng hơn, do vậy càng làm oai làm phúc, sát hại mọi người, lúc nào sự thù hằn cũng lộ rõ ra ngoài. Hắn còn sợ bọn lính đi bắt bớ thi hành lệnh không được như ý, mới dâng vua hơn một trăm thủ hạ, lập làm đô Phụng Quốc Vệ, hễ ai phạm tội cũng giao cho lính ở đô Phụng Quốc Vệ đi bắt. Thân vương như Vũ Đái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và lao động đường phố mã Dương Tự Minh mưu sự không thành lại bị giết hại cả. ------------------ 2. Đàm Dĩ Mông Thái Phó, Thái Úy Lý Cao Tông tuy giữ được ngôi vua nhưng khi trưởng thành đã không trở thành minh quân của nhà Lý. Tới năm 1190, ông dùng em vợ là Đàm Dĩ Mông vốn là người không có học làm thái phó nên việc triều chính càng suy sút. Tháng 9 năm 1203 có cuộc nổi loạn của 2 người Đại Hoàng Giang là Phí Lang và Bảo Lương trước đây đã tâu các tội mọt nước hại dân của Đàm Dĩ Mông, bị người này đánh, sinh lòng oán hận. Hai người này nhân khi rối ren liền làm phản. Thời Lý Cao Tông, Đàm Dĩ Mông làm quan đã có lúc lên tới chức phụ quốc thái phó, quyền uy khét tiếng cả triều đình. Bởi cậy quyền mà đánh Nguyễn Bảo Lương nên đến năm 1203, Đàm Dĩ Mông bị phe cánh Nguyễn Bảo Lương trả thù, bị vua giáng xuống hàng đại liêu ban. Nhưng rồi về sau, kinh thành náo loạn, chính sự rối ren, tên tuổi Đàm Dĩ Mông gần như bị chìm trong quên lãng. Vào năm Kỉ Tị (1209), để trả thù vụ Phạm Du giết chết cả chủ tướng của mình là Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc đã đem quân đội đánh thẳng vào cấm cung, bắt cả vương tử Thầm và vương tử Hạo Sảm về Hải Ấp. Bấy giờ, mặc dù trên danh nghĩa, triều đình Cao Tông vẫn còn đó, nhưng bọn Quách Bốc đã cùng nhau lập vương tử Thầm lên ngôi. Sau, họ lại lấy cớ vương tử Thầm chỉ là con thứ nên lập vương tử Hạo Sảm. Có lẽ lúc ấy do vương tử Hạo Sảm chỉ mới 15 tuổi, dễ sai khiến hơn nên họ mới lập Hạo Sảm làm vua thay cho vương tử Thầm. Một triều đình nhỏ tồn tại ở ngoài một triều đình lớn đã được thiết lập. Trong triều đình nhỏ của Hạo Sảm, Đàm Dĩ Mông bỗng dưng được cất nhắc, cho làm đến chức thái úy. Triều đình nhỏ này tồn tại chưa được bao lâu thì bị vua Lý Cao Tông giải tán. Vương tử Hạo Sảm lại trở về kinh. Đàm Dĩ Mông và tất cả những ai đã nhận chức tước do Hạo Sảm ban đều vì thế mà rất lo lắng cho số phận của mình. Để lập công chuộc tội, Đàm Dĩ Mông đã phản bội những người trước đã cùng mình nhận chức tước của Hạo Sảm, bắt họ về nạp cho Lý Cao Tôn. Đàm Dĩ Mông trước đã hàng phục Lý Thầm và Quách Bốc vẫn không bị trị tội, được làm chức thái uý. -------------------- 3. Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; còn có tên là Lê Quý Ly 黎季犛; 1336–1407) Khu mật đại sứ, Phụ chính Thái sư nhiếp chính, Trung tuyên Vệ quốc Đại vương Thánh Nguyên Thái Thượng Hoàng Đế Là một vị vua Việt Nam, người đã tiến thân từ một đại quan nhà Trần để khởi đầu nhà Hồ của lịch sử Việt Nam. Trong thời gian cầm quyền, ông đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng, nhưng bị thất bại trong việc hợp sức toàn dân chống lại cuộc xâm lăng của nhà Minh. Tiểu sử Theo gia phả họ Hồ, tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang (Trung Quốc), đời Hậu Hán thời Ngũ đại Thập quốc (năm 947-950), tương đương thời Dương Tam Kha của Việt Nam, sang làm Thái thú Diễn Châu và định cư ở hương Bào Đột, nay là xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đến đời nhà Lý, có người trong họ lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa, làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình. Quý Ly là cháu bốn đời của Lê Huấn. Ông có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ hai vua nhà Trần, do đó ông sớm được đưa vào làm quan trong triều đình nhà Trần. Sự nghiệp Phụ chính nhà Trần Năm 1371, vua Trần Dụ Tông cho Lê Quý Ly làm Trưởng cục Chi hậu. Sau, vua Trần Nghệ Tông đưa ông lên làm Khu mật đại sứ, lại gả em gái là công chúa Huy Ninh. Trong hơn 20 năm làm đại thần nhà Trần, Lê Quý Ly nhiều lần được cử cầm quân ra mặt trận chống lại Chiêm Thành, nhưng do tài năng quân sự hạn chế nên phần lớn những lần xuất quân, ông đều bị thất trận. Tuy nhiên, ông vẫn được sự tin cậy của các vua Trần. Sau khi chiến tranh với Chiêm Thành lắng xuống, các tông thất nhà Trần nhiều người thấy uy quyền trong triều của Lê Quý Ly quá lớn, sợ ông cướp ngôi nhà Trần nên đã mưu giết ông. Nhưng Lê Quý Ly được sự tin tưởng tuyệt đối của Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, ra sức ủng hộ và che chở ông, do đó những người mưu hại ông đều bị thượng hoàng giết, trong đó có cả con, cháu của chính thượng hoàng. Năm 1395, thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, ông được phong làm Phụ chính Thái sư nhiếp chính, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước. Vua Trần Thuận Tông là con rể ông, hoàn toàn bị ông thao túng. Tháng 4 năm 1396, Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy (thông bảo hội sao). Đây là lần đầu trong chính sử Việt Nam, tiền giấy được lưu thông. Lê Quý Ly bức vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô, việc này thúc đẩy một số quần thần trung thành với nhà Trần (Trần Khát Chân...) mưu tính làm chính biến lật đổ họ Hồ. Nhưng Lê Quý Ly đã ra tay trước, tiêu diệt hết phe này. Tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Lê Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu. Ông đổi sang họ Hồ, lập nên nhà Hồ. Lê Quý Ly sở dĩ đổi sang họ Hồ vì nhận mình có thủy tổ là Hồ Công Mãn, dòng dõi vua Thuấn, đặt sang quốc hiệu Đại Ngu để kế tục Ngu Thuấn. Tuy nhiên, Trần Xuân Sinh cho rằng: Hồ Quý Ly đã nhận sai. Dòng dõi vua Thuấn chỉ có chi họ Diêu và họ Quy chứ không có chi nào họ Hồ. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Hồ Công Mãn là thủy tổ họ Trần chứ không phải họ Hồ. Vua Chu Vũ Vương sau khi diệt nhà Thương, tìm được Quy Mãn là dòng dõi vua Thuấn và phong cho làm vua nước Trần. Sau khi mất, Mãn được đặt thụy hiệu là Trần Hồ công. Công là tước, Hồ là thụy hiệu chứ không phải họ. Từ Trần Hồ công truyền các đời, tới Trần Thân công, Trần Tương công... Các vua nước Trần từ thời Tây Chu trở đi đều là dòng dõi Trần Hồ công chứ không phải mang họ Hồ. Do đó Lê Quý Ly đổi sang họ Hồ và nhận dòng dõi vua Thuấn chỉ là mượn danh dòng họ đế vương cổ xưa. Sau này nhà Minh sang đánh Đại Ngu cũng kể ra 1 trong 22 tội của Hồ Quý Ly là tự ý đổi từ họ Lê sang họ Hồ. Vua nhà Hồ Xây dựng đất nước Hồ Quý Ly lên ngôi, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên. Chưa được một năm, theo cách nhà Trần, ông nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn tự mình quyết đoán mọi công việc. Năm 1403, ông ban hành các đồ đo lường (cân, thước, đấu, thưng) để làm chuẩn trong việc buôn bán[3]. Năm 1404, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương quy định các người đỗ thi Hương phải qua kỳ thi làm toán pháp mới được tiếp tục thi Hội. Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuyền chiến, v.v. Ông thường hỏi các quan: "Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để đánh giặc Bắc?" Để có nhiều quân, Hồ Quý Ly lập ra hộ tịch bắt mọi người cứ 2 tuổi trở lên phải kê khai ai ẩn náu phải phạt. Hộ tịch làm xong, số người từ 15 tuổi đến 60 hơn gấp mấy lần trước. Quân số do vậy tăng thêm nhiều. Hồ Quý Ly đặc biệt chú trọng luyện tập thủy binh để giữ mặt sông mặt biển. Ông cho đóng những con thuyền lớn bên trên lát ván để đi lại dễ dàng, khoang dưới cho người chèo chống rất lợi hại. Ở các cửa bể và những nơi hiểm yếu trên các sông lớn, ông cho đóng cọc, hình thành những trận địa mai phục quy mô. Về biên chế quân đội, Quý Ly phân chia Nam Bắc gồm 12 vệ, Đông Tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân có 30 đội, trung quân 20 đội Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội. Ngoài ra còn 5 đội cấm vệ quân. Tất cả do một Đại tướng thống lĩnh. Thất bại trước nhà Minh Chiến tranh Minh-Đại Ngu: Năm Ất Dậu (1405) sau những năm tháng ngoại giao mềm mỏng, chịu lép không kết quả, cha con Hồ Quý Ly phải đứng trước thử thách hiểm nghèo: Đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh. Hồ Quý Ly giao cho Hoàng Hối Khanh chỉ huy đắp thành Đa Bang, lấy gỗ đóng cọc ở ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì) và đưa quân đóng giữ các nơi. Nhưng đúng như Hồ Nguyên Trừng nói: "Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà thôi." Năm 1406, lấy cớ "Phù Trần diệt Hồ", nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang 80 vạn quân sang đánh Đại Ngu. Trước các mũi tiến công của địch, đội quân nhà Hồ có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút về giữ phòng tuyến Nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực vượt sông Hồng đánh chiếm thành Đa Bang. Cuối năm Bính Tuất (ngày 20 tháng 1 năm 1407) thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ cũng tan vỡ nhanh chóng. Từ Đa Bang ngày 22 tháng 1 năm 1407, quân nhà Minh tràn xuống chiếm kinh thành Thăng Long. Quân nhà Hồ lại một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau một vài trận phản công thất bại, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem theo bọn thuộc hạ chạy ra biển rồi vào Thanh Hóa. Đến Lỗi Giang (Mã Giang) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ lại một phen tan tác. Tướng Ngụy Thức thấy thế nguy cấp, bèn tâu: "Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ hạ tự đốt đi mà chết còn hơn." Hồ Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Quân Minh tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Lúc đó là tháng 6 năm Đinh Hợi (1407). Có thuyết nói ông bị nhà Minh sát hại khi sang Yên Kinh (Bắc Kinh), có thuyết lại nói ông bị đày làm lính ở Quảng Tây và mất sau đó vài năm. Nhà Hồ làm vua từ năm Canh Thìn (1400) đến năm Đinh Hợi (1407), được trọn 7 năm thì sụp đổ. Việt Nam lại nằm trong vòng đô hộ của phương Bắc. Nhà thơ Hồ Quý Ly là một vua có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong các tác phẩm của ông, có những bài thơ sáng tác dùng vào việc cai trị và đối ngoại. Khi còn là một đại quan nhà Trần, trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, Hồ Quý Ly đã cương quyết đề cao công tác giám sát, chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ: Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh Đốn sử triều đình phong hiến khinh Tá vấn Tử Trừng nhu Trung úy Thư sinh hà sự phụ bình sinh Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh Triều đình để phép bị coi khinh Tử Trừng, Trung úy sao mềm yếu? Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình! Khi thấy nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế bỏ, lập nên nhà Hồ thay thế nhà Trần. Ông có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân - Trần Thuận Tông) như sau: Tiền hữu dung ám quân Hôn Đức cập Linh Đức Hà bất tảo an bài Đồ sử lao nhân lực Được Tuấn Nghi dịch là: Cũng một duộc vua hèn Hôn Đức và Linh Đức Sao chẳng sớm liệu đi? Chỉ để người nhọc sức! Ông là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "Vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước. Về mặt xã hội, ông thiết lập sở Quản tế (như ty y tế ngày nay). Ở các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là Thường bình, lấy tiền công mua lúa trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng. Ông thực thi lại chính sách phân phối ruộng đất, quy định trong nước chỉ trừ đại vương và trưởng công chúa, còn không người nào được phép có quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp lại cho Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không được quá số quy định. Hồ Quy Ly là người có tinh thần tự chủ cao. Khi đã bị nhà Minh bắt giữ, ông đáp lời người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam bằng một bài thơ: 欲問安南事, 安南風俗淳。 衣冠唐制度, 禮樂漢君臣。 玉瓮開新酒, 金刀斫細鱗。 年年二三月, 桃李一般春。 Dục vấn An Nam sự An Nam phong tục thuần Y quan Đường chế độ Lễ nhạc Hán quân thần Ngọc ủng khai tân tửu Kim đao chước tế lân Niên niên nhị tam nguyệt Đào lý nhất ban xuân An Nam muốn hỏi rõ Xin đáp: phong tục thuần Y quan chẳng kém Đường Lễ nhạc nghiêm như Hán Bình ngọc rượu lừng hương Dao vàng cá nhỏ vẩy Mỗi độ mùa xuân tới Mận đào nở chật vườn Giai thoại Hồ Quý Ly có mối tình rất lạ với Công chúa Nhất Chi Mai. Tương truyền: Hồ Quý Ly lúc hàn vi thường theo người cha nuôi họ Lê đi buôn đường biển. Một lần thuyền chở hàng ghé vào bờ, Quý Ly thấy trên bãi biển có ai vạch lên cát câu thơ: Quảng Hàn cung lý Nhất Chi Mai. Quý Ly nhẩm thuộc lòng lấy câu thơ đó. Đến khi Quý Ly đã làm quan, một hôm hộ giá vua Trần đi chơi, nửa chừng ghé vào tránh nắng ở điện Thanh Thử, thấy trước điện rất nhiều cây quế, vua liền ra câu đối: Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế Các quan cùng đi lúng túng chưa kịp đối thì Quý Ly nhớ lại câu thơ trên bãi biến năm xưa, bèn đọc luôn: Quảng Hàn cung lý Nhất Chi Mai Cả hai câu ghép lại thành hai vế đối nhau rất chỉnh. Nghĩa là: Thanh Thử điện kia ngàn gốc quế Quảng Hàn cung nọ một cành mai Nghe xong các quan đều phục tài Hồ Quý Ly, vua Trần càng kinh ngạc hơn bởi nhà vua có một công chúa đặt tên là Nhất Chi Mai. Nàng ở trong cung cấm không ra đến ngoài. Vua hỏi Quý Ly: Nhà ngươi làm sao biết được trong cung tả ta có công chúa tên Nhất Chi Mai tòa lầu của công chúa là cung Quảng Hàn do chính ta đặt tên? Quý Ly cứ thực tâu lại việc trước. Vua cho là chuyện lạ, duyên trời đã định bèn gả công chúa Nhất Chi Mai cho Quý Ly. Nhất Chi Mai sinh được 2 con trai thông minh, có tài là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương. Tác phẩm Hồ Quý Ly đã viết các tác phẩm sau: Quốc ngữ thi nghĩa (viết về chủ đề giáo dục, nay đã thất truyền) Minh đạo lục (sách lý thuyết, 14 thiên, nay đã thất truyền) Nhận định Về cải cách và chống xâm lược Sách Hồ Quý Ly và những cuộc cải cách trong lịch sử của Viện Sử học đã nêu nhận định khái quát về Hồ Quý Ly. Nói chung, những cải cách của Hồ Quý Ly nhằm mục đích xây dựng một nước Đại Ngu cường thịnh. Tuy nhiên, tư tưởng đổi mới của Hồ Quý Ly và những cải cách của ông thực hiện quá dồn dập trong một thời gian ngắn, không đạt kết quả như mong đợi và gây ra sự phẫn nộ trong nhân dân; đặc biệt là với các sĩ phu trung thành với nhà Trần. Hồ Quý Ly, theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, là một nhà cải cách có tài nhưng khả năng về quân sự của ông chưa tương đương với tài năng về văn trị. Khi còn làm tướng nhà Trần cầm quân chống Chiêm Thành, Hồ Quý Ly thường bị thua trận (thậm chí đã bị tướng dưới quyền chê là "bất tài"). Khi phải đối phó với nguy cơ xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly chỉ mong dùng lực đối lực để chống lại kẻ địch đất rộng người nhiều mà không tính tới chiến thuật. Ông than thở với các quan: "Ước gì có 100 vạn quân để chống lại giặc bắc". Về điểm này Hồ Nguyên Trừng sáng suốt hơn ông. Khi được Hồ Quý Ly giao phó việc quân sự, Hồ Nguyên Trừng nói "Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi". Nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của Hồ Quý Ly chống lại thế lực ngoại bang của nhà Minh là sự mất lòng dân[9]. Khi lâm nguy, ông cũng mang phong độ của một văn nhân chứ không giống một chiến tướng (xem bài thơ phần Nội trị) nên không dám liều mình chết ở Lỗi Giang, dù lúc đó tuổi đã 70. Hồ Quý Ly là vị vua giỏi cầm bút hơn cầm gươm. Nếu không có sự can thiệp mạnh của nhà Minh, rất có thể sự nghiệp của ông hoàn toàn có khả năng phát triển, mặc dù gặp phải sự chống đối của những người trung thành với nhà Trần trong nước. Về trách nhiệm trước sự xâm lăng của nhà Minh Sử gia Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược nêu một giả thiết khác hơn về ông. “ Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung (trước sau), thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người! Nhưng đấy là cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Quý Ly? ” Tuy nhiên, các sử gia hiện đại có ý kiến cho rằng: Dù nhà Hồ thay ngôi nhà Trần hay không thì nhà Minh vẫn xâm lược. Dẫn chiếu từ thời Trần Phế Đế cho thấy khi Trần Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Minh Thái Tổ đã định đánh Đại Việt, nhưng do có người can gián (chưa có thời cơ tốt) nên tạm thôi. Tới khi Minh Thái Tổ qua đời, cháu nội Minh Huệ Đế (Chu Doãn Văn) là ông vua ôn hoà lên thay (1398), Hồ Quý Ly chọn thời điểm lấy ngôi nhà Trần (1400) lúc đó khá phù hợp, khi bản thân ông tuổi đã cao. Nhưng biến cố sau đó nằm ngoài dự tính của ông. Không lâu sau (1403), Doãn Văn bị chú là Chu Đệ cướp ngôi. Chu Đệ - Minh Thành Tổ là một vị vua hiếu chiến như vua cha Thái Tổ, và đây cũng có thể xem là một nguyên nhân khiến Đại Ngu bị xâm lược. Nếu Quý Ly không lấy ngôi nhà Trần thì sau khi ông mất, nhà Trần suy yếu và kiệt quệ sau "hoạ Chiêm Thành" cũng sẽ trở thành tiêu điểm cho "lòng tham" của những vua phương bắc hiếu chiến như Chu Đệ. Gia đình Vợ: Công chúa Huy Ninh, con gái Trần Minh Tông. Trước lấy Nhân Vinh (?-12/1370). Trần Nghệ Tông gả em gái cho Quý Ly tháng 5 âm lịch năm 1371. Con: Hồ Nguyên Trừng, không rõ mẹ là ai. Hồ Hán Thương, con công chúa Huy Ninh. Công chúa: Thánh Ngâu, con công chúa Huy Ninh. Sau là Khâm Thánh hoàng hậu của Trần Thuận Tông.
ANH HÙNG LAM SƠN 1. Trịnh Khả (1403-1451) Thiếu Uý, Hành quân tổng quản Xa kỵ quân sự đồng tổng quản Kim tử vinh lộc đại phu tả lân Hổ Vệ tướng quân, Bảo chính công thần Là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá, Việt Nam. Trịnh Khả có tổ tiên làm quan nhà Trần, đánh giặc Nguyên có công. Cha ông là Trịnh Quyện làm chức chánh tổng, sinh được 4 người con trai, Trịnh Khả là con út. Thù giặc giết cha Tương truyền khi Trịnh Khả lớn lên là lúc nước Đại Việt bị nhà Minh đô hộ. Một hôm Trịnh Khả đi chăn trâu ngồi nghỉ ở cổng chùa trên núi, có viên tướng nhà Minh từ thành Tây Đô (Thanh Hoá) đi tới, trông thấy Trịnh Khả thì ưa, bèn dẫn về nuôi làm nô lệ. Ít lâu sau, viên tướng này xem tướng Trịnh Khả, cho rằng ông sẽ làm tướng quân để đánh người Minh nên muốn giết ông. Trịnh Khả sợ hãi bỏ trốn, qua sông Mã, ẩn náu ở nhà bà cô thuộc xã Diên Phúc. Quân Minh đuổi theo không kịp, bèn bắt giam cha ông là Trịnh Quyện để buộc ông phải đến, nhưng Trịnh Khả cũng không chịu đến. Quân Minh bèn giết Trịnh Quyện bỏ xác xuống sông. Trịnh Khả biết tin, nhân đêm lẻn về vớt xác cha lên chôn cất. Căm thù quân Minh, ông tìm đến Lam Sơn theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa. Nhiệm vụ đặc biệt Năm 1416, Trịnh Khả trong số 17 người cùng Lê Lợi tham gia Hội thề Lũng Nhai, ước hẹn cùng nhau chung sức đánh quân Minh cứu nước. Những ngày đầu khởi nghĩa Lam Sơn, Trịnh Khả luôn mang gươm theo hầu Lê Lợi, sau đó được thăng làm thứ thủ đội thiết đột. Năm 1418, quân Minh truy kích Lê Lợi không được, sai người đào mộ Lê Khoáng là cha của Lê Lợi, lấy hài cốt mang về. Lê Lợi sai ông và Bùi Bị đi lấy lại. Ông cùng Bùi Bị đội cỏ, lẻn bơi đến thuyền quân Minh, lấy trộm lại được hài cốt Lê Khoáng mang về cho chủ tướng. Trịnh Khả biết tiếng Ai Lao, được Lê Lợi sai mang thư sang nhờ vua Ai Lao (Lào) giúp quân, lương, khí giới và voi chiến. Vua Ai Lao nhận lời, do đó quân Lam Sơn có thêm lực lượng cự địch. Trịnh Khả dũng cảm thường đi xung phong trong các mặt trận ở Thanh Hoá, Diễn Châu, Nghệ An và lập được nhiều công. Đánh đuổi người Minh Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Trịnh Khả cùng Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Lê Triện ra phía Tây Bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông Bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan (Hà Nội). Tiến theo đường tắt đến gần Đông Quan, cánh quân của Trịnh Khả gặp tham tướng quân Minh là Trần Trí. Trí thấy quân Lam Sơn ít nên mang hết quân ra đánh. Ông cùng Phạm Văn Xảo, Lê Triện, Đỗ Bí hợp sức đánh bại được Trí ở Chương Đức, tiến lên đắp lũy ở phía tây Ninh Giang. Trần Trí bại trận liền cầu viện Lý An, Phương Chính ở Nghệ An. An và Chính đem quân vượt biển ra Bắc tiếp viện cho Đông Quan. Nghe tin viện binh nhà Minh từ Vân Nam do Vương An Lão chỉ huy sắp tiến sang theo đường Hưng Hóa, ông cùng các tướng chia quân làm hai cánh: ông cùng Phạm Văn Xảo tiến lên Tây Bắc đánh chặn Vương An Lão, còn Lê Triện đóng đồn phía Tây Ninh Giang uy hiếp Đông Quan. Trịnh Khả và Phạm Văn Xảo sợ viện binh địch hợp lại với nhau, bèn đi gấp lên đón đánh ở cầu Xa Lộc, đánh bại viện binh Vân Nam của Vương An Lão, chém và bắt hàng ngàn người. Quân Minh thua trận bỏ chạy vào thành Tam Giang. Ít lâu sau tướng Minh là Vương Thông mang 5 vạn quân sang cứu viện cũng bị Lê Triện, Đinh Lễ và Nguyễn Xí phá tan. Từ đó thanh thế của các tướng Lam Sơn Bắc tiến rất lừng lẫy. Lê Lợi mang đại quân ra Bắc, sai Trịnh Khả đánh thành Tam Giang và phong làm thiếu uý. Đầu năm 1427, Lê Lợi đóng dinh ở Bồ Đề, sai ông vây cửa Đông thành Đông Quan. Cuối năm 1427, viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh tiến sang. Ông cùng Phạm Văn Xảo mang quân chống giữ ở ải Lê Hoa, nhận lệnh không giao chiến với viên tướng lão luyện Mộc Thạnh. Không lâu sau Liễu Thăng tử trận, Thạnh nghe tin bỏ chạy. Ông cùng Phạm Văn Xảo đuổi theo chém hơn 1 vạn quân Minh, bắt sống 1000 người. Sau đó Vương Thông bị vây trong thành Đông Quan phải xin giảng hòa rút về nước. Công thần nhà Lê Khai quốc công thần Năm 1428, Trịnh Khả được phong làm Kim tử vinh lộc đại phu tả lân hổ Vệ tướng quân, được ban túi kim ngư, ngân phù. Năm 1429, khi khắc biển công thần, ông được phong là liệt hầu, coi giữ trong cung điện và giữ chức đô thái giám 4 đạo, coi quản mọi việc trong ngoài, kiêm án phủ sứ ơ Tuyên Quang. Sau đó ông được gia phong chức hành quân tổng quản xa kỵ quân sự đồng tổng quản, lĩnh các đội thiết đột. Năm đó quốc vương Ai Lao là Côn Cô mới lên ngôi, có bầy tôi là Kha Lại làm phản. Côn Cô dâng voi cầu viện. Lê Thái Tổ sai Trịnh Khả mang quân sang giúp, diệt được Kha Lại. Năm 1433, ông được thăng làm Bảo chính công thần gia Kim tử vinh lộc đại phu Lương Giang trấn, quán quân tướng quân, nhập nội thiếu bảo tham tri quân sự các vệ thuộc đạo Hải Tây và chức thái giám coi các việc trong ngoài, trụ quốc, ban kim ngân phù. Trong vòng xoáy quyền lực Năm 1434, thời Lê Thái Tông, quyền thần Lê Sát lộng hành, ông cho rằng danh vị đã đủ nên xin về hưu. Vua cho ông ra làm quan tuyên uý đại sứ trấn Lạng Sơn, coi việc quân dân, lại làm tổng quản vệ Nam Sách hạ. Năm 1437, Lê Thái Tông bãi chức tư đồ Lê Sát, gọi ông về làm chức tổng quản hành quân, coi việc quân vệ xa kỵ thuộc Tây đạo, quản lĩnh quân thiết đột thánh dực hậu đội, chức thái giám 6 quân ngự tiền; coi việc các đội thiết đột trung quân. Sau đó ông lại được phong thêm chức thiếu bảo, tham tri chính sự, rồi chức thiếu uý. Vua Thái Tông có nhiều vợ, các bà vợ gièm pha công kích lẫn nhau để tranh ngôi thái tử cho con. Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao bị giam ở vườn hoa. Trịnh Khả cứu thoát bà Ngọc Dao ra ngoài, sau bà được Nguyễn Trãi đem nuôi giấu và sinh ra hoàng tử Tư Thành (tức Lê Thánh Tông sau này) Năm 1442, vua Thái Tông đi tuần phía đông về Côn Sơn, mắc bệnh nguy kịch, ông theo hầu hạ. Thái Tông mất, ông rước quan tài về kinh, lập thái tử Bang Cơ lên ngôi, tức là Lê Nhân Tông. (xem chi tiết: Lê Thái Tông, Vụ án Lệ Chi Viên) Năm 1443, Nhân Tông còn nhỏ, thái hậu Nguyễn thị coi chính sự, ông được phong làm Nhập nội suy trung Tá lý Dương Vũ công thần, kiêm Lỗi Giang trấn phủ quân thượng tướng quân, cai quản việc quân các vệ Tây đạo, quận thượng hầu. Vua Chiêm Thành là Bí Cai 2 lần mang quân vây Hoá châu. Năm 1446, triều đình sai ông làm tiên phong đi đánh, các tướng Lê Thụ, Lê Khắc Phục đi sau. Trịnh Khả phá được thành Thi Nại, dụ được cháu Bí Cai là Tả Quy Lai đến ăn thề, sai Tả Quy Lai dụ Bí Cai ra hàng. Sau đó lại lập Tả Quý Lai làm vua. Trở về, ông được phong làm Suy trung tán trị dương vũ tĩnh nạn công thần, Thái Nguyên trấn phiêu kỵ thượng tướng quân, đặc tiến làm khai phủ nghi đồng tam ty, nhập nội thiếu uý, kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự, thượng trụ quốc, ban kim phù, Quốc thượng hầu. Trịnh Khả cùng Lê Thụ là bậc thái tể đứng đầu triều đình. Ông luôn là người thẳng thắn, giữ phép công và chức phận, lấy việc sửa lỗi cho vua nhỏ làm trách nhiệm. Trịnh Khả dùng pháp luật rất nghiêm khắc, đã xử án thì không thể xin nới tay. Tháng 7 năm 1451, có người gièm pha rằng cha con Trịnh Khả kết đảng mưu phản. Thái hậu Nguyễn Thị Anh sai bắt giết ông cùng con là Trịnh Bá Quát. Mọi người đều cho rằng ông bị oan. Năm 1453, Nhân Tông khôn lớn, ra coi việc triều chính, khôi phục lại quan tước và ban cho con cháu ông 100 mẫu ruộng. Năm 1484, Lê Thánh Tông truy tặng ông làm thiếu phó Liệt quốc công, sau lại truy tặng làm Hiển Khánh vương, cho thờ ông ở miếu trong làng. Do ông có công cứu thoát mẹ của Thánh Tông khi còn là tiệp dư của Thái Tông nên con cháu ông được biệt đãi hơn các bề tôi khác. Các con Trịnh Khả có 22 người con: 13 trai, 9 gái. Trong 13 người con trai, 10 người có tước vị. Con trưởng là Trịnh Bá Quát là đô chỉ huy sứ, bị hại cùng ông. Trịnh Công Lộ tước Đoan Vũ hầu Trịnh Công Đán làm Định Công hầu Trịnh Công Tá làm Đô chỉ huy sứ, Thuần Mỹ hầu Trịnh Công Khản làm Tả đô đốc, Đoan quận công Trịnh Công Phú làm Tùng Lĩnh hầu Trịnh Công Ngô làm thượng thư bộ Hộ, Dương Đường hầu Trịnh Quý Địch làm Diên Phúc bá Trịnh Công Diễn làm thái bảo, Bảo quốc công Trịnh Công Hữu làm thái phó, Thọ quận công ---------------------------- 2. Lê Sát (? – 1437) Kiểm hiệu Tư khấu, Đại Tư đồ, Dương Vũ tĩnh nạn công thần Thái bảo, Cảnh quốc công Là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, người Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, Việt Nam. Tướng quân Lam Sơn Chiến công ở Quan Du và Khả Lưu Năm 1418, Lê Lợi xưng Bình Định vương phát động khởi nghĩa Lam Sơn. Là người cùng quê với Lê Lợi, Lê Sát tham gia khởi nghĩa từ đầu. Ông thường theo Lê Lợi tác chiến những lúc hiểm nghèo ở vùng núi Thanh Hóa. Năm 1420, Lê Lợi mang quân đánh tướng nhà Minh là Tạ Phượng và Hoàng Thành ở Quan Du, sai Lê Sát cùng Lý Triện ra đối địch. Quân Lam Sơn đánh bại quân Minh, chém hơn 1000 địch. Năm 1424, trong trận Khả Lưu, Lê Sát cùng Đinh Lễ, Phạm Vấn hăng hái đi trước, đánh tan quân Minh do Trần Trí, Sơn Thọ chỉ huy, chém được tiên phong Hoàng Thành, bắt được đô úy Chu Kiệt. Sau trận này quân Lam Sơn kéo thẳng đến vây thành Nghệ An 4 mặt. Lê Lợi lại điều Lê Sát cùng Đinh Lễ mang quân ra phía bắc vây đánh Tây Đô (Thanh Hóa), quân Minh thất thế cũng phải cố thủ trong thành. Trận Chi Lăng – Xương Giang Năm 1426, Lê Lợi tiến quân vây Đông Quan, chia quân đi đánh các thành. Lê Sát được lệnh cùng Lưu Nhân Chú đi đánh thành Xương Giang. Thành Xương Giang phòng thủ kiên cố nên quân Lam Sơn chưa hạ được. Đầu năm 1427, khi hai tướng vây Đông Quan là Đinh Lễ và Lý Triện bị tử trận khi tướng Minh là Vương Thông đánh úp ra, Lê Sát được điều về vây mặt nam Đông Quan. Tháng 6 năm 1427, nghe tin viện binh nhà Minh sắp sang cứu Vương Thông, ông được lệnh cùng Trần Nguyên Hãn trở lại đánh gấp thành Xương Giang, phải hạ cho được thành này trước khi Liễu Thăng và Mộc Thạnh kéo sang. Sau 3 tháng công phá, quân Lam Sơn hạ được thành. Tháng 9 năm 1427, Liễu Thăng đi đường Quảng Tây, Mộc Thạnh đi đường Vân Nam sang cứu Vương Thông. Đường Liễu Thăng đi dự tính từ Lạng Sơn, qua Xương Giang để vào Đông Quan. Lê Lợi sai Lê Sát cùng Lê Văn Linh, Lưu Nhân Chú mang 2 vạn quân và 5 voi trận lên ải Chi Lăng đón đánh. Lê Sát đặt phục binh ở Chi Lăng rồi sai tướng giữ ải là Trần Lựu mang quân ra đánh nhử, giả thua, trước tiên bỏ ải Pha Lũy về ải Chi Lăng. Quân Minh hăng hái tiến lên giành ải Pha Lũy, rồi tiến đến Chi Lăng. Ngày 20 tháng 9, hai bên lại đụng nhau ở Chi Lăng, Trần Lựu lại thua chạy. Liễu Thăng dẫn quân tiên tiến lên trước, Lê Sát và Lưu Nhân Chú đổ ra đánh, chém được Liễu Thăng ở núi Mã Yên cùng hơn 1 vạn quân Minh. Ngày 25 tháng 9, Lê Sát cùng các tướng lại xung trận, đánh thắng quân Minh một trận nữa, giết được tướng Lương Minh. Thôi Tụ và Hoàng Phúc lên nắm quyền chỉ huy. Quân Minh tuy thua nhưng còn đông và mạnh, Lê Sát chủ trương vây đánh, chặn giữ các đồn ải quanh vùng Chi Lăng và chặn đường về, chỉ để ngỏ đường đến Xương Giang. Thôi Tụ dự tính vào thành Xương Giang làm nơi trú quân để phối hợp với Vương Thông, nhưng khi tiến đến Xương Giang mới biết là thành đã bị quân Lam Sơn hạ. Thôi Tụ phải đóng quân ngoài cánh đồng Xương Giang. Lê Lợi điều Lê Văn An và Nguyễn Lý mang quân lên tiếp viện cho Lê Sát, vây chặt quân Minh. Tháng 10 âm lịch năm 1427, quân Lam Sơn tổng tấn công, thắng quân Minh một trận lớn, tiêu diệt 5 vạn địch, bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng hơn 3 vạn quân. Lê Sát được tính có công đầu trong trận này. Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng bị tiêu diệt phải bỏ chạy. Vương Thông ở Đông Quan thấy viện binh bị phá cũng đành xin giảng hòa và rút về nước. Quyền thần đời Lê Thái Tông Nhận di chiếu Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, Lê Sát được phong chức Kiểm hiệu tư khấu. Năm 1429, khi Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, Lê Sát được xếp hàng thứ 2, được phong làm Huyện hương hầu. Lê Sát được sự tín nhiệm của Lê Thái Tổ trong việc ủy thác lao động đường phố trợ con nhỏ là thái tử Lê Nguyên Long mới lên 10 tuổi. Do đó năm 1433, ông được Lê Thái Tổ gia phong làm Dương Vũ tĩnh nạn công thần, thăng làm đại tư đồ. Tháng 8 nhuận âm lịch cùng năm, Lê Thái Tổ mất, ông nhận di chiếu giúp vua mới Lê Thái Tông mới lên 11 tuổi. Lê Sát cho con gái là Lê Thị Ngọc Dao vào cung làm vợ vua. Ngọc Dao được phong làm nguyên phi. Chuyên quyền hành xử Do là người ít học, xuất thân võ tướng lại nóng tính, Lê Sát làm nhiều việc theo ý riêng. Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử đánh giá: "Nhiều việc Lê Sát xử lý quá khắt khe, làm bừa và không cân nhắc". Do có tư thù với Lưu Nhân Chú, Lê Sát vu tội và đánh thuốc độc giết Nhân Chú rồi đuổi em Nhân Chú là Khắc Phục từ chức Hành khiền Nam đạo ra làm Phán đại chính lý. Lê Sát còn dùng nhiều hình phạt tàn bạo khiến các quan lại dưới quyền e sợ. Vụ ám hại Lưu Nhân Chú bị dân chúng đồn đại là chủ mưu của Lê Sát, ông bèn bắt nghi can loan tin là giám sinh Nguyễn Đức Minh, tra khảo để kết tội chủ mưu nhưng Đức Minh không nhận. Lê Sát vẫn định mang nghi can đi xử tử, nhưng vì hình quan cho rằng tội trạng không rõ ràng nên Đức Minh chỉ bị đi đày và tịch biên tài sản. Sau đó Lê Sát làm nhiều việc xây cất khiến thợ thuyền phải lao động cực nhọc và oán thán, Lê Sát cũng bắt thợ mộc Cao Sư Đãng mang xử chém. Dù vua Lê Thái Tông đã nghe theo lời can của Nguyễn Thiên Hựu và Bùi Cấm Hổ xin giảm án tử hình, nhưng Lê Sát chuyên quyền vẫn quyết định xử tử phạm nhân. Quan đồng tri Bắc đạo là Bùi Ư Đài xin chọn những bậc kỳ lão vào cung giúp can gián vua nhỏ và đặt chức sư phó để chỉ huy trăm quan. Lê Sát thấy ý định đó đụng chạm đến quyền lớn đang trong tay mình, nên sai bắt Ư Đài tống giam, kết tội ly gián vua tôi. Dù Lê Thái Tông không đồng tình nhưng Lê Sát vẫn tâu đi tâu lại 4 lần, ép Thái Tông khép tội Ư Đài. Thái Tông bất đắc dĩ phải lưu đày Ư Đài, nhưng từ đó càng ngày càng ghét Lê Sát. Phản ứng của vua nhỏ Các gian thần Trình Hoàng Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư về phe với Lê Sát, khi Lê Thái Tổ còn sống đã gièm pha Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn khiến Thái Tổ giết hai công thần này. Trước khi mất, Thái Tổ ân hận, dặn không được trọng dụng những người gièm pha đó. Nhưng Lê Sát muốn cất nhắc người cùng cánh nên ra sức tiến cử mấy người đó với Lê Thái Tông. Các đại thần Bùi Cầm Hổ, Nguyễn Thiên Tích ra sức can ngăn, khuyên vua nên theo lời di huấn của cha. Lê Thái Tông bèn bác lời tâu của Lê Sát. Vì vậy Lê Sát ghét Bùi Cầm Hổ, điều Cầm Hổ ra làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn. Năm 1435, Lê Sát lại tâu Lê Thái Tông phải giết hoạn quan Nguyễn Cung mà Thái Tông ưa dùng. Thái Tông kiên quyết không nghe theo. Lê Thái Tông lên 14 tuổi, ham chơi muông thú trong điện, Lê Sát đến tận nơi can ngăn, lời lẽ nóng nảy và nói sẵng, không khiêm nhường. Vua Thái Tông im lặng, không phản ứng gì nhưng trong bụng càng thêm ghét ông. Bị bãi chức và xử tử Vua Thái Tông bên ngoài tỏ vẻ bao dung với cố mệnh đại thần khiến Lê Sát vẫn có ý tự đắc chuyên quyền. Năm 1437, Thái Tông đã lớn và biết xử lý công việc. Tháng 6 năm đó, vua bàn với các cận thần muốn triệu Trịnh Khả là người từng bị Lê Sát đuổi ra làm quan ở ngoài về kinh giữ chức Đồng tổng quản, cầm cấm binh để kiềm chế bớt quyền hành của ông. Lê Sát còn chưa biết vua Thái Tông đối phó với mình, lại vào triều tâu: Nếu Trịnh Khả được vào hầu trong cung cấm, thì sợ sẽ làm hại thần Thái Tông im lặng bỏ vào trong. Mấy hôm sau, các cận thần của vua làm sớ tâu Lê Sát chuyên quyền, tội không thể dung tha được. Vua nhận sớ tâu, sai bắt ông, giao cho hình quan xét hỏi. Lê Sát tâu rằng: Nay buộc cho thần cái tội chuyên quyền, thế là tội của thần do tiên đế ban cho. Lê Văn Linh và Lê Ngân muốn tâu đỡ tội cho ông, nhưng vua Thái Tông không nghe, hạ chiếu nói: "Lê Sát tự chuyên giữ quyền bính, ghen người tài, giết Nhân Chú để tự ra oai của mình, truất Trịnh Khả để người ta phục, bãi chức của Ư Đài khiến đình thần không ai dám nói, đuổi Cầm Hổ ra nơi biên thùy để gián quan phải ngậm miệng. Xem những việc làm ấy đều không phải là đạo làm tôi. Nay muốn khép vào luật hình để tỏ rõ phép nước, song vì là đại thần cố mệnh, có công với nhà nước, đặc cách khoan tha, nhưng phải bãi chức tước." Sau đó Thái Tông bắt giam người cùng phe Lê Sát là Đặng Đắc, cho Bùi Ư Đài được phục chức, triệu Bùi Cầm Hổ về kinh, cử tư khấu Lê Ngân thay Lê Sát chấp chính. Lê Sát hận Lê Ngân lấy mất chức của mình, nuôi nhiều võ sĩ như Lê Thảo, Lê Khản và Lê Khắc Hài, định dùng làm thích khách để mưu giết Lê Ngân. Việc đó nhanh chóng bị bại lộ. Tháng 7 năm 1437, Lê Thái Tông ra lệnh phế truất con gái ông là Nguyên phi Lê Ngọc Dao làm dân thường, rồi ra chiếu kết tội Lê Sát và những người cùng cánh: "Tội của Lê Sát đáng phải chết, không thể dung thứ được… Đặng Đắc là kẻ bày mưu cho Sát định hại xã tắc thì chém bêu đầu. Nguyễn Gia Mô biết chuyện mà không tố cáo thì phải lưu đày nơi xa[1]. Còn bọn Lê Văn Linh, Lê Lĩnh, Lê Thụ, Lê Ê, Lê Hiêu đều nên theo luật trị tội, nếu gặp ân xá cũng không được tha. Lê Bang là con rể Lê Sát, ... nên lưu đày nơi xa... Lê Sát nay lại ngầm nuôi bọn võ sĩ, mưu hại người trung lương, mưu kế gian giảo, đáng chém để rao." Lê Ngân và Bùi Cầm Hổ can rằng Lê Sát là công thần, không nên chém rao, vì vậy Thái Tông ra lệnh cho ông tự tử tại nhà. Tháng 7 năm 1437, Lê Sát tự vẫn chết tại nhà. Vợ con và điền sản của ông bị tịch thu. Những người cùng phe hoặc từng nói đỡ tội cho ông cũng bị phạt: Tham đốc Lê Văn Linh bị giáng xuống làm Tả bộc xạ, Điện tiền đô kiểm điểm Lê Ê bị giáng xuống làm Đồng tổng quản lộ Quy Hóa. Hai người cùng bị truy đoạt tấm biển "công thần" được ban cho từ thời Lê Thái Tổ. Năm 1453, Lê Nhân Tông đại xá, cấp cho con cháu ông 100 mẫu ruộng quan điền. Năm 1484, vua Lê Thánh Tông truy tặng ông chức Thái bảo, Cảnh quốc công. --------------------------------- 3. Lê Ngân (?-1437) Nhập nội tư mã, Tư khấu, Đô tổng quản hành quân Bắc đạo Nhập nội đại đô đốc, Phiêu kỵ thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Quốc thượng hầu Thái phó, Hoằng quốc công Là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, người Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, Việt Nam. Tướng quân Lam Sơn Năm 1418, Lê Lợi phát động khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Ngân tham gia khởi nghĩa từ đầu. Quân khởi nghĩa mới tập hợp nên chưa đủ mạnh, thường bị quân Minh đánh bại. Đầu tháng 4 âm lịch năm 1418, quân Minh kéo đến đánh quân Lam Sơn ở Lạc Thủy. Lê Lợi phải dùng nhiều vàng bạc trao cho Trịnh Đồ, Trịnh Khả, sai đến chỗ tướng Minh là Mã Kỳ, Sơn Thọ xin hoãn binh. Ngày 13 tháng 4 âm lịch, Mã Kỳ tiến đánh quân Lam Sơn. Lê Lợi sai Lê Ngân cùng các tướng Lê Thạch, Nguyễn Lý đặt phục binh, dụ quân Minh vào rồi đổ ra đánh, chém được 3000 quân địch và thu nhiều khí giới. Năm 1425, Trần Nguyên Hãn và Doãn Nỗ mang quân vào đánh Tân Bình và Thuận Hóa. Lê Lợi sai Lê Ngân cùng Lê Văn An mang 70 chiến thuyền vượt biển vào tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn. Quân Minh bị đánh bại, phải rút vào thành cố thủ. Làm chủ đất Tân Bình và Thuận Hóa, quân Lam Sơn huy động thêm được quân và voi trận ra bắc. Mùa thu năm 1426, Lê Lợi tiến quân ra bắc, sai ông trở về thay Lê Sát vây thành Nghệ An. Đầu năm 1427, khi các cánh quân Lam Sơn đang vây Đông Quan và vây đánh nhiều thành ở Bắc bộ thì Lê Ngân hạ được thành Nghệ An. Tướng giữ thành là Thái Phúc chịu đầu hàng nộp thành. Cuối năm đó, quân Lam Sơn đánh tan hai đạo viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh, khiến Vương Thông ở Đông Quan phải xin giảng hòa rút về nước. Công thần không toàn danh Trả thù cá nhân Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, tức là Lê Thái Tổ, Lê Ngân được phong chức Nhập nội tư mã, tham gia việc triều chính. Năm 1429, khi Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, Lê Ngân xếp hàng thứ tư, được phong làm Á hầu. Lê Thái Tổ mất, Lê Thái Tông còn nhỏ lên thay. Năm 1434, ông được phong làm tư khấu, Đô tổng quản hành quân Bắc đạo, cùng Đại tư đồ Lê Sát làm phụ chính. Con gái ông là Lê Thị Lệ được đưa vào cung làm vợ vua Thái Tông, phong làm Chiêu nghi. Người cùng làng ông là Phạm Mấn tranh chấp ruộng với gia nô nhà ông. Gia nô của Lê Ngân đi mách chủ, nói rằng thời khởi nghĩa Lam Sơn, Mấn từng có lần giúp quân Minh. Việc ấy đưa lên vua. Thái Tông sai bắt Phạm Mấn và kết án. Tư đồ Lê Sát bèn can: Nay chúng ta có quyền thế, trả thù người làng, muốn làm gì chẳng được! Sau này lỡ ra thất thế, làm sao gỡ được tai họa đến con cháu mình? Lê Ngân không nghe, nói lớn tiếng: Nếu con cháu nó gây thù thì sao con cháu ta không biết báo thù? Kết quả Phạm Mấn bị bắt đi đày. Trong vụ việc này, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn nhận xét ông là người “cứng, sẵng và hẹp hòi”. Theo chân Lê Sát Lê Sát được sự tín nhiệm của Lê Thái Tổ trong việc ủy thác lao động đường phố trợ vua nhỏ Lê Thái Tông, nhưng lạm dụng ngôi vị, làm nhiều điều vượt quyền, trái ý vua và kết oán với các quan trong triều. Tháng 6 năm 1437, Thái Tông đã lớn và biết xử lý công việc, muốn đối phó với Lê Sát, liền triệu những người bị Lê Sát đẩy ra ngoài làm quan về triều trọng dụng trở lại, như Trịnh Khả, Bùi Ư Đài, Bùi Cầm Hổ. Thái Tông sai các cận thần làm án Lê Sát. Lê Ngân và Lê Văn Linh tâu đỡ tội cho Lê Sát, nhưng vua Thái Tông không nghe, liền cách chức Lê Sát, phong cho Lê Ngân thay làm phụ chính. Ông được phong làm Nhập nội đại đô đốc, Phiêu kỵ thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Quốc thượng hầu. Lê Sát hận ông lấy mất chức của mình, nuôi các võ sĩ như Lê Thảo, Lê Khản và Lê Khắc Hài định dùng làm thích khách để mưu giết Lê Ngân. Việc đó bị bại lộ. Tháng 7 năm 1437, Lê Thái Tông ra chiếu kết tội Lê Sát và những người cùng cánh. Ban đầu Lê Sát bị xử chém rao ngoài chợ, nhưng Lê Ngân và Bùi Cầm Hổ can rằng Lê Sát là công thần, không nên chém rao, vì vậy Thái Tông ra lệnh cho Lê Sát tự tử tại nhà. Tài sản và vợ con Lê Sát bị tịch thu. Có một người vợ lẽ của Lê Sát là Trần thị được Thái Tông đem cho Lê Ngân. Con gái ông là Chiêu nghi Lê Thị Lệ được tấn phong làm Huệ phi thay con gái Lê Sát là Lê Ngọc Dao vừa bị phế. Không lâu sau có người tố cáo với Lê Thái Tông rằng Lê Ngân muốn con gái được vua yêu nên thờ Phật Quan Thế Âm trong nhà, cầu Phật phù hộ cho con gái đắc sủng. Ngay tháng 12 năm 1437, Thái Tông sai thái giám Đỗ Đại mang 50 võ sĩ đến lục soát nhà Lê Ngân, bắt được tượng Phật và các thứ vàng lụa dùng cầu cúng. Thái Tông sai bắt các nô tỳ nhà ông tra hỏi. Hôm sau Lê Ngân vào triều tạ tội, phân trần rằng: Thần tuổi già nhiều bệnh, nghe thày bói nói: trong nhà thần ở, phía trước có miếu thờ Phật, vì ô uế sinh ra tai ương nên phải cầu cúng cho khỏi tai họa... Người thiếp họ Nguyễn của thần bị đuổi đi và người thiếp họ Trần của Lê Sát... đều là kẻ có thù với thần, cùng bọn gia nô ương ngạnh thêu dệt nên chuyện... Nếu các tả hữu tra tấn người nhà của thần, họ bị đánh đau tất khai lời khác... Nhưng Thái Tông không nghe, quyết làm án Lê Ngân. Ông bị buộc tự vẫn tại nhà như Lê Sát trước đây. Tài sản của ông cũng bị tịch thu; con gái ông là Huệ phi Lê Thị Lệ bị giáng làm Tu dung, bà đồng họ Nguyễn bị đi đày, thày phù thủy Trần Văn Phương phải làm lính ở chuồng voi. Con trai Lê Ngân là Lê Nho Tông phải đi làm lính, nhiều năm không được cất nhắc. Năm 1448, Lê Nho Tông được nhiều đại thần thương, tâu với vua Lê Nhân Tông cho làm Đại đội trưởng quân Bảo Ứng. Năm 1453, Lê Nhân Tông đại xá, cấp cho con cháu ông 100 mẫu ruộng quan điền. Năm 1484, vua Lê Thánh Tông truy tặng ông chức Thái phó, Hoằng quốc công. --------------------------- 4. Lê Khôi (? - 1445) Kì Lân Hổ Vệ Tướng Quân, Nhập Nội Thiếu Úy Là một trong những tướng lĩnh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và là công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Tiểu sử Lê Khôi người làng Lam Sơn (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Ông là con trai Lê Trừ - anh thứ hai của Lê Lợi, tức là cháu gọi Lê Lợi bằng chú ruột. Hiện người ta vẫn chưa rõ ông sinh vào năm nào. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ đầu và lập được rất nhiều công lao. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, Lê Khôi được ban chức Kì Lân Hổ Vệ Tướng Quân, quyền Hành Tổng Quản, hàm Nhập Nội Thiếu Úy, sau thăng hàm Tư Mã, được đem Kim Phù. Năm 1437, Lê Khôi được phong làm Nhập nội tư mã, Tham trị chính sự, kiểm quản Tây Đạo. Năm 1440, ông được thăng làm Nhập Nội Đô đốc. Sau, chưa rõ vì lý do gì, ông bị giáng chức. Năm 1443, ông được làm Nhập Nội Thiếu Úy, trấn thủ Nghệ An. Năm 1445, thời Lê Nhân Tông, ông bệnh mất trên đường trở về sau một trận đánh Chiêm Thành. Chiến công Năm 1427, ông cùng với nghĩa quân lập nên trận Khả Lưu. Lúc đó, tuy chỉ là một vị tướng nhỏ nhưng đã được mô tả như sau: Mình đeo bên trái một túi mũi tên, bên phải cũng một túi mũi tên, theo Vua ra trận. Trong trận Khả Lưu, ông cùng bọn Lê Sát xông lên trước, vây đánh và phá tan quân Minh, bắt sống được Đo Đốc giặc là Hoàng Thành, lại còn bắt được sĩ tốt của chúng nhiều không kể hết Năm 1427, ông hợp lực cùng Phạm Vấn chỉ huy một cánh quân, góp phần vào chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang quyết định chiến cục, kết thúc thắng lợi khởi nghĩa Lam Sơn. Ông cùng Phạm Vấn đem hơn hai ngàn quân đi trợ chiến cho Lê Sát, đánh tan và bắt sống bọn tướng giặc là Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng mấy vạn tên giặc, quét sạch quân Ngô và khôi phục Đông Đô[2] Năm 1430, Lê Khôi giữ chức trấn thủ Hóa Châu, vùng giáp với Chiêm Thành, giúp vùng này yên ổn, ấm no. Cũng năm này, ông đã đem quân tiếp ứng cho vua Lê Thái Tổ đi dẹp loạn Bế Khắc Thiệu ở Thái Nguyên. Năm 1445, Lê Khôi đem quân tiếp ứng, giúp dẹp tan quân Chiêm Thành. Nhận định Đại Nam Nhất thống chí viết về ông như sau: Ông là người độ lượng, nhân hậu, nhã nhặn, ít nói ít cười, từng theo Vua Lê Thái Tổ đi đánh dẹp lập được nhiều công lao ----------------------------- 5. Phạm Vấn (?-1435) Thượng Tướng quân, Thiếu Úy Vinh lộc đại phu, tả kim ngô vệ đại tướng quân, Nhập nội kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự Là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, người thôn Nguyễn Xá, huyện Lương Giang, Thanh Hoá, Việt Nam. Gian khổ ở Thanh Hoá Phạm Vấn là người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ ngày đầu, giúp Lê Lợi trong thời gian khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa. Năm 1420, Lê Lợi đóng quân ở Mường Thôi, thổ quan Quý Châu theo quân Minh là Cầm Lạn dẫn tướng Minh là Lý Bân và Phương chính mang quân vào đánh quân Lam Sơn. Phạm Vấn cùng Lê Lý, Lý Triện mang quan ra chặn địch, phối hợp với quân chủ lực của Lê Lợi phục binh ở Bồ Mộng, chiếm lấy chỗ đồi cao đánh bại quân Minh, chém 3000 tên. Năm 1422, quân Minh huy động thêm quân nước Ai Lao (Lào) hai đường đánh tới, Lê Lợi rút về Sách Khôi. Quân địch dồn đại binh kéo tới bao vây. Phạm Vấn cùng Lê Lĩnh, Lý Triện mang quân ra tử chiến, chém được tướng địch là Phùng Quý và hơn 1000 quân, bắt được hơn 100 ngựa, Mã Kỳ và Trần Trí thua chạy về Đông Quan (Hà Nội), quân Ai Lao cũng bỏ chạy. Quân Lam Sơn thu được hơn trăm con ngựa. Năm 1423, Lê Lợi thu quân về núi Chí Linh, bị địch vây tuyệt lương trong 2 tháng. Phạm Vấn ở bên cạnh Lê Lợi, ra sức động viên vỗ về quân sĩ không ngã lòng, được Lê Lợi phong làm thượng tướng quân. Chiến công ở Nghệ An Sau thời kỳ giảng hoà với quân Minh để củng cố thực lực, năm 1424, quân Lam Sơn và quân Minh khai chiến trở lại. Lê Lợi mang quân vào Nghệ An. Trên đường đi, quân Lam Sơn đánh thành Trà Lân. Khi đến Bồ Đằng, tướng Minh là Sư Hựu và Phương Chính mang quân ra chặn trước sau. Phạm Vấn cùng các tướng ra quân cố sức đánh lui được Hựu và Chính. Sau đó, quân Lam Sơn đánh chiếm châu Trà Lân, bức hàng tù trưởng Cầm Bành và tiến vào Nghệ An. Khi quân Lam Sơn sắp đánh thành Nghệ An thì các tướng Minh mang quân đánh dữ dội vào cửa Khả Lưu. Phạm Vấn cùng Lê Sát xông lên phá trận, phá tan quân Minh, chém Hoàng Thành, bắt sống Chu Kiệt, quân Minh chết rất nhiều dưới sông. Phương Chính bỏ chạy vào thành Nghệ An. Quân Lam Sơn kéo tới bổ vây thành, các huyện Nghệ An đều quy phục. Phạm Vấn được phong làm thiếu uý. Chiến công ở Xương Giang Năm 1427, sau nhiều chiến thắng ở Bắc Bộ, quân Lam Sơn vây chặt Đông Quan và phá tan đạo viện binh của Liễu Thăng, chém Thăng ở Chi Lăng. Các tướng dưới quyền Thăng là Thôi Tụ, Hoàng Phúc cố cầm cự, kéo tới Xương Giang và tìm cách liên lạc với Vương Thông ở Đông Quan. Lê Lợi sai Phạm Vấn cùng Lê Khôi mang quân tiếp ứng cho Lê Sát đang vây Thôi Tụ ở Xương Giang. Các cánh quân Lam Sơn tổng tấn công giết 5 vạn quân Minh, bắt hàng số còn lại và các tướng Minh. Viện binh bị phá, Vương Thông xin giảng hoà rút về nước. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi. Công danh trọn vẹn Lê Lợi lên ngôi, tức là Lê Thái Tổ. Tháng 2 năm 1428, Phạm Vấn được trao chức Vinh lộc đại phu, tả kim ngô vệ đại tướng quân, tước thượng trí tự, phong là Suy trung tán trị hiệp mưu bảo chính công thần. Ít lâu sau, ông lại được thăng làm Nhập nội kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự và làm tể phụ đứng đầu. Năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, ông được phong làm huyện thượng hầu, tên đứng hàng đầu. Năm 1431, ông được phong làm nhập nội kiểm hiệu đô đốc quận hầu. Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, ông cùng Lê Sát nhận di chiếu lập Lê Thái Tông và làm phụ chính. Năm 1435, ông mất, được truy tặng làm thái phó, đặt tên thuỵ là Tuyên Vũ. Năm 1484, Lê Thánh Tông tặng ông tước thái phó, Trấn quận công. Phạm Vấn thuộc số rất ít các công thần khai quốc nhà Hậu Lê, không phải là người thân thuộc của hoàng tộc, sống qua thời Lê Lợi nhưng công danh được trọn vẹn, không bị tai vạ, nghi ngờ từ phía vua và gần như không có xung đột, xích mích với các phe cánh quan lại trong triều đình. ------------------ 6. Lê Văn An (?-1437) Nhập nội kiểm hiệu đại tư không, Bình chương quân quốc trọng sự Là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, người làng Mục Sơn nay là xã Xuân Bái huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, Việt Nam. Đánh đuổi quân Minh Lê Văn An đi theo Lê Lợi từ ngày đầu, từng cùng Lê Lợi dự hội thề Lũng Nhai năm 1416. Trong buổi thề đó, tên ông đứng hàng thứ ba. Khi khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra, Lê Lợi cho ông làm thứ thủ vệ kỵ binh quân Thiết đột. Ông theo Lê Lợi đánh nhiều trận lớn nhỏ, lập được nhiều công lao. Năm 1424, trong trận Khả Lưu, ông xung phong đi đầu hãm trận, đánh lui quân Minh. Năm 1425, khi Lê Lợi cầm quân vây Nghệ An, sai Trần Nguyên Hãn đánh Tân Bình và Thuận Hoá, ông được cử cùng các tướng Lê Ngân, Lê Bôi mang thuyền tiếp ứng, phối hợp với Trần Nguyên Hãn đánh được hai thành. Sau đó, ông được điều ra Nghệ An. Hai tướng giặc là Lý An, Phương Chính bỏ thành, vượt biển ra cứu Trần Trí ở Đông Quan, giao lại thành cho Thái Phúc. Lê Lợi bèn mang quân đánh Tây Đô (Thanh Hoá), để Lê Văn An ở lại vây thành Nghệ An. Một thời gian sau, Thái Phúc phải đầu hàng, giao thành cho quân Lam Sơn. Lê Văn An nhận hàng rồi dẫn quân ra Đông Quan. Lê Lợi sai ông cùng Lê Lý mang 3 vạn quân đến tiếp ứng cho Lê Sát vây đánh Thôi Tụ và Hoàng Phúc là 2 tướng Minh sót lại sau khi Liễu Thăng, Lương Minh, Lý Khánh bị giết. Lê Văn An liên tục đánh bại quân Thôi Tụ, bao vây quân địch ở Xương Giang. Tháng 11 năm 1427, ông cùng các tướng tổng tấn công, bắt và giết toàn bộ quân địch. Đó là trận Xương Giang kết thúc khởi nghĩa Lam Sơn. Dẹp nội loạn Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, Lê Văn An được phong làm nhập nội tư mã, Suy trung Bảo chính công thần, được tham dự triều chính. Năm 1429, khi Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, ông được phong làm Đình hầu. Năm 1432, ông lại được gia phong làm Tán trị hiệp mưu công thần, nhập nội kiểm hiệu đại tư không, Bình chương quân quốc trọng sự. Tháng 2 năm 1434 đời Lê Thái Tông, ông được cử làm tư mã Bắc đạo. Có viên trấn quản Lạng Sơn là Hoàng Nguyên Ý vốn là phụ đạo Lạng Sơn thời Minh thuộc, cùng với Hoàng Văn Ngạc, Nguyễn Thế Ninh quy thuận quân Lam Sơn, được Lê Thái Tổ phong làm thưọng tướng, vẫn cho giữ Lạng Sơn. Chiến tranh kết thúc, các tướng triều đình được cử lên trấn trị là Lê Lộng, Lê Đồ không khéo vỗ về nên Hoàng Nguyên Ý mang lòng oán giận. Gặp lúc Nguyên Ý vào kinh triều kiến thì con cả Thái Tổ, anh Thái Tông là quận vương Lê Tư Tề có người vợ lẽ, nhân có lỗi bị đuổi đi. Nguyên Ý nhân gặp người vợ lẽ của Tư Tề có bụng thích nên mang giấu về Lạng Sơn. Sau đó Ý cùng Hoàng Văn Ngạc, Nguyễn Thế Ninh khởi binh chống triều đình. Có người gia nô của Ý là Phi Báo bị Ý đánh đòn nên oán chủ, chạy đến chỗ Lê Lộng, Lê Đồ tố cáo rằng Ý đã dấy binh làm phản. Lê Thái Tông liền sai Lê Văn An mang quân đi đánh. Ông mang quân tới nơi thì Ngạc đã bị trấn binh Lạng Sơn giết chết, Nguyên Ý và Thế Ninh bỏ vợ con chạy sang đất nhà Minh. Ông bèn sai lùng bắt thân thuộc, nô tỳ, gia súc của mấy người làm phản cùng trấn binh địa phương hơn 1000 người mang về dâng nộp. Vua Thái Tông hạ lệnh tha hết dân thường, chỉ có gia thuộc những người làm phản bị sung làm nô tỳ của các quan. Lê Văn An có công được phong làm nhập nội đại tư mã, đô đốc đồng tổng quản Bắc đạo. Tuy nhiên trong cuộc đánh dẹp này, ông bắt bớ tràn lan, thành ra quấy nhiễu kinh động nhân dân, nên bị dư luận khi đó chê trách. Đương thời, Lê Văn An là người hoà nhã, giản dị trong số các võ tướng triều đình, hay lấy lễ tiếp đãi các bậc sĩ đại phu. Tháng 6 năm 1437, ông mất, được truy tặng chức Tư không, ban tên thuỵ là Trung Hiến. Năm 1484, ông được Lê Thánh Tông truy tặng là Thái phó, Khác quận công. ------------------------ 7. Bùi Quốc Hưng ------------------------ 8. Bùi Bị ------------------------- 9. Lê Thạch (?-1421) Nhập nội kiểm hiệu thái uý Bình chương quân quốc trọng sự, Trung Vũ đại vương Là tướng tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong lịch sử Việt Nam, người Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, Việt Nam. Tiểu sử Lê Thạch là con của Lê Học – anh cả Lê Lợi, tức là cháu gọi Lê Lợi bằng chú. Khi Lê Lợi còn nhỏ được anh nuôi dạy nên sau này lúc Lê Học mất, Lê Lợi nuôi Lê Thạch, thương yêu như con. Theo Đại Việt thông sử, Lê Thạch là người nhân ái, ham đọc sách, dũng lược hơn người, khéo nuôi sĩ tốt. Tướng tiên phong của quân Lam Sơn Lê Thạch theo Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn từ buổi đầu. Do Lê Thạch trẻ trung và có lòng dũng cảm, Lê Lợi thường sai ông làm tiên phong, đánh thắng quân Minh nhiều trận. Năm 1418, tướng Minh là Mã Kỳ mang quân vây đánh Lam Sơn, Lê Lợi rút về Lạc Thuỷ đặt phục binh để chờ địch. Khi quân Mã Kỳ tiến đến, Lê Thạch và Lê Ngân xông lên trước đón đánh, chém được hơn 3000 quân địch, thu được nhiều chiến lợi phẩm. Sau đó, ông theo Lê Lợi về Mường Thú đánh trại Nga Lạc, rồi lại tiến đến trại A Đả, đánh nhau với quân Minh ở Mỹ Canh, bắt được tướng giặc là Nguyễn Sao và chém hơn 300 quân địch. Mùa đông năm 1421, tướng Minh là Trần Trí kéo quân đến đánh Ba Lẫm ải Kình Lộng. Trần Trí mở đường núi tiến lên, Lê Lợi đặt phục binh, sai Lê Thạch đi đầu đánh tan quân Minh ở Úng Ải. Do lập được công, Lê Thạch được phong làm thứ thủ quân thiết đột, tước Lương Nghĩa hầu. Tử chiến với Ai Lao Vua Ai Lao ban đầu hợp tác với quân Lam Sơn đánh quân Minh, nhưng sau nghe theo sự xúi giục của quân Minh, bèn mang 3 vạn quân đến giúp quân Minh đánh quân Lam Sơn. Vua Ai Lao nói dối là đến giúp đánh quân Minh như trước. Khi quân Ai Lao tiến đến, quân Lam Sơn không kịp phòng bị, bị quân Ai Lao đánh úp vào trại. Lê Lợi thân ra đốc chiến. Lê Thạch dũng cảm đi đầu, quân Lam Sơn chém hơn 1 vạn địch. Quân Ai Lao thua to, bỏ chạy, quân Lam Sơn đuổi theo suốt 4 ngày đêm, đến tận sào huyệt của địch. Tù trưởng bản địa là Man Sát xin cầu hoà, Lê Lợi biết là quân địch trá hàng để hoãn binh nên không cho. Các tướng Lam Sơn cho rằng quân sĩ đánh trận mấy ngày, đã mỏi mệt, nên cho nghỉ. Lê Thạch vì ham lập công giết địch, không nghe theo các tướng, tự mình dẫn quân xông lên trước, bất ngờ bị trúng tên bắn ngầm của địch và tử trận. Truy tặng Được tin ông tử trận, Lê Lợi rất thương xót. Năm 1428 khi khởi nghĩa thắng lợi, ông được truy tặng làm “Nhập nội kiểm hiệu thái uý Bình chương quân quốc trọng sự”, lại phong là Trung Vũ đại vương và thờ phối ở tẩm miếu. Năm 1440, Lê Thái Tông truy tặng ông làm Lương quận Trung Vũ vương. Năm 1454, Lê Nhân Tông gia tặng ông làm Quận công Trung dũng Anh nghị Chân Hiến đại vương. Tới năm 1487, Lê Thánh Tông truy tặng ông làm Lương quốc công, thuỵ là Chân Hiến Túc vương ------------------- 10. Đinh Liệt ------------------- 11. Lê Văn Linh --------------------
ANH HÙNG ĐÔNG A 1. Yết Kiêu (Chó ngắn mõm) Yết Kiêu là anh hùng chống giặc ngoại xâm vào đời nhà Trần. Ông là người bơi lặn giỏi, đã sử dụng tài của mình để đục thuyền của quân xâm lược Nguyên Mông. Ông tên thật là Nguyễn Hữu Thế, con trai của Nguyễn Hữu Huệ và bà Vũ Thị Duyên, quê tại Hạ Bì (nay thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Ông là cận vệ (gia nô) đắc lực cho Trần Hưng Đạo. Hiện nay vẫn còn đền thờ Yết Kiêu, gọi là đền Quát, thuộc tả ngạn sông Đò Đáy, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Việt Nam Yết Kiêu người làng Hạ Bì, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Nhà nghèo, hằng ngày ông phải đi mò cua bắt ốc, bắt cá đem bán lấy tiền đong gạo nuôi thân. Ông có sức khỏe và dũng cảm lạ thường. Một hôm thấy hai con trâu trắng đang húc nhau trên bãi cát, ông dùng đòn gánh phang, cả hai con trâu chạy biến xuống nước. Ông mới biết hai con trâu mình vừa đánh là trâu thần, sờ lại đầu đòn gánh thì thấy còn dính vài cọng lông, ông liền nuốt lấy, từ đó mà ông bơi lặn giỏi. Ông lội nước hàng mấy dặm như đi trên đất và thường lặn lội bắt cá, mò trai cả ngày dưới nước. Vì có tài, ông trở thành người nhà của Trần Hưng Đạo. Cùng với Dã Tượng, ông được Hưng Đạo vương hết sức tin yêu. Ông và Dã Tượng khuyên Trần Hưng Đạo bỏ thù nhà, dốc sức vào việc đánh giặc cứu nước. Khi giặc Nguyên sang xâm lược năm 1284, lúc đầu quân Đại Việt thế yếu hơn địch. Một lần, trước thế giặc đương hăng, quan quân nhà Trần ở Nội Bàng (Chũ, Bắc Giang) bị thua kéo thuyền bỏ chạy về Vạn Kiếp (Hưng Yên). Một mình ông cắm thuyền ở lại bến Bãi trên sông Lục Nam, chờ đón kỳ được Trần Hưng Đạo và Dã Tượng rồi mới chèo thuyền lướt như bay, quân kỵ của địch theo không kịp. Trần Hưng Đạo thoát hiểm nhờ lòng quả cảm và tinh thần kỷ luật của Yết Kiêu không rời bỏ vị trí chiến đấu khi chưa có lệnh. Cảm kích trước lòng trung nghĩa của Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo nói: "Ôi, chim hồng hộc sở dĩ bay cao được cũng là nhờ có sáu trụ xương cánh cứng rắn, nếu không, hồng hộc cũng chỉ như chim thường thôi!". Ý Trần Hưng Đạo muốn nói: người tướng tài giỏi, nổi tiếng phần lớn cũng là nhờ những người chung quanh mình ra sức làm việc, lao động đường phố tá, nếu chỉ có một cá nhân mình thì không sao có thể làm nên sự nghiệp lớn. Bấy giờ, giặc Nguyên kéo mấy trăm chiếc thuyền theo đường biển vào đánh chiếm Đại Việt. Yết Kiêu không quản mùa đông giá rét, đêm đêm lặn xuống biển, nằm dưới đáy thuyền, lấy dùi sắt nhọn đục thủng thuyền. Thuyền giặc bị nước biển chảy ồ vào, chìm ngay. Quân giặc sợ lắm. Lúc đầu chúng không hiểu vì lẽ gì. Sau giặc chăng lưới vây bắt được Yết Kiêu. Chúng hỏi ông: - Nước mày có bao nhiêu người có tài bơi lặn như mày? Ông đáp: - Nước Nam có rất nhiều người có tài bơi lặn như tôi. Hiện nay họ vẫn ẩn nấp ở dưới biển để đục thuyền, chỉ một mình tôi chẳng may bị bắt. Nếu các ông tha tôi ra tôi sẽ dẫn các ông đến chỗ họ ẩn nấp, tha hồ cho các ông bắt. Bọn giặc hí hửng vì tưởng bở, chúng lấy một chiếc thuyền nhẹ chở ông đi. Thừa lúc giặc sơ ý và không nhìn thấy, ông nhảy tùm xuống biển, lặn trốn về doanh trại quân ta, tiếp tục cùng quân dân ta đánh giặc cứu nước. Quân giặc đành trơ mắt nhìn nhau căm tức ---------------- 2. Dã Tượng (Đại bàng - Voi rừng) Một gia nô thân tín, trung thành của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tương truyền Ông rất giỏi huấn luyện voi, đã lập nhiều chiến công trong Kháng chiến chống Nguyên - Mông, đời Trần. Ông cùng với Yết Kiêu, Cao Mang, Đại Hành và Nguyễn Địa Lô là 5 thuộc hạ tài giỏi và trung thành của Hưng Đạo Vương. Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, ông đóng góp đắc lực, tận tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn lúc bắt Toa Đô. Có lần Hưng Đạo Vương thử ý ông mà nói: "Khi gia nghiêm ta từ trần có dặn bảo ta phải chiếm lấy thiên hạ. Các ngươi nghĩ sao?". Ông và Yết Kiêu đều nói: "Đại vương đã phú quý rồi, còn chúng tôi đến già vẫn làm gia nô, không muốn làm như thế, để tiếng xấu ở đời." Hưng Đạo Vương cảm động, từ ấy ông càng được tin trọng. Tháng 1, 1285, do chưa lường hết sức mạnh của địch, Hưng Đạo Vương đã đem đại binh ngăn cản Thoát Hoan tại ải Nội Bàng. Kết quả trận đánh là quân Trần thua to, cả vạn binh lính bị giết và bắt sống tại trận. Lúc khởi binh, Hưng Đạo vương có dặn Yết Kiêu cắm thuyền đợi mình. Nhưng lúc tàn trận, Thuỷ quân đóng ở Bãi Tân làm chặn hậu cũng chạy tan tác cả. Trong lúc tháo lui khẩn cấp, Hưng Đạo định dẫn tàn quân luồn rừng về Vạn Kiếp, nhưng đúng là không ai hiểu bạn bằng Dã Tượng, đã ngăn Vương lại và bảo: "Yết Kiêu chưa gặp Đại vương, ắt chưa nhổ thuyền đi nơi khác.", nghe thế, Hưng Đạo Vương bèn tức tốc đổi hướng tới bãi Tân. Quả nhiên trên bãi sông vẫn còn một con thuyền đứng đó cùng với viên tuỳ tướng. Thoát nạn, Hưng Đạo Vương ngửa mặt lên trời than “Chim hồng chim hộc bay được cao, tất phải nhờ có lông cánh mạnh, nếu không thì chả khác gì chim thường”. Năm 1288, trên đường hành quân chuẩn bị cho trận Bạch Đằng nổi tiếng, con voi chở Hưng Đạo Vương bị sa lầy, chìm dần xuống bùn. Dù đã nhiều cách nhưng rồi con voi chiến thân thiết của Đại Vương cứ lún dần, lún dần. Dã Tượng và Hưng Đạo Vương nhìn người bạn đường chiến đấu thân thiết sắp hy sinh mà nước mắt lưng tròng. Dã Tượng bèn quỳ xuống trước mặt Vương xin người xuống ngựa đi tiếp cho kịp ra quân, còn mình xin ở lại rồi sẽ đuổi theo sau. Trong trận đánh sau đó, Dã Tượng giữ một cánh quân bộ trên núi Tràng Kênh đánh hất đám quân của Phàn Tiếp xuống sông. Viên gia tướng đã tả xung hữu đột, máu giặc ướt đẫm cả người, lao vào địch cứ như chỗ không người, như thể để trả thù cho người bạn voi đã hy sinh trên đường ra trận. Phàn Tiếp khiếp sợ đã bỏ lính, để nguyên cả tên găm trên người nhảy xuống sông chạy trốn nhưng rồi vẫn bị quân Trần dùng câu liêm móc lên, bắt sống. Lời bình của Lubu: Ôi phận gia nô mà còn biết lấy đại nghĩa khuyên can, lâm nguy không biến sắc, bất kể nguy hiểm bản thân hết mực lo cho an nguy của chủ. Thế thì phận gia nô có gì là hèn hạ, há chẳng đáng phục lắm thay. Kìa như bọn Chiêu Minh Vương Trần Ích Tắc, Chương Hiến Hầu Trần Kiện phận là vương tử chi tôn, hội họp đi trước, lể lạt ngồi trên thế mà lâm nguy lại hàng giặc. Nắm trong tay mấy vạn binh mà án binh bất động, thấy thế nứoc lâm nguy lại mưu tính chuyện riêng, há chẳng phải để cho hậu thế ngàn đời khinh bỉ chê trách. Vậy thì phận gia nô với vương tử lấy gì để phân biệt hèm kém! Khó lắm thay mà cũng dể lắm thay! Thời nay vẫn lắm kẻ xênh xang áo mão, tiền hô hậu ủng, trong tay nắm bạt vạn, uy quyền hống hách. Thấy dân đen lầm than thì chê rẻ khinh bỉ, suốt ngày nói chuyện đạo đức lể nghĩa với thần dân. Thấy Bắc phương dọa nạt thì im tiếng, luồn cúi, suốt ngày bợ đỡ. Thế là vinh hay nhục hỡi chư quân! ------------------- 3. Trần Khắc Chung (?–1330) Đại hành khiển Là một nhân vật lịch sử đời nhà Trần. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Trần Khắc Chung tên thật là Đỗ Khắc Chung, người ở Giáp Sơn cùng quê với mẹ của vua Trần Hiến Tông. Em trai Trần Khắc Chung là Đỗ Thiên Hư, cũng là một người nổi tiếng đương thời từng được cử làm Sứ thần sang nhà Nguyên năm 1288. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai, Trần Khắc Chung có làm sứ giả, sang thương thuyết với Ô Mã Nhi. Nhờ công lớn trong cuộc kháng chiến đó, ông được vua ban quốc tính nên đổi là Trần Khắc Chung và được phong chức Đại Hành Khiển. Qua bốn đời vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông, Trần Khắc Chung nhiều chức vụ quan trọng: Đại hành khiển, Tể tướng, Thượng thư, Ngự Sử đại phu, Đại an phủ kinh sư, Quan nội hầu, Sư bảo. Năm 1306, ông là cùng Văn Túc Vương Đạo Tái chủ chương tán thành gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành Chế Mân. Năm 1307, khi Chế Mân qua đời, theo lệnh vua Trần Anh Tông, Trần Khắc Chung vào Chiêm Thành cứu được Huyền Trân đưa về Thăng Long. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì ông đã tư thông với công chúa trên đường về. Trần Khắc Chung còn bị cho là đã xúi giục vua Trần Minh Tông giết hại Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn. Tham khảo Trích Đại Việt sử ký toàn thư: Em Đỗ Khắc Chung là Đỗ Thiên Thư kiện nhau với người, tình lý đều trái. Người kia đón xa giá để kêu bày. Vua hỏi quan xử kiện. (Viên quan đó) Trả lời: "Án xử đã xong, nhưng hình như quan thoái thác không chịu chuẩn định đó thôi". Vua nói: "Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy". Ngày 12, giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngàn, bắt được quân của ta, thấy người nào cũng thích hai chữ "Sát Thát" bằng mực vào cánh tay, chúng tức lắm, giết hại rất nhiều. Rồi chúng đến Đông Bộ Đầu, dựng một lá cờ lớn. Vua muốn sai người dò xét tình hình giặc mà chưa tìm được ai. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng: "Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi". Vua mừng, nói rằng: "Ngờ đâu trong đám ngựa xe kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế!" Rồi sai đem thư xin giảng hoà. Ô Mã Nhi hỏi (Khắc Chung): "Quốc Vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ "Sát Thát", khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm". Khắc Chung đáp: "Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi, Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có?" Nói rồi giơ cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi nói: "Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?" Khắc Chung nói: "Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người". Ô Mã Nhi nói: "Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hội kiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì trong khoảnh khắc núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát". Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi bảo các tướng rằng: "Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xướng là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói "Chó nhà cắn người"; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được". Sai người đuổi theo Khắc Chung nhưng không kịp --------------------- 4. Trần Khát Chân (chữ Hán: 陳渴真; 1370-1399) Long Tiệp Thượng tướng quân Là một danh tướng nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông thuộc dòng dõi Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, quê làng Hà Lăng, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Tiểu sử Ông sinh ngày Tân Sửu, tháng Chạp, năm Thiệu Khánh thứ nhất (1370). Tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1389), quân Chiêm Thành theo đường sông Hồng tiến đánh Thăng Long, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai Trần Khát Chân đem quân Long Tiệp đi chặn giặc. Ngày 23 tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), ông cho phục binh ở ngã ba sông Hải Triều và sông Nhị Hà. Được hàng tướng Chiêm Thành chỉ cho chiếc thuyền của vua Chiêm, ông tập trung hỏa pháo nhằm bắn vào thuyền Chế Bồng Nga. Thuyền vua Chiêm trúng đạn, Vua Chiêm Thành chết tại trận, quân Chiêm tan vỡ. Ông cho cắt đầu Chế Bồng Nga đem về Bình Than báo tin thắng trận. Sau chiến công này, ông được phong làm Long Tiệp Bổng thần Nội vệ Thượng tướng, tước Vũ tiết quan Nội hầu. Năm 1399, Hồ Quý Ly càng ngày càng lộng quyền, giết Trần Thuận Tông và có ý chiếm đoạt nhà Trần. Ông cùng Thái bảo Trần Nguyên Hãn và một số vương hầu nhà Trần mưu sát Hồ Quý Ly trong hội thề ở núi Đốn Sơn[1]. Sự việc bị phát giác, ông và hơn 370 người liên quan bị giết và tịch thu gia sản. Tương truyền rằng khi sắp bị hành hình ông phẫn uất gào to ba tiếng vang dội Đốn Sơn và sau khi chết ba ngày sắc mặt vẫn như khi sống. Các lực lượng chống đối bị trừ bỏ, năm sau Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần (1400). Vinh danh Hiện nay còn đền thờ ông ở làng Phương Nhai và vùng Kẻ Mơ (Sau này đến đời Hậu Lê, Kẻ Mơ được chia thành 2 xã là Hoàng Mai và Tương Mai. Xã Tương Mai nay là phường Tương Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Tại đây, có đình Tương Mai là nơi thờ cúng ông)
QUÂN VƯƠNG NAM VIỆT 1. Lý Thánh Tông: (chữ Hán: 李聖宗; 1023 – 1072) Là vị vua thứ ba của nhà Lý, cai trị từ năm 1054 đến 1072. Ông tên thật là Lý Nhật Tôn (李日尊), người gốc làng Cổ Pháp, nay thuộc về huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Cũng như cha và ông, Lý Thánh Tông là người tài kiêm văn võ. Song, ông còn nổi tiếng là một minh quân có nhiều đức độ trong lịch sử Việt Nam. Ông tận tụy công việc, thương dân như con, được biết đến vì đã đối xử tốt với tù nhân. Công lao của ông là đặt quốc hiệu Đại Việt, xây dựng Văn Miếu, phá Tống (1060) và bình Chiêm (1069), lấy được ba châu của Chiêm Thành. Thái tử tài ba Lý Nhật Tôn là con trưởng của Lý Thái Tông, mẹ là Kim Thiên thái hậu Mai thị. Ông sinh ngày 25 tháng 2 âm lịch năm 1023 tại cung Long Đức, triều Lý Thái Tổ. Năm 1028, ông được vua cha Lý Thái Tông (lên ngôi năm 1024) lập làm Hoàng thái tử. Thái tử Nhật Tôn sớm tinh thông kinh truyện, rành âm luật, lại giỏi võ nghệ. Ông tỏ ra là người thông minh xuất chúng. Cũng giống như vua cha, ông sớm được ở ngoài cung, tiếp xúc với dân chúng nên hiểu được nỗi khổ của dân và thông thạo nhiều việc. Năm 15 tuổi (1037), ông được Thái Tông phong làm đại nguyên soái, cùng cha đi dẹp bạo loạn ở Lâm Tây (Lai Châu) và lập được công. Năm 1039, Lý Thái Tông đi đánh Nùng Tồn Phúc, thái tử Nhật Tôn mới 17 tuổi được cử làm giám quốc, coi sóc kinh thành và việc triều chính. Năm 1040, ông lại được vua cha giao cho việc xử các vụ kiện tụng trong nước, đặt điện Quảng Vũ cho ông phụ trách. Năm 1043, ông lại được cử làm Đô thống đại nguyên soái đi đánh châu Ái (Thanh Hoá). Năm 1044, Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành, ông được giao làm Lưu thủ kinh sư. Tháng 1 năm 1054, thấy mình già yếu, Thái Tông cho phép thái tử Nhật Tôn ra coi chầu nghe chính sự. Hai tháng sau, vua cha mất, ông lên nối ngôi, tức là vua Lý Thánh Tông, lấy niên hiệu đầu là Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058). Cai trị Hoàng đế nhân từ Ngay sau khi lên ngôi, vua Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt. Lý Thánh Tông là một vị vua có lòng thương dân. Nhân một năm trời rét đậm, Thánh Tông bảo các quan hầu cận rằng: “ Trẫm ở trong cung ngự sưởi than thú, mặc áo hồ cừu mà còn rét thế này. Huống chi những tù phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm. ” Nói rồi vua truyền lấy chăn chiếu cho tù nằm, và mỗi ngày cho hai bữa ăn. Lại có một hôm, Thánh Tông ra ngự ở điện Thiên Khánh xét án, có Động Thiên công chúa đứng hầu bên cạnh. Thánh Tông chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng: Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi. Vua Thánh Tông có nhân từ nên trăm họ mến phục, trong thời ông cai trị ít có việc giặc giã. Là người sùng đạo Phật, Thánh Tông đã xây cất nhiều chùa tháp, đúc chuông đồng lớn. Tuy vậy, ông còn rất chú trọng Nho giáo. Vì muốn khai hóa văn học, ông cho lập Văn Miếu, làm tượng Chu công, Khổng Tử và 72 tiên hiền để thờ. Việt Nam có Văn Miếu thờ Khổng Tử và các bậc hiền tài khởi đầu từ đó. Lý Thánh Tông có người vợ thứ là nguyên phi Ỷ Lan cũng nổi tiếng có tài trị nước. Nhà vua muộn con, không có thái tử giám quốc như các đời trước khi đi đánh giặc nhưng việc chính sự được yên ổn nhờ tay nguyên phi Ỷ Lan. Phá Tống bình Chiêm Bài chi tiết: Chiến tranh Việt-Chiêm 1069. Ổn định tình hình trong nước, Lý Thánh Tông chú trọng mở rộng cương thổ. Về việc binh, Thánh Tông đặt quân hiệu và chia ra làm tả hữu tiền hậu 4 bộ, hợp lại là 100 đội có lính kỵ và lính bắn đá. Còn những phiên binh thì lập ra thành đội riêng. Binh pháp thời Lý Thánh Tông có tiếng là giỏi. Nhà Tống cũng phải dụng tâm học cách tổ chức, phiên chế quân đội Đại Việt. Tháng 3 năm 1059, ông mang quân vào Khâm châu nước Tống diễu võ dương oai khiến quân Tống phải nể sợ. Năm 1060, ông lại sai tướng trấn thủ Lạng châu là Thân Thiệu Thái đánh quân Tống can thiệp ở biên giới, bắt được tướng nhà Tống là chỉ huy sứ Dương Bảo Tài. Tháng 7, quân Tống mấy lần phản công nhưng thất bại, phái Thị lang bộ Lại là Dư Tĩnh sang điều đình. Phía Đại Việt, Thánh Tông cử Phí Gia Hậu đi hoà đàm, đối đãi với sứ Tống rất hậu nhưng cương quyết không trả tù binh Dương Bảo Tài. Nước Chiêm Thành phía Nam hay sang quấy nhiễu, năm 1069 vua Thánh Tông thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu không thành công, bèn đem quân trở về. Đi nửa đường đến châu Cư Liên, vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, Thánh Tông nghĩ bụng: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm sao?" Ông bèn đem quân trở lại, đánh bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ (Rudravarman III) Thánh Tông về triều, đổi niên hiệu là Thần Vũ. Chế Củ xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Thánh Tông lấy 3 châu ấy và cho Chế Củ về nước. Những châu ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị. Qua đời Tháng 1 năm 1072, Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, trị vì được 17 năm, hưởng thọ 50 tuổi và được an táng ở Thọ Lăng. Trong thời gian cầm quyền, Thánh Tông đã đặt 5 niên hiệu: Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058) Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065) Long Chương Thiên Tự (1066 - 1067) Thiên Huống Bảo Tượng (1068) Thần Vũ (1069 - 1072) Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức mới 7 tuổi lên thay, tức là vua Lý Nhân Tông. Nhận định Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có lời nhận định về Lý Thánh Tông: “ “Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, xứng đáng là bậc vua tốt. Song nhọc sức dân xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm đó là chỗ kém.” ” Lý Thánh Tông là người kế tục xứng đáng cha và ông trong việc phát triển cơ nghiệp nhà Lý. Tận tụy công việc, thương dân, sửa sang chính trị, làm phương bắc phải kiềng nể, phương nam phải kính sợ. Hơn thế nữa, ông còn xứng đáng là vị vua mở đầu cho quốc hiệu Đại Việt hiển hách. Sự nghiệp của Lý Thánh Tông có ba điểm nhấn lớn trong lịch sử Việt Nam mà đời sau còn nhắc đến nhiều lần: nước Đại Việt, Văn Miếu và mở đất ba châu phía nam. Nhà Lý tới thời ông trị vì đã hoàn toàn ổn định, vững chắc. Đất nước cường thịnh mà ông để lại cho thái tử, dù còn ít tuổi nhưng vẫn được tiếp quản và kế tục không hề bị khủng hoảng, nghiêng ngả. Đó là nhờ vào đội ngũ nhân sự có tài năng kiệt xuất, trung thành, tận tụy như Nguyên phi Ỷ Lan, Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành v.v... những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam đã được trui rèn, thử thách dưới thời ông. ----------------------- 2. Lý Nhân Tông: (chữ Hán: 李仁宗; 1066 – 1127) Là vị vua thứ tư của triều Lý. Tên thật của ông là Lý Càn Đức (李乾德). Ông nổi tiếng là một minh quân trong lịch sử Việt Nam, là người đặt nền móng xây nền giáo dục đại học Việt Nam. Trong thời gian trị vì, ông cùng với mẹ là nhiếp chính Ỷ Lan và thái úy Lý Thường Kiệt hai lần đánh bại quân Tống. Tiểu sử Lý Càn Đức là con trưởng của vua Lý Thánh Tông và Nguyên phi Ỷ Lan. Ông được lập làm thái tử khi còn nhỏ. Thánh Tông mất, Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi, tức là vua Lý Nhân Tông. Vua Nhân Tông còn nhỏ, nhờ vào Thái phi Ỷ Lan làm nhiếp chính, lại thêm sự lao động đường phố tá của Thái sư Lý Đạo Thành và Phụ quốc thái úy Lý Thường Kiệt, những nhân vật lịch sử tên tuổi không chỉ của triều Lý mà cả trong lịch sử Việt Nam, nên nước Đại Việt trở nên hùng mạnh. Ông làm vua đến năm Đinh Mùi (1127) thì mất, trị vì được 56 năm, hưởng thọ 63 tuổi. Lý Nhân Tông là một trong các vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử Việt Nam. Đối nội Vua Nhân Tông cho đắp đê Cơ Xá, khởi đầu cho việc đắp đê ngăn lũ ở Việt Nam, nhằm giữ cho kinh thành khỏi ngập lụt. Năm Ất Mão (1075), vua mở khoa thi tam trường, còn gọi là Minh kinh bác học để chọn người có tài văn học vào làm quan. Khoa thi ấy là khoa thi đầu tiên ở Đại Việt và chọn 10 người, thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Thịnh làm đến chức thái sư (tể tướng), tỏ rõ là người có tài năng xuất chúng. Về sau, vua nghi ngờ Lê Văn Thịnh làm phản, nên Thịnh bị đày lên Thao Giang (Tam Nông, Vĩnh Phú) và đã chết tại đó. Năm Bính Thìn (1076), vua cho lập Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên ở Đại Việt, chọn những nhà khoa bảng tài giỏi vào dạy. Đến năm Bính Dần (1086), mở khoa thi chọn người có tài văn học vào Hàn lâm viện. Khoa ấy có Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ. Năm Kỷ Tị (1086), vua Nhân Tông định quan chế, chia văn võ bá quan làm 9 phẩm. Quan đại thần có thái sư, thái phó, thái uý và thiếu sư, thiếu uý. Ở dưới những bậc ấy, về văn ban có thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị đại phu, trung thư thị lang, bộ thị lang. Về võ ban có đô thống, nguyên suý, tổng quản khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, kim ngô thượng tướng, đại tướng, đô tướng, chư vệ tướng quân v.v... Ở các châu quận, văn thì có tri phủ, tri châu; võ thì có chư lộ trấn, lộ quan. Chống quân Tống xâm lược Năm Bính Thìn (1076), nhà Tống cử Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại binh sang xâm lược Đại Việt. Quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của Phụ quốc thái úy Lý Thường Kiệt đã đánh bại được đội quân nhà Tống tại trận tuyến trên sông Như Nguyệt. Nhận định Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có nhận xét về Lý Nhân Tông: “ “Vua trán dô mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp người theo, thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, mình được thái bình, là vua giỏi của triều Lý. Tiếc rằng mộ đạo Phật, thích điềm lành, đó là điều lụy cho đức tốt.” ” Lý Nhân Tông cũng là một vị vua khổ luyện, phấn đấu đạt đến độ “học thức cao minh, hiểu sao đạo lý” (Phan Huy Chú). Chính vì vậy, đánh giá tổng quát về ông, các sử gia từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên đến Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn v.v... đều xem ông là “vị vua giỏi”, “vị anh quân” của vương triều Lý. ----------------------- 3. Lý Cao Tông: (chữ Hán: 李高宗, 1173 – 1210) Là vị vua thứ bảy của nhà Lý, cai trị từ năm 1176 đến năm 1210. Ông tên thật là Lý Long Trát hay Lý Long Cán (李龍翰), người ở châu Cổ Pháp, nay thuộc về huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Thân thế Lý Cao Tông là con trai thứ sáu của Lý Anh Tông, mẹ là Đỗ Thụy Châu. Ông sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tỵ (1173), khi mới lên 3 tuổi đã được đưa lên ngôi. Vua cha Anh Tông truất ngôi con cả là Long Xưởng và phong ông là hoàng thái tử, ủy thác cho Tô Hiến Thành giúp đỡ. Phụ chính Tô Hiến Thành Sau khi Anh Tông mất (1175), hoàng hậu vợ chính của Anh Tông là Chiêu Linh thái hậu muốn lập con mình là Long Xưởng lên ngôi nhưng nhờ có sự kiên quyết của thái uý Tô Hiến Thành, Cao Tông vẫn được tôn phù ở ngôi báu. Nhưng không lâu sau, Tô Hiến Thành đã tuổi già sức yếu, qua đời năm 1179. Trước khi mất, vì vua mới lên 7 tuổi nên Hiến Thành tiến cử Trần Trung Tá với Đỗ thái hậu. Thái hậu dù khen hay nhưng cuối cùng không theo lời, lấy Đỗ An Di làm phụ chính. Năm 1181, thái tử cũ là Long Xưởng cầm đầu các gia thuộc nô lệ trộm cướp bừa bãi, muốn mưu làm loạn. Tới năm sau, thái hậu dùng Lý Kính Tu[2] làm đế sư (thày của vua), trong thì hầu việc giảng sách, ngoài thì dạy dân trung hiếu, từ đấy Chiêu Linh thái hậu và Long Xưởng không dám manh tâm mưu khác nữa. Cao Tông tuy giữ được ngôi vua nhưng khi trưởng thành đã không trở thành minh quân của nhà Lý. Tới năm 1190, ông dùng em vợ là Đàm Dĩ Mông vốn là người không có học làm thái phó nên việc triều chính càng suy sút. Hưởng lạc Khi còn nhỏ, Cao Tông là người ngoan lành, song khi lớn lên bắt đầu trực tiếp cầm quyền trị nước lại sinh ra ham mê săn bắn, chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch nên trộm cướp nổi lên khắp nơi. Tháng 3 năm 1189, Cao Tông đi du hành khắp các nơi trong cả nước, đi đến đâu mà có thần linh lại cho xây dựng đền miếu. Năm 1197, Cao Tông cho dựng cung Nghênh Thiềm, đến năm 1203 lại tiếp tục cho xây dựng hàng loạt cung điện. Khi đang xây dở gác Kinh Thiên, có chim khách đến làm tổ, Cao Đường Long cho là điềm báo sắp có vương tộc mới thay thế triều Lý, bèn khuyên can vua: Trước cốt sửa đức, sau hãy khởi công mới phải Nhưng vua lại nghe lời hoạn quan Phạm Bỉnh Di, càng cho xây gấp khiến trăm họ khốn khổ. Đến năm 1208 đói kém, người chết đói hàng loạt. Trong lúc ấy thì vua vẫn rong chơi vô độ, xây đền đài không ngớt, nghe ngoài thành có trộm cướp thì lại lờ đi như không biết. Họa giặc giã Do chính sự rối ren, lòng dân oán hận, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân và ly khai của các hào trưởng địa phương nổ ra. Năm 1192 người giáp Cổ Hoằng ở Thanh Hóa làm phản. Năm 1198 người hương Cao Xá ở Câu Diễn là Ngô Công Lý cùng với người châu Đại Hoàng là Đinh Khả tự xưng là con cháu của Đinh Tiên Hoàng nổi loạn. Tháng 7 năm 1203, vua nước Chiêm Thành là Bố Trì lập mưu tới cửa biển Cơ La, giả cách xin nhà Lý cho nương tựa. Sau đó, Bố Trì giết chết trấn thủ cửa biển, cướp bóc Nghệ An, rồi đem quân về nước. Tháng 9 năm 1203 có cuộc nổi loạn của 2 người Đại Hoàng Giang là Phí Lang và Bảo Lương trước đây đã tâu các tội mọt nước hại dân của Đàm Dĩ Mông, bị người này đánh, sinh lòng oán hận. Hai người này nhân khi rối ren liền làm phản. Vua sai Trần Lệnh Hinh làm Nguyên soái và Thượng thư Từ Anh Nhữ đem quân từ phủ Thanh Hóa tiến đánh Phí Lang xong bị thua, cả hai tướng đều bị giết; đến tháng giêng năm sau lại sai Đỗ Kính Tu đi đánh nhưng vẫn tiếp tục bại trận. Đến năm 1207 lại tiếp tục có cuộc nổi loạn của người Man ở núi Tản Viên, thanh thế rất lớn. Thời kì này, nhà Tống còn xua quân sang xâm nhiễu biên giới Đại Việt khiến nhân dân phải chạy loạn vô cùng khổ sở. Gian thần Phạm Du Tháng 3 năm 1207, hào trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương và Hải Phòng) là Đoàn Thượng, Đoàn Chủ nổi dậy, xây đắp thành lũy, xưng vương hiệu. Cao Tông phái rất nhiều quân đi đánh Hồng Châu. Đàm Dĩ Mông đem quân đạo Đại Thông (miền Hà Đông cũ dọc sông Đáy), Phạm Bỉnh Di đem quân đạo Khả Liễu, Trần Hinh đem quân đạo Phù Đái (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), Bảo Trinh hầu đem quân đạo Nam Sách (Nam Sách, Hải Dương), cùng họp nhau đánh Đoàn Thượng. Thấy thế lực quân triều đình quá mạnh, Đoàn Thượng liền ngầm sai người đem của cải đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, nguyện xin đem quân chúng theo Du. Cuộc liên minh giữa Thượng và Du bắt đầu từ đó. Phạm Du cố vì Thượng mà xin với Cao Tông tha cho. Đầu năm 1209, Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An. Bấy giờ miền này đang đói lớn, số người bị chết đói rất nhiều. Những người còn sống sót cũng bị phá sản, lưu vong. Nhân cơ hội ấy, Phạm Du nói với vua rằng: Nay thiên hạ rối loạn, bọn gian tặc nổi lên khắp nơi... xin cho phép tôi được tuyển bọn trai tráng để tự đề phòng, mới mong khỏi lo tai họa. Vua bằng lòng. Phạm Du bèn chiêu tập những người vong mệnh ngang nhiên đi khắp các nơi. Từ đó đường đất bị cắt đứt, thuyền bè không đi lại được. Cao Tông thấy tình hình nguy khốn liền sai Phạm Bỉnh Di lấy quân ở Đằng Châu (thị xã Hưng Yên) để đánh Phạm Du. Du trở về Cổ Miệt cùng với Đoàn Thượng, Đoàn Chủ ở Hồng Châu hợp binh làm phản triều đình, đánh Đằng Châu. Bỉnh Di bị thua. Tháng 2 năm 1209, Bỉnh Di lại đem binh ở Đằng Châu, Khoái Châu đi đánh Du. Phạm Du thua trận bỏ trốn. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết. Tháng 4 năm 1209, Phạm Bỉnh Di đánh tan quân Đoàn Thượng. Phạm Du ngầm sai người về kinh đút lót cho bọn quan lại trong triều, nói rằng Bỉnh Di tàn ác, giết hại người vô tội và kể lể tình oan, xin về kinh đợi tội. Cao Tông sai Trần Hinh triệu Phạm Du về kinh, lại triệu cả Bỉnh Di về triều. Phạm Du về kinh trước hầu Cao Tông, được vua tin cẩn; Bỉnh Di đến kinh sau, vào triều phụng mệnh. Cao Tông sai bắt Bỉnh Di và con là Phụ giam ở Thủy Viên, toan làm tội. Loạn Quách Bốc Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin đó, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Du cùng em là bọn Phạm Kinh giết Bỉnh Di và con của Bỉnh Di là Phụ rồi cùng Cao Tông chạy trốn. Quách Bốc liền tôn hoàng tử nhỏ là Thầm lên làm vua. Cao Tông chạy về Tam Nông (Phú Thọ) nương nhờ nhà Hà Vạn, một thủ lĩnh miền thiểu số có thế lực. Thái tử Sảm cùng mẹ là nguyên phi Đàm Thị và hai em gái chạy về Hải Ấp, Thái Bình dưới quyền cai quản của Trần Lý. Sảm chạy trốn đến ở nhà Trần Lý, lấy con gái Lý là Trần Thị Dung làm vợ, lại phong cho Trần Lý tước Minh Tự, em vợ Lý là Tô Trung Từ (cậu Thị Dung) làm Điện tiền chỉ huy sứ. Hai người chiêu tập quân đội dưới danh nghĩa giúp thái tử Sảm để đánh Quách Bốc. Nghe theo lời khuyên của Phạm Ngu, Trần Lý và em vợ là Tô Trung Từ bèn đón vương tử Sam về Lỵ Nhân lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương, lệnh giáng Lý Thầm làm vương. Thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung có nhan sắc, Lý Sảm bèn lấy làm vợ. Nhân đó Trần Lý được phong làm Minh Tự, Phạm Ngu làm Thượng phẩm phụng ngự, Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Biết tin thái tử Sảm lập triều đình riêng và tự ý phong tước cho Trần Lý, Tô Trung Từ, Phạm Ngu... nên vua Lý Cao Tông ở Quy Hoá muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi để liên lạc với họ Đoàn (Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi) ở vùng Hồng. Nhưng Du lại ham sắc, tư thông với công chúa Thiên Cực, nên lỡ hẹn với họ Đoàn. Khi Du lên thuyền đi gặp họ Đoàn, tới Ma Lãng thì bị quân của hào trưởng Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải đón bắt và giết chết. Trần Lý và Tô Trung Từ mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc. Cuối năm 1209, loạn Quách Bốc bị dẹp, Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung. Do Phạm Du đã chết mà thế lực Trung Từ mạnh nên vua Cao Tông buộc phải dựa vào Trung Từ. Đàm Dĩ Mông trước đã hàng phục Lý Thầm và Quách Bốc vẫn không bị trị tội, được làm chức thái uý. Sử sách chép không rõ về kết cục của Quách Bốc, Lý Thầm. Toàn thư ghi đại lược: "Trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn, xử tội theo mức độ khác nhau". Cương mục cũng ghi vắn tắt: "Vua xét tội tùy theo nặng nhẹ có sai biệt". Sách Việt sử Tiêu án không đề cập tới việc xử tội phe Quách Bốc. Các nhà chuyên môn nhận định không có tài liệu nào nói tới việc bắt hay giết Quách Bốc, Lý Thầm. Ngày 28 tháng 10 năm 1210, Cao Tông mất ở cung Thánh Thọ, ủy thác cho Đỗ Kính Tu việc triều đình. Cao Tông thọ 38 tuổi. Thái tử Sảm lên ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Tình hình trong nước ngày càng rối ren hơn, được hơn 10 năm thì nhà Lý mất về tay họ Trần (1225). Nhận định Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư nhận định về Lý Cao Tông như sau: Vua chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy. Cao Tông tuổi bé nối ngôi, Chiêu Linh Thái hậu rắp lòng phế lập, thân vua suýt nữa bị nguy. Nhờ có Tô Hiến Thành vốn có quyền vị, nhận ký thác con côi, hết lòng phù hộ, ngôi báu không lay, thiên hạ quy phục, tất phải có mưu hay chước giỏi tâu riêng với vua rồi. Đến khi Hiến Thành chết, Đỗ Kính Tu hầu hạ nơi màn trướng, giúp vua sửa đức, đâu phải là không có người? Thế mà vua mê mải rong chơi, say đắm thanh sắc, ham tiền của, thích xây dựng, dạy tính lười tham cho các quan, gây lòng oán giận ở trăm họ, làm cho cơ đồ nhà Lý phải hao mòn, đến nỗi mất nước. Kinh thư có câu: "Ở trong mê sắc đẹp, ra ngoài mê săn bắn, ham rượu, thích nhạc, xây nhà cao, trổ tường đẹp, phạm một trong các điều ấy tất phải bại vong". Vua phạm đủ các điều ấy, còn nói gì được nữa? Trong sách Việt sử Tiêu án, Ngô Thì Sĩ viết: Vua Cao Tông ... oai quyền ở tay mình, người lao động đường phố tá cũng không thiếu, thế mà nghe tên tặc thần Phạm Du tố cáo bậy, giết oan Bỉnh Di, mà phải chạy trốn, lặn lội nơi sông nước... Cao Tông cũng nhờ họ nhà thuyền chài[3] phù trì cho mới về được kinh đô, người ta thấy rằng văn võ bách quan của nhà Lý không còn ai và không có quân lính phòng bị... Vua Cao Tông ham chơi bời, lại thiếu sáng suốt. Trước nghe theo Phạm Bỉnh Di bắt dân phu hoàn thành nhanh cung thất, sau lại nghe Phạm Du sàm tấu mà giết Bỉnh Di. Thực ra không phải vì trước đây Bỉnh Di là sủng thần mà sau đó bị thất sủng, mà vì vua Cao Tông chỉ thích hưởng lạc nên điều Bỉnh Di tâu việc đốc công là hợp ý vua mà thôi. Theo nhận định của các nhà chuyên môn, chính sự nhà Lý tới thời Cao Tông đã rất lỏng lẻo do lỗi của vua: Trước sai Phạm Bỉnh Di dẹp Phạm Du, sau lại nghe lời tâu bậy của Du mà tin dùng Du, coi Du là "phải", Bỉnh Di là "trái"; Bộ tướng Quách Bốc của Bỉnh Di không hẳn đã có một đạo quân hùng hậu, vậy mà triều đình trung ương nghe tin Bốc kéo vào liền hốt hoảng bỏ chạy không dám chống cự; vua một nơi, hoàng hậu cùng hoàng tử và công chúa một nơi. Đàm Dĩ Mông thần phục Lý Thầm và Quách Bốc, lẽ ra phải trị tội như Lê Chiêu Tông giết thái sư Lê Quảng Độ theo Trần Cảo sau này, nhưng Cao Tông lại dung tha cho Mông, để làm đại thần. Bởi bên dưới khinh nhờn luật nước, vẫn được dung túng, nên sau này quần hùng nổi dậy, nay đánh mai hàng, loạn mãi không chấm dứt được. Dân bị bóc lột, đã oán triều đình. Công thần bị giết oan, lòng người càng chia lìa. Bởi vậy các sử gia nhận định rằng lỗi làm mất nhà Lý bắt đầu từ Cao Tông. ---------------------------- 4. Lý Huệ Tông:: (chữ Hán: 李惠宗, 1194 – 1226) Là vị vua thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1211 đến năm 1224. Ông tên thật là Lý Sảm (李旵) hay Lý Hạo Sảm, người gốc làng Cổ Pháp, nay thuộc về huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Thân thế Lý Sảm là con trưởng của Lý Cao Tông, mẹ là hoàng hậu họ Đàm, sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194). Năm Mậu Thìn (1208), ông được vua cha lập làm hoàng thái tử, lúc đó ông 15 tuổi. Chạy loạn về Hải Ấp Bài chi tiết: Lý Cao TôngNăm 1209, vua Cao Tông nghe lời gian thần Phạm Du, giết trung thần Phạm Bỉnh Di. Bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc khởi binh báo thù cho chủ, đánh vào kinh thành, lập con thứ của vua là Lý Thầm làm vua. Vua Cao Tông chạy lên Quy Hoá, thái tử Sảm cùng mẹ và hai em gái chạy về Hải Ấp, nơi Trần Lý cai quản. Trần Lý và Tô Trung Từ bèn đón vương tử Sam lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương. Thái tử Sảm thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung có nhan sắc, bèn lấy làm vợ. Nhân đó Trần Lý được phong làm Minh Tự, Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Biết tin thái tử Sảm lập triều đình riêng và tự ý phong tước cho Trần Lý, Tô Trung Từ, Phạm Ngu... nên vua Lý Cao Tông ở Quy Hoá muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi để liên lạc với họ Đoàn (Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi) ở vùng Hồng. Nhưng Du trễ nải công việc, bị quân của hào trưởng Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải giết chết. Trần Lý và Tô Trung Từ bèn mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc để lập công với nhà Lý. Cuối năm 1209, loạn Quách Bốc bị dẹp, Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung. Do Phạm Du đã chết mà thế lực Trung Từ mạnh nên vua Cao Tông buộc phải dựa vào Trung Từ. Đàm Dĩ Mông trước đã hàng phục Lý Thầm và Quách Bốc vẫn không bị trị tội, được làm chức thái uý. Đầu năm 1210, Cao Tông đau yếu, mới sai người đón thái tử Sảm về kinh. Tháng 10 năm 1210, Lý Cao Tông chết. Thái tử Sảm nối ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Việc đầu tiên vua làm là sai Phạm Bố và Tô Trung Từ đón Trần Thị Dung vào cung, lập làm nguyên phi; cho Trung Từ làm Thái uý phụ chính; phong anh Thị Dung là Thuận Lưu bá Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu. Vua lại còn tin tưởng, giao quyền bính cho Thái úy Đàm Dĩ Mông là một người nhu nhược và thiếu học thức. Nội loạn Bài chi tiết: Tô Trung Từ và Trần Tự Khánh Ngả theo họ Đoàn Tuy loạn Quách Bốc bị dẹp nhưng nhiều nơi còn cát cứ chưa hàng phục triều đình. Nhiều hào trưởng địa phương, tướng triều đình mang quân ly khai. Xác Cao Tông chưa kịp chôn, trong triều đã xảy ra biến loạn. Tô Trung Từ trở thành quyền thần trong triều. Tháng 12 năm 1210, Đỗ Kính Tu nhận ủy thác của vua trước là Cao Tông mưu giết Trung Từ nhưng không xong, bị Trung Từ bắt dìm chết dưới nước ở bến Đại Thông. Sau đó Nội hầu Đỗ Thế Quy cũng mưu phát binh giết Trung Từ không thành, cũng bị Trung Từ giết chết. Tháng 7 năm 1211, Tô Trung Từ đang đêm sang Gia Lâm tư thông với công chúa Thiên Cực, bị quan nội hầu Vương Thượng là chồng công chúa giết chết. Con rể Trung Từ là tướng Nguyễn Ma La bị tướng dưới quyền Nguyễn Trinh giết. Trần Thừa lập kế giết Nguyễn Trinh. Trần Tự Khánh nhân lúc kinh thành bỏ trống, lập tức mang quân về kinh sư, an táng người cậu Tô Trung Từ ở làng Hoạch. Các tướng cát cứ ở Hồng châu là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nói vu Trần Tự Khánh với vua Huệ Tông rằng: "Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập". Huệ Tông tin là thật, nổi giận, bèn hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh và giáng Nguyên phi Trần thị Dung xuống làm Ngự nữ. Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Huệ Tông hạ chiếu tấn phong tước hầu cho Đoàn Thượng. Bỏ chạy lên Lạng Châu Tuy nhiên, Trần Tự Khánh liên minh với Nguyễn Tự ở Quốc Oai đánh bại họ Đoàn. Sau đó lại nhân Tự chết, Tự Khánh dụ hàng tướng của Tự là Nguyễn Cuộc, kiêm tính vùng Quốc Oai. Huệ Tông không muốn dựa vào họ Trần nhưng thấy thế lực họ Trần mạnh lên, một mặt truyền cho văn võ bá quan đều phải nghe mệnh lệnh Trần Tự Khánh; mặt khác, Huệ Tông lại cùng với Thái hậu Đàm thị và một số cận thần vẫn ngầm mưu diệt họ Trần. Đầu năm 1213, Thái hậu sai người đi với các tướng sĩ ở đạo Phù Lạc ở đạo Bắc Giang, hẹn ngày cùng phát binh đánh Tự Khánh. Đúng ngày đã định, các tướng Phan Thế ở Phù Lạc, Ngô Mãi ở Bắc Giang tiến đến cửa Đại Hưng (cửa nam thành Thăng Long). Tự Khánh đang ở bến Đại Thông, nghe tin đó liền kéo quân lên kinh sư, vào cấm thành, đốt cầu Ngoạn Thiềm rồi lại trở về Đại Thông. Lý Huệ Tông bèn cùng thái sư Đàm Dĩ Mông tự làm tướng, hẹn với quân Hồng châu đi đánh Tự Khánh, đến Mễ Sở gặp quân của họ Trần do Vương Lê, Nguyễn Cải chỉ huy. Hai bên chưa giao chiến, quân của Lê, Cải mới hò reo tiến lên, quân triều đình đã tự tan vỡ. Vương Lê, Nguyễn Cải bắt được thuyền rồng. Cánh quân đạo Bắc Giang do thái sư Đàm Dĩ Mông thống xuất tới bến An Diên (Thường Tín, Hà Tây) thì bị quân của Trần Thừa tiến đánh. Em họ Trần Tự Khánh là Trần Thủ Độ cùng Trần Hiến Sâm ở tả ngạn cũng tiến đánh thắng quân triều đình. Các tướng họ Trần khác là Phan Lân, Nguyễn Nộn từ Quốc Oai tiến đến chợ Dừa đánh thắng các tướng ở Hồng châu là Đoàn Cấm, Vũ Hốt. Lý Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu, ở nhà lao động đường phố mã, đồng thời là quan Nội hầu Vương Thượng (chồng công chúa Thiên Cực). Trần Tự Khánh chiếm được kinh đô, sai người đem thư lên Lạng Châu gặp Huệ Tông để rước về nhưng Huệ Tông không nghe. Dựa vào Nguyễn Nộn Không đón được Huệ Tông về kinh, Tự Khánh đón một người con của vua Lý Anh Tông là Huệ Văn vương lập làm vua mới, hiệu là Nguyên Vương, cải nguyên là Càn Ninh. Các bộ tướng của Trần Tự Khánh là Đỗ Bị, Nguyễn Nộn phản lại Tự Khánh khiến tình hình thêm rối ren. Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, sau khi đánh bại một cuộc tấn công của họ Đoàn bèn phản lại Trần Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hỏa đốt kinh đô rồi đón vua mới là Càn Ninh xuống hành cung Lý Nhân (Hà Nam). Nguyễn Nộn đem binh đến Thăng Long đánh nhau với Tự Khánh. Huệ Tông và thái hậu đang ở Nam Sách trở về Thăng Long, phong cho Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay Nộn chống họ Trần. Cục diện trong nước lúc này đại thể hình thành ba thế lực: Phía bắc là Nguyễn Nộn, phía đông là Đoàn Thượng, phía nam là Trần Tự Khánh. Ngoài mấy lực lượng lớn, còn có những thế lực nhỏ ở các địa phương. Một thế lực cát cứ khá quan trọng là Ô Kim hầu Lý Bát ở đất Ô Kim (Hoài Đức, Hà Tây). Ở Quy Hóa (miền Yên Bái, Tuyên Quang dọc sông Hồng) có họ Hà, cha truyền con nối cai trị đất trại này. Ngoài ra, còn họ Phạm ở Nam Sách. Khắp nơi trong nước vẫn trong tình trạng hỗn loạn. Quay về với họ Trần Đầu năm 1214, Huệ Tông chạy đến hương Bình Hợp (xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ, Hà Tây), Trần Tự Khánh được hào trưởng địa phương Đỗ Năng Tể giúp đỡ lấy lại Bình Hợp, rồi đem quân bao vây Thăng Long, đốt cung điện, phá nhà cửa. Huệ Tông phải dựng lều tranh để ở. Đầu năm 1216, Huệ Tông lại lập Trần Thị Dung (trước bị giáng xuống làm ngự nữ) làm Thuận Trinh phu nhân. Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ Trần Thị Dung mà nói là bè đảng của giặc, bảo Huệ Tông đuổi bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Huệ Tông biết bèn ngăn lại. Đàm Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Tháng 4 năm 1216, các tướng ở Cảo Xã (Nhật Tảo, Từ Liêm, Hà Nội) là Đỗ Át, Đỗ Nhuế chống lại triều đình. Lý Huệ Tông dựa vào Lý Bát, sai Bát đánh lại, nhưng không thắng. Trước tình thế đó, Huệ Tông đành lại quay về nương nhờ anh em họ Trần. Khi đó trong triều, Đàm Thái hậu ngày ngày muốn giết Trần Thị Dung, sai người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải chết. Huệ Tông ngăn lại không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân lẻn đi đến chỗ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đã sáng, phải nghỉ lại ở nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem binh thuyền đến đón. Huệ Tông bèn đỗ lại ở bãi Cứu Liên và truyền cho Tự Khánh đến chầu. Tự Khánh đón được Huệ Tông, bèn phế Nguyên vương mà mình từng đưa lên ngôi xuống làm Huệ Văn vương. Phát điên Tháng 12 năm 1216, Thuận Trinh phu nhân Trần Thị Dung được phong làm hoàng hậu. Từ lúc đó, anh em, thân thuộc họ Trần chiếm hết các chức văn võ quan trọng trong triều. Tự Khánh làm Phụ chính thái uý, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ. Trần Thừa cho đúc vũ khí, dần dần chấn chỉnh lại quân đội. Vua Huệ Tông lại bị trúng phong, đau yếu luôn, không đi đâu đươc, lại không sinh được hoàng tử, chỉ có toàn công chúa. Tháng 3 năm Đinh Sửu (1217), vua phát điên, nhiều lúc tự xưng là Thiên tướng giáng trần, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc,và múa hát : Ta đây là tướng nhà trời, Hôm nay giáng thế cho người sợ oai." Từ sớm đến chiều không nghỉ, khi múa xong thì đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh. Chính sự giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Tự Khánh ra tay đánh dẹp các lực lượng cát cứ của Đỗ Bị, Lý Bát, Hà Cao. Đoàn Thượng thấy thế lực họ Trần mạnh, tạm quy hàng triều đình, được phong tước vương và vẫn giữ vùng Hồng châu. Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, quyền lực lại rơi vào tay em họ Tự Khánh là Trần Thủ Độ. Anh Tự Khánh là Trần Thừa được phong là Phụ quốc Thái uý. Năm 1224, bệnh vua càng nặng hơn. Vua đem chia cả nước làm 24 lộ, chia cho các công chúa, lại phong Trần Thủ Độ [3] làm Điện tiền chỉ huy sứ. Đến tháng 10, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, ông chính thức nhường ngôi lại cho con gái là công chúa Chiêu Thánh mới lên 8 tuổi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Huệ Tông lên làm thái thượng hoàng và đi tu ở chùa Bút Tháp, lấy pháp danh là Huệ Quang đại sư Bị bức tử Phương đình Đền Đô, tức đền Lý Bát đế thờ các vua nhà Lý ở Bắc NinhKhông lâu sau, Trần Thủ Độ sắp đặt để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức là Trần Thái Tông. Nhà Lý mất về tay nhà Trần từ đó (1225). Sau khi làm sư, Huệ Tông vẫn thường đi dạo chơi trong kinh thành. Một hôm đi qua chơi chợ Đông, dân chúng nhận ra, xúm lại xem, có người còn khóc thương. Năm 1226, Trần Thủ Độ sợ lòng dân nhớ vua cũ, bèn chuyển Huệ Quang vào chùa Chân Giáo. Một lần Thủ Độ thấy Huệ Tông nhổ cỏ ở vườn, Thủ Độ nói: Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu. Huệ Tông nói: Điều ngươi nói, ta hiểu rồi. Sau đó, ông tự tử ở sau vườn, trước khi chết còn khấn: Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế. Lý Hạo Sảm thọ 33 tuổi, làm vua 14 năm, đi tu 2 năm. Thủ Độ cho hỏa táng xác ông, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, đời sau có người làm phép chiết tự cho rằng: tên ông là Sảm, theo Hán tự thì bên trên chữ nhật là mặt trời, bên dưới chữ sơn là núi, chữ "Sảm" nghĩa là "mặt trời gác núi"; theo nghĩa đó mà suy thì đến đời Lý Sảm, mặt trời nhà Lý sẽ tắt. Bình luận Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngô Sĩ Liên bàn về việc Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con gái để đến nỗi cơ nghiệp nhà Lý mất về tay nhà Trần như sau: Đời sau chỉ truyền ngôi cho con mà không truyền ngôi cho người hiền, vì là không có người nào được như Thuấn và Vũ. Nếu không may mà không có con thì chọn con của người tông thất nuôi làm con mình để nối giữ nghiệp lớn, đó cũng là một cách xử trí trong lúc biến vậy. Lý Nhân Tông đã làm như thế rồi, Huệ Tông sao không xét việc cũ mà làm theo, lại để đến sau lúc tật bệnh mới lập con gái mà truyền ngôi cho, thế có phải lẽ không? Các quan bấy giờ không ai nghĩ gì đến xã tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ hậu[4] và Vũ hậu[5] làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần, ấy là người có tội với họ Lý. Tuy nhiên, khi đưa ra nhận định này, sử gia Ngô Sĩ Liên dường như đã không thấy một thực tế rằng: nhà Lý đã không còn thực quyền từ loạn Quách Bốc, phải dựa vào các hào trưởng địa phương và nếu không có họ Trần, họ Nguyễn hoặc họ Đoàn cũng sẽ trở thành quyền thần trong triều. Do đó, việc lập con gái làm thái tử truyền ngôi dù không phải ý nguyện của Huệ Tông thì ông cũng không thể cưỡng lại được. Chứng điên khùng của Lý Huệ Tông thực ra xuất phát từ sự phẫn uất, ức chế và bất lực của ông trước thời cuộc khi chứng kiến cơ nghiệp dòng họ dần dần bị thôn tính mà không làm gì được. Một mặt ra lệnh các quan ủng hộ họ Trần, mặt khác vẫn ngầm liên minh các sứ quân khác để chống họ Trần, điều đó chứng tỏ Huệ Tông cũng có toan tính "hai mặt" của một nhà chính trị chứ không phải là người ngây ngô, đần độn như Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung. Tới khi làm sư Huệ Quang, ông vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Nghe Trần Thủ Độ nói chuyện nhổ cỏ tận gốc, rõ ràng ông nhận thức được thâm ý độc ác của quyền thần; bởi nếu là người thực sự bị tâm thần thì sẽ không thể nào hiểu được, có lẽ sẽ dốc sức cắm cúi nhổ cho được cái rễ cỏ mà thôi. Chứng điên khùng của Huệ Tông phần do phẫn uất, phần do phe cánh họ Trần nói vu ra cho nặng thêm để người ngoài nghĩ rằng vua không còn đủ "năng lực hành vi" để trị quốc. Huệ Tông là người chồng tốt nhưng không phải là ông vua giỏi và không đủ khả năng để an định đại cục đã rối ren. Ngô Sĩ Liên trách ông tự gây ra họa ngoại thích khi tới Hải Ấp: Thái tử Sảm đi lần này là vì nước loạn mà tránh nạn, sao lại buông lòng dâm dục ở ngoài mà tự tiện phong tước cho người? Trách cứ của Ngô Sĩ Liên có phần quá khe khắt. Kinh thành có biến phải bôn tẩu, việc Lý Sảm phong chức cho họ Trần để kích động lòng trung thành mà dẹp loạn; sau này trở về kinh thành, ông lại mưu dựa vào những họ khác để hạn chế thế lực họ Trần; như vậy nhà vua cũng biết thuật quyền biến, không hẳn vì tình riêng với Trần Thị Dung. Tuy nhiên, bởi Huệ Tông không đủ tài nên sau trận ra quân cùng Đàm Dĩ Mông so gươm với họ Trần thất bại, ông nói riêng và nhà Lý nói chung không còn khả năng chi phối cứu vãn đại cục. Ông loay hoay tìm trung thần nhưng rốt cục ngoảnh đi ngoảnh lại, các sứ quân không ai trung thành với nhà Lý mà đều có toan tính riêng. Lý Huệ Tông không mặn mà họ Trần nhưng lại thực lòng yêu Trần Thị Dung và điều đó được họ Trần khai thác triệt để với vai trò ngoại thích và có vị thế thuận lợi để dẹp yên thiên hạ. Nếu ông và Trần Thị Dung chỉ là phương tiện phát triển thế lực cho Trần Tự Khánh thì tới đời sau, ông lại chứng kiến đôi trẻ Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh là phương tiện để Trần Thủ Độ thi hành bá quyền[6]. Nói một cách khái quát, Lý Huệ Tông không đủ khả năng cứu vãn chính sự nhà Lý mà vua cha Cao Tông đã làm hỏng. ----------------------- 5. Lý Chiêu Hoàng: (chữ Hán: 李昭皇; 1218-1278) Là vị vua thứ 9 và là cuối cùng của nhà Lý (Việt Nam) từ năm 1224 đến năm 1225, đồng thời là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam. Thân thế Bà là con thứ của vua Lý Huệ Tông, sinh tháng 9 năm Mậu Dần (1218), tên húy là Phật Kim (佛金), sau đổi là Thiên Hinh (天馨), tước hiệu là Chiêu Thánh công chúa. Mẹ bà là Trần Thị Dung. Chị gái là công chúa Thuận Thiên, cả hai chị em bà sau này đều có thời là hoàng hậu của Trần Thái Tông. Nữ hoàng bất đắc dĩ Năm 1224, Trần Thủ Độ chuyên quyền, ép vua Lý Huệ Tông đi tu. Lý Huệ Tông không có con trai, ông phải lập công chúa Chiêu Thánh làm Thái tử, rồi truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo, gọi là Lý Chiêu Hoàng. Năm 1225, họ Trần nắm giữ binh quyền và các chức vụ quan trọng. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh là cháu họ, con của Trần Thừa, 8 tuổi được đưa vào cung làm Chánh thủ hầu hạ Lý Chiêu Hoàng. Trần Cảnh được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chính bằng cách để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép : “ "...Một hôm, Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: "Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?". Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh". Chiêu Hoàng cười và nói: "Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó". Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đã có chồng rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy, ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng: "Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói "Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay". Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết". Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế....". ” Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (1225), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày mồng 1 tháng chạp năm ấy, Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở điện Thiên An, dựng lên nhà Trần. Năm đó, Chiêu Thánh mới 7 tuổi. Hoàng hậu bất hạnh Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được phong Chiêu Thánh hoàng hậu. Bà chung sống với chồng gần 10 năm, tình cảm khá sâu sắc, được Trần Cảnh, bấy giờ là Trần Thái Tông yêu thương. Nhưng vì lấy nhau 12 năm không có con nên Trần Thủ Độ và vợ là công chúa Thiên Cực (Trần Thị Dung - vợ cũ vua Lý Huệ Tông, mẹ của Chiêu Thánh) ép Trần Cảnh phải bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu, chị gái Chiêu Thánh) là công chúa Thuận Thiên đương có mang 3 tháng. Trần Cảnh lúc đầu phản đối, bỏ ngôi vua lên chùa Phù Vân ở Quảng Yên. Trần Thủ Độ vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng cũng phải chịu nghe theo. Vì chuyện này mà trong nội cung có xích mích. Chiêu Thánh sau đó bị phế ngôi, Thuận Thiên được lập làm hoàng hậu. Vợ Lê Phụ Trần Năm 1258, sau kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất, vua Trần Thái Tông lại đem Chiêu Thánh gả cho Lê Phụ Trần (vốn tên là Lê Tần). Bà sống với Lê Phụ Trần được 20 năm, sinh ra con trai là thượng vị hầu Tông, con gái là Ứng Thụy công chúa Khuê. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê chê trách nặng lời việc vua Trần Thái Tông mang bà là vợ cũ gả cho Lê Phụ Trần là bầy tôi. Ở Từ Sơn (Bắc Ninh) vẫn còn câu ca dao thác lời Chiêu Hoàng trách Trần Cảnh về việc này: Trách người quân tử bạc tình Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao! Tháng 3 âm lịch năm 1278, bà mất, thọ 61 tuổi. Trần Bình Trọng Sử sách không ghi chép giữa bà với Trần Bình Trọng có quan hệ ruột thịt gì hay không, ngoài yếu tố Bình Trọng là con cháu hậu duệ vua Lê Đại Hành còn Phụ Trần thì mang họ Lê. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng Lê Phụ Trần là phụ thân của Trần Bình Trọng và Trần Bình Trọng có thể là con của Lê Phụ Trần với Lý Chiêu Hoàng. Đền thờ Đền thờ của bà hiện nay tại tại Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, (tỉnh Bắc Ninh), còn gọi là Đền Rồng. Tháng 1 năm 2009, đền được nhà nước Việt Nam công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Tháng 4 năm 2009, đền đã bị đập bể hoàn toàn để chuẩn bị xây dựng mới, gây đau lòng cho người dân. ----------------------------- 6. Trần Thánh Tông: (chữ Hán: 陳聖宗; 1240 – 1290); Tên thật là Trần Hoảng (陳晃), là vị vua thứ hai của nhà Trần (sau vua cha Trần Thái Tông và trước vua con Trần Nhân Tông), ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ 1278 đến khi qua đời. Trong thời gian làm Thái thượng hoàng, ông đã cùng với Trần Nhân Tông lãnh đạo đất nước giành chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Thân thế Trần Hoảng (sách Việt Sử Toàn Thư chép là Khoán) là con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông và bà Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu Lý Thị. Ông sinh ngày 25 tháng 9 âm lịch năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (tức năm Canh Tý, 1240) và ngay lập tức được lập làm Đông cung thái tử. Trị vì Ngày 24 tháng 2 âm lịch niên hiệu Nguyên Phong thứ 8 (năm 1258), Trần Thái Tông nhường ngôi cho thái tử Hoảng, về làm Thái thượng hoàng. Trần Thánh Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiệu Long. Ông tôn vua cha là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Ông được xem là một vị vua nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài. Ông thường nói rằng: “ Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quí chung. ” Do vậy, trong nội cung khi ăn uống nô đùa không có phân tôn ti trật tự, chỉ lúc nào có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo lẽ phép. Vua Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị. Việc học hành được mở mang: Trần Ích Tắc (em trai Thánh Tông) nổi tiếng là một người hay chữ trong nước nên được cử ra mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên đời Trần Anh Tông cũng học ở trường ấy. Ông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Thái Tông, đến năm Nhâm Thân (1271) đời Thánh Tông mới xong. Trần Thánh Tông cho phép vương hầu, lao động đường phố mã họp các dân nghèo để khẩn hoang. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đây. Nhà vua xuống chiếu kén chọn văn học sĩ xung vào quan ở Quán và Các, Đặng Kế được kén làm Hàn Lâm Học sĩ, liền được thăng chức Trung Thư. Theo quy chế cũ: không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển. Những người văn học được giữ quyền binh bắt đầu từ đây. Ngoại giao Quan hệ với Nam Tống Năm 1258, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Sau đó dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ. Để giữ tình bang giao với Đại Việt, khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả. Việc duy trì quan hệ với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc. Sau này Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, từ đó mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý. Quan hệ với Nguyên Mông Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu v.v... Vua Mông Cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xích (tức là quan Chưởng ấn) để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt. Ý Mông Cổ muốn tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm. Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để phòng chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân quân ngũ ra làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn. Từ năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, trong lúc bình định nốt miền nam Trung Quốc muốn dụ vua Đại Việt sang hàng phục, để khỏi cần động binh. Cứ vài năm, Mông Cổ lại cho sứ sang sách nhiễu Đại Việt và dụ vua An Nam sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác. Năm 1272, vua Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa. Năm 1275 Trần Thánh Tông sai sứ sang nói với vua Nguyên rằng: Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ. Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị. Sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này. Thái thượng hoàng Năm 1277, thượng hoàng Trần Thái Tông mất. Mùa đông ngày 22 tháng 10 âm lịch năm sau (1278), Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con trai là hoàng thái tử Trần Khâm (tức là vua Trần Nhân Tông), lên làm thái thượng hoàng. Ông về ở Bắc cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách. Trần Nhân Tông nối ngôi tôn Thượng hoàng là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế, tôn Thiên Cảm hoàng hậu (vợ Thánh Tông) làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Pháp Thiên Ngự Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân Hoàng Đế. Trên danh nghĩa là thái thượng hoàng, nhưng Trần Thánh Tông vẫn tham gia việc triều chính trong bối cảnh chuẩn bị chống xâm lược của Nguyên Mông. Quan hệ hai bên căng thẳng và đến cuối năm 1284 thì chiến tranh bùng nổ. Thượng hoàng Thánh Tông cùng vua con Nhân Tông đặt hết niềm tin vào người anh họ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, phong làm Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống Nguyên Mông. Trong hai cuộc chiến chống Nguyên Mông lần 2 và lần 3 thắng lợi có vai trò đóng góp của thượng hoàng Thánh Tông. Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, ông lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài thơ thường được truyền lại là: Hành cung Thiên Trường, Cung viên nhật hoài cực. Ngày 25 tháng 5 âm lịch năm Trùng Hưng thứ 6 (Canh Dần, 1290), Thượng hoàng Trần Thánh Tông qua đời. Ông làm vua 21 năm, làm thượng hoàng 12 năm, hưởng thọ 51 tuổi, được táng ở Dụ Lăng. Ngày nay ở trung tâm thành phố Hà Nội có phố mang tên Trần Thánh Tông. Gia quyến Vợ: Thiên Cảm phu nhân Trần thị húy Thiều (?-2/1287), con gái Trần Liễu, sau phong hoàng hậu, tức Thiên Cảm hoàng hậu. Năm 1278, Trần Nhân Tông phong làm Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu. Con trai: Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông (1258-1308), con của Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu. Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp (1265-1306) Con gái: Công chúa Thiên Thụy, chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch 1308). Lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương. Nhận định Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông “trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững”, tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật “thì không phải phép trị nước hay của đế vương”. Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông: “ Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an. Suốt đời Trần không có viêc giặc Hồ nữa, công to lắm. ” Thánh Tông là vị vua hiền tài; đối với anh em họ hàng thân mật, không phân biệt chúa tôi, chỉ kể tình ruột thịt... đối với dân trong nước mở mang kinh tế và việc học hành. Ông lại chỉnh đốn võ bị, chống ngoại xâm, biết ngoại giao mềm mỏng, dùng kế hoãn binh trong nhiều năm. Khi chiến tranh nổ ra, ông cùng quân dân đồng cam cộng khổ để đi đến thắng lợi, có thể coi là vua tài đức toàn vẹn. ------------------------------------ 7. Trần Nhân Tông: (chữ Hán: 陳仁宗; 1258 – 1308) Tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông), ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng Hoàng 15 năm. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Thân thế Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần thị Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (1258). Cai trị Ngày 22 tháng 10 âm lịch năm 1278, được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân”. Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan. Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp. Các niên hiệu trong thời gian vua Trần Nhân Tông trị vì là Thiệu Bảo, Trùng Hưng. Đi tu Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này. Ông qua đời ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1308, được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế. Thi phẩm Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần. Xuân hiểu Thụy khởi khải song phi Bất tri xuân dĩ quy Nhất song bạch hồ điệp Phách phách sấn hoa phi Buổi sớm mùa xuân Ngủ dậy ngỏ song mây Xuân về vẫn chửa hay, Song song đôi bướm trắng, Phất phới sấn hoa bay. (Bản dịch của Ngô Tất Tố) Hạnh Thiên Trường hành cung Cảnh thanh u vật diệc thanh u Thập nhất tiên châu thử nhất châu. Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt, Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu. Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh Kim niên du thắng tích niên du. Dạo chơi hành cung Thiên Trường Cảnh thanh u vật cũng thanh u Mười mấy châu tiên ấy một châu. Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát Nghìn hàng đám quít, đám quân hầu Trăng vô sự chiếu người vô sự Nước có thu lồng trời có thu. Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng Độ xưa so với độ nay thua. (Bản dịch Khuyết danh) Gia quyến Vợ: Bảo Thánh hoàng hậu hay Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái hậu (?-13/9/1293), con gái Trần Hưng Đạo. Tuyên Từ hoàng hậu hay Tuyên Từ thái hậu (?-19/8/1318) Con trai: Trần Thuyên (17/9/1276-16/3/1320), con của Bảo Thánh hoàng hậu, sau là vua Trần Anh Tông. Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn (29/1/1281-3/1328) Con gái: Công chúa Huyền Trân -------------------------------- 8. Lê Thái Tổ (chữ Hán: 黎太祖) Tên húy Lê Lợi (黎利), là người khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh trở thành vị vua đầu tiên của nhà Hậu Lê, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông sinh năm 1385[2] và mất năm 1433, ở ngôi gần 6 năm, thọ 49 tuổi. Thụy hiệu do Lê Thái Tông đặt cho ông là Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao Hoàng Đế. Tiểu sử Tổ bốn đời của Lê Lợi là Lê Hối, người Thanh Hóa. Một hôm đến vùng núi Lam Sơn thấy cảnh đất lành chim đậu, ông dời nhà về đây. Lê Hối lấy bà Nguyễn Thị Ngọc Duyên, sinh ra Lê Đinh, tức là ông nội của Lê Lợi. Lê Đinh lấy bà Nguyễn Thị Quách sinh ra hai người con là Lê Tòng và Lê Khoáng. Lê Khoáng lấy bà Trịnh Thị Ngọc Thương sinh được ba người con: Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi. Lê Lợi sinh vào giờ tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, tức ngày 10 tháng 9 năm 1385 đời nhà Trần. Bối cảnh lịch sử Sau khi bức vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô (Thanh Hóa) và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ. Triều đình nhà Minh (Trung Quốc), vốn rất muốn xâm lăng Đại Ngu, đã nhân cơ hội Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần để đưa quân tràn vào đất Việt năm 1407. Hồ Quý Ly liên tục thất bại và đến tháng 6 năm 1407, thì bị bắt cùng các con trai là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương. Vương triều Hồ và nước Đại Ngu sụp đổ. Nhà Minh thực hiện chính sách xóa bỏ nền Văn minh sông Hồng bằng các cách như đốt, phá và chở về Yên Kinh tất cả các loại sách, văn bia có nói về dân Việt, của dân Việt tạo lập, thiến hoạn đàn ông người Việt, khiến cư dân Việt rất uất ức và căm giận. Hơn 1.000 năm, các triều đình Trung Quốc không đồng hóa được văn hóa Việt, nên việc làm của nhà Minh đã đem lại một kết cục xấu cho sự đô hộ của họ. Khởi nghĩa Lam Sơn Bài chi tiết: Khởi nghĩa Lam Sơn Khởi nghĩa Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú v.v... tất cả 50 tướng văn và tướng võ (trong đó có 19 người đã từng kết nghĩa anh em nguyện cùng chí hướng với nhau ở hội thề Lũng Nhai, năm 1416), chính thức phất cờ khởi nghĩa (khởi nghĩa Lam Sơn). Đồng thời ông tự xưng là Bình Định Vương và kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh cứu nước. Gian nan ở vùng núi Thanh Hóa Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại. Hoạt động trong thời này chủ yếu ở vùng núi Thanh Hóa. Bị quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn ba lần phải rút chạy lên núi Chí Linh những năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở Sách Khôi năm 1422. Một lần bị quân Minh vây gắt ở núi Chí Linh (có sách ghi năm 1418, có sách ghi năm 1419), quân sĩ hết lương, người em họ Lê Lai theo gương Kỷ Tín nhà Tây Hán phải đóng giả làm Lê Lợi, dẫn quân ra ngoài nhử quân Minh. Quân Minh tưởng là bắt được chúa Lam Sơn nên lơi lỏng phòng bị, Lê Lợi và các tướng lĩnh thừa cơ mở đường khác chạy thoát. Lê Lai bị địch giải về Đông Quan và bị giết. Ngoài quân Minh, Lê Lợi và quân Lam Sơn còn phải đối phó với một bộ phận các tù trưởng miền núi tại địa phương theo nhà Minh và quân nước Ai Lao (Lào) bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều gian nan, quân Lam Sơn mấy lần đánh bại quân Ai Lao. Tuy nhiên do lực lượng chưa đủ mạnh nên Lê Lợi thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, nhiều lần phải ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngựa chiến của mình để cho tướng sĩ ăn. Trước tình thế hiểm nghèo, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1422. Đến năm 1423, khi thực lực được củng cố, lại thấy quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng hoà. Tiến vào nam Theo kế của Nguyễn Chích, năm 1424 Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Trên đường đi, quân Lam Sơn hạ thành Đa Căng, đánh lui quân cứu viện của viên tù trưởng địa phương theo quân Minh là Cầm Bành. Sau đó quân Lam Sơn đánh thành Trà Long. Tướng Minh là Trần Trí mang quân từ Nghệ An tới cứu Cầm Bành, bị quân Lam Sơn đánh lui. Lê Lợi vây Cầm Bành, Trí đóng ngoài xa không dám cứu. Bị vây ngặt lâu ngày, Bành phải đầu hàng. Lê Lợi sai Đinh Liệt mang quân vào đánh Nghệ An, lại mang quân chủ lực cùng tiến vào, Trần Trí bị thua liền mấy trận phải rút vào thành cố thủ. Lý An, Phương Chính từ Đông Quan vào cứu Trần Trí ở Nghệ An, Trí cũng mang quân ra ngoài đánh. Lê Lợi dùng kế nhử địch đến sông Độ Gia phá tan. Trần Trí chạy về Đông Quan, còn An và Chính lại chạy vào thành Nghệ An. Tháng 5 năm 1425, Lê Lợi lại sai Đinh Lễ đem quân ra đánh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô (Thanh Hoá). Sau đó ông lại điều Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Triện tiếp ứng cho Đinh Lễ đánh ra Tây Đô, quân Minh ra đánh lại bị thua phải rút vào cố thủ trong thành. Lê Lợi một mặt siết vòng vây quanh thành Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ đem quân vào nam đánh Tân Bình, Thuận Hoá. Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Sau Lê Lợi lai sai Lê Ngân, Lê Văn An mang thủy quân tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn chiếm đất Tân Bình, Thuận Hoá. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt. Như vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành địch đều bị bao vây. Chiến thắng Tốt Động-Chúc Động Bài chi tiết: Trận Tốt Động-Chúc Động Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan. Lê Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan. Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Quân Vân Nam chạy về cố thủ ở thành Xương Giang. Trần Trí thấy mất viện binh bèn cầu viện Lý An ở Nghệ An. Lý An và Phương Chính để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành, còn mình kéo đại quân ra bắc. Vua Minh sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí. Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nhân biết Vương Thông định chia dường đánh úp Lê Triện, hai tướng bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động[4]. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan. Sử chép ba đạo quân ra bắc của Lê Lợi chỉ có tổng số 9000 người. Các nhà nghiên cứu cho rằng con số đó chưa chính xác vì các trận đánh của ba đạo quân này đều có quy mô khá lớn và lực lượng quân Minh sang nhập vào khá đông, do đó để giành thắng lợi, 3 cánh quân (sau đó lại chia thành 4) chắc phải đông hơn. Với một vài ngàn người khó đương nổi lực lượng đông và mạnh của quân Minh như vậy. Căn cứ sách Đại Việt thông sử, khi quân Minh sắp rút về, Lê Lợi đã bàn với các tướng, đại ý rằng: quân Lam Sơn hiện có tổng số 25 vạn, ông dự định sẽ cho 15 vạn về làm ruộng và tuyển lấy 10 vạn làm quân thường trực của triều đình. Qua đó thì thấy những cánh quân ra bắc phải có một vài vạn mỗi cánh quân. Lê Lợi được tin thắng trận liền sai Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị chia hai đường thủy bộ tiến ra gần Đông Quan. Lập Trần Cảo Bài chi tiết: Trần Cảo (vua) Vương Thông thua chạy không dám ra đánh, viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần[5] ra điều kiện với Lê Lợi rằng Thông sẽ rút về nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm vua. Lê Lợi vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh chóng rút về nên đồng ý. Ông sai người tìm được Trần Cảo bèn lập làm vua, còn ông tự xưng là Vệ quốc công. Vương Thông ngoài mặt giảng hòa nhưng lại sai quân đào hào cắm chông phòng thủ và mật sai người về xin cứu viện. Lê Lợi biết chuyện liền cắt đứt giảng hòa. Vây thành Đông Quan Sau khi cắt đứt giảng hoà, Lê Lợi sai các tướng đi đánh chiếm các thành ở Bắc bộ như Điêu Diêu (Thị Cầu, Bắc Ninh), Tam Giang (Tam Đái, Phú Thọ), Xương Giang (phủ Lạng Thương), Kỳ Ôn, không lâu sau đều hạ được. Đầu năm 1427, ông chia quân tiến qua sông Nhị, đóng dinh ở Bồ Đề[7], sai các tướng đánh thành Đông Quan. Ông đặt kỷ luật quân đội rất nghiêm để yên lòng nhân dân. Do đó quân Lam Sơn đi đến các nơi rất được lòng dân. Tướng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ địch ở các thành khác ra hàng. Nhân lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quân Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liêm, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt ở Thanh Trì. Sau Đinh Lễ bị giết, Nguyễn Xí trốn thoát được. Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang Bài chi tiết: Trận Chi Lăng - Xương Giang Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Vương Thông, sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Đây là hai tướng đã từng sang đánh Việt Nam thời nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Theo các nhà nghiên cứu, con số 15 vạn của cả hai đạo quân có thể là nói thăng lên, trên thực tế nếu cộng số các đạo quân điều động từ các nơi thì tổng số chỉ có khoảng gần 12 vạn quân và cánh quân chủ lực là của Liễu Thăng. Nghe tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đánh thành là hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông Quan. Đầu tiên, ông ra lệnh dời người ở những vùng địch đi qua như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Hoá, Tuyên Quang, để đồng không để cô lập địch. Biết cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Lê Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không đánh. Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20, Thăng bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết. Các tướng thừa dịp xông lên đánh địch, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý Khánh tự vẫn. Tướng Minh còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ cố kéo về thành Xương Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân ngoài đồng không. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Nguyễn Xí tiếp ứng cho Lê Sát cùng sáp đánh, giết 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc và hơn 3 vạn quân bị bắt, Thôi Tụ không hàng bị giết. Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua bèn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo chém hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa. Bình Ngô đại cáo Bài chi tiết: Bình Ngô đại cáoVương Thông nghe tin hai đạo viện binh bị đánh tan, sợ hãi xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi đồng ý cho giảng hòa để quân Minh rút về nước. Ông cùng Vương Thông tiến hành làm lễ thề trong thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp âm lịch năm Đinh Mùi (1427) rút quân về. Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Vua Minh biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương. Tháng chạp, Vương Thông rút quân về nước. Các tướng muốn giết địch để trả thù tội ác khi cai trị Việt Nam, Lê Lợi không đồng tình vì muốn giữ hòa khí hai nước, cấp thuyền và ngựa cho quân Minh về. Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh[9]. Đây là áng văn chương nổi tiếng, rất có giá trị đời Lê, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài thơ Nam quốc sơn hà. Cai trị Lên ngôi Sau khi quân Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là vua Việt Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (phủ Trấn Ninh), nhưng không thoát, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết.[10] Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ việc Cảo phải tự bỏ trốn mà cho rằng các tướng của Lê Lợi được lệnh sát hại Cảo, hoặc Cảo bị đe doạ phải bỏ trốn. Tuy nhiên, suy cho cùng Trần Cảo cũng chỉ là con bài chính trị để Lê Lợi đối phó với nhà Minh trong một giai đoạn cần thiết. Ngay nhà Minh, khi xâm lược Việt Nam lấy lý do lập con cháu nhà Trần thực chất chỉ là cớ để đánh nhà Hồ và rõ ràng không thực bụng. Nhà Minh lấy cớ lập con cháu nhà Trần nhưng lại đàn áp nhà Hậu Trần. Việc đó đã bị Nguyễn Biểu, sứ giả của vua Hậu Trần Trùng Quang Đế bóc trần. Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái Tổ, chính thức dựng lên vương triều Lê. Ông khôi phục quốc hiệu Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long và đổi tên Thăng Long thành Đông Kinh. Lê Thái Tổ sai sứ sang Trung Hoa cầu phong, nhưng nhà Minh không chịu, bắt phải tìm con cháu nhà Trần lập làm vua. Sứ nhà Minh đi về hai ba lần, sau vua Thái Tổ sai các viên quan phụ lão trong nước làm tờ khai rằng con cháu vua Trần thật sự không còn ai nữa, và xin phong cho Lê Lợi làm vua nước Nam. Vua Minh thấy vậy mới thuận nên phong vương cho ông. Trị vì Thời kỳ dựng lại quốc gia Đại Việt của Lê Lợi thật khó khăn, do hậu quả tận diệt Văn hóa Việt của quân xâm lược trước đó. Các tài liệu, thư tịch, văn học, nghệ thuật bị tàn phá nặng nề; các học giả và người tài của Đại Việt bị bắt đem về Trung Quốc v.v... Nhưng sức bật của một nền văn minh có gốc rễ sâu bền là đáng kinh ngạc. Ngoài xây dựng kinh tế, nhà Lê còn phải đối phó với bạo loạn trong nước. Năm 1430, Lê Thái Tổ sai thái tử Lê Tư Tề đi dẹp loạn tù trưởng Đèo Cát Hãn. Cát Hãn và con trai là Đèo Mạnh Vượng ra hàng. Khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã chia nước ra làm bốn đạo, nay lại đặt thêm một đạo nữa gọi là Hải Tây đạo, gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân. Còn như các xã-thôn thì cứ xã nào có hơn 100 người trở lên, gọi là đại xã, đặt ba người xã quan; xã nào có 50 người trở lên, gọi là trung xã, đặt hai xã quan; xã nào có 10 người trở lên gọi là tiểu xã, đặt một người xã quan để coi việc trong xã. Về việc học hành, trường Quốc Tử Giám ở đất kinh đô để cho con cháu các quan viên và những người thường dân có khả năng vào học tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho học ở các phủ và các lộ. Rồi lại bắt các quan văn vũ từ tứ phẩm trở xuống phải vào thi Minh kinh khoa, nghĩa là quan văn thì phải thi kinh sử, quan vũ thì phải thi vũ kinh. Ở các lộ cũng mở khoa thi Minh kinh để cho những người ẩn dật ra ứng thí mà chọn lấy nhân tài. Những người theo đạo Phật, đạo Lão cũng phải thi kinh điển những đạo ấy; hễ ai thi đỗ thì mới được làm sư hoặc làm đạo sĩ, ai thi trượt thì phải về quê làm ăn. Về luật pháp, vua cho đặt ra bộ luật mới theo như hình luật của nhà Đường: có tội xuy, tộ trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử. Về kinh tế, bấy giờ thường những người không công lao thì lắm ruộng nhiều nương, mà những kẻ phải đánh đông dẹp bắc, lúc về không có đất. Vì thế Lê Thái Tổ định ra phép quân điền để lấy công điền, công thổ mà chia cho mọi người, từ quan đại thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng, khiến cho sự giàu nghèo ở trong nước khỏi chênh lệch. Thảm sát công thần, thay ngôi thái tử Nhà Hậu Lê hình thành và lập tức việc tranh chấp quyền lực giữa các phe cánh bắt đầu nảy sinh, xuất phát từ nhiều lý do. Một lý do là sự mâu thuẫn giữa những người đồng hương hoặc ít nhiều có thân thích với vua và những người có gốc tích từ các vùng khác. Lý do thứ hai là mâu thuẫn giữa các công thần trong việc lập tranh ngôi thái tử giữa con trưởng Lê Tư Tề và con thứ Lê Nguyên Long. Phe Lê Sát ủng hộ người con thứ Nguyên Long trong khi các tướng xuất thân từ kinh đô như Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn ủng hộ Tư Tề. Năm 1429, Lê Thái Tổ tin lời gièm pha nghi Phạm Văn Xảo làm phản nên bắt giết. Sau đó lại có người tố cáo Trần Nguyên Hãn tích trữ vũ khí làm phản. Lê Thái tổ sai người đi bắt. Thuyền đến giữa dòng, Trần Nguyên Hãn kêu vô tội và nhảy xuống sông tự vẫn. Nguyễn Trãi là anh em cô cậu với Trần Nguyên Hãn cũng bị bắt giam một thời gian, sau vì không có bằng chứng buộc tội nên được thả ra. Người con cả Lê Tư Tề bị kết luận “mắc chứng điên khùng” nên bị phế truất. Con thứ Lê Nguyên Long được lập làm thái tử. Các nhà nghiên cứu thống nhất rằng những sự kiện trên thực chất là kết quả của sự thắng thế của phe Lê Sát trong triều đình mà thôi. Hơn nữa, những hành động của vua Thái Tổ để bảo vệ sự thống trị của nhà Lê cũng mang tính hệ thống. Đầu tiên là giết Trần Cảo. Sau đó giết Trần Nguyên Hãn là con cháu nhà Trần. Cuối cùng là lấy lý do mẹ của thái tử Nguyên Long có tên là Phạm Thị Ngọc Trần (đã mất năm 1425) nên bắt những người họ Trần phải đổi sang họ Trình để kiêng huý. Tất cả những hành động đó đều nhằm khiến thiên hạ hết sự nhớ tiếc nhà Trần. Và Lê Tư Tề cũng là nạn nhân trong đó. Lê Thái Tổ ở ngôi được 5 năm thì qua đời vào ngày 22 tháng 8 nhuận âm lịch năm 1433, hưởng thọ 49 tuổi. Vì nhớ công Lê Lai chết thay cho mình ở núi Chí Linh trước kia, ông dặn lại đời sau phải giỗ Lê Lai trước khi giỗ ông một ngày. Bởi thế đời sau truyền lại câu: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Vua Lê Thái Tổ được an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn. Thái tử Lê Nguyên Long 11 tuổi lên nối ngôi, tức là vua Lê Thái Tông. Nhận định Về công lao, sự nghiệp Sách Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét về Lê Thái Tổ: “ “Vua hăng hái dấy nghĩa quân đánh dẹp giặc Minh. Sau 10 năm thì thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, đã ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu nhập sách vở, mở mang trường học, có thể gọi là có mưu kế xa rộng mở mang cơ nghiệp. Song đa nghi, hiếu sát, đó là chỗ kém.” ” Lê Lợi là vị vua có công đánh đuổi quân Minh xâm lược, sáng lập nhà Hậu Lê, triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử Việt Nam. Sau thời kỳ độc lập hơn 400 năm kể từ thế kỷ 10, Đại Việt có nguy cơ trở lại thành quận huyện của Trung Hoa. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi đã chấm dứt 20 năm cai trị của nhà Minh tại Đại Việt và chấm dứt hẳn sự đô hộ của Trung Quốc thời phong kiến. Bởi công lao đó của ông nên đời sau còn nhớ nhà Lê khi bị nhà Mạc thay ngôi và đó là một nguyên nhân khiến nhà Lê có thể trung hưng (1533). Thậm chí ngay cả khi con cháu nhà Lê không còn nắm được thực quyền thì trên danh nghĩa vẫn là người đứng đầu thiên hạ. Họ Trịnh làm phụ chính nhiều đời nhưng vẫn không dám cướp ngôi nhà Lê cũng bởi sợ dư luận còn nhớ công lao giành lại độc lập cho đất nước của nhà Lê. Về cai trị, ông cũng là người thiết lập lại trật tự, quy củ của chế độ phong kiến các triều đại Lý, Trần trước đây mà các thế hệ vua sau tiếp tục củng cố, phát triển cao hơn nữa. Đến cuối đời ông đã có những quyết định sai lầm dẫn đến cái chết của những trung thần như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo nhưng xét về tổng thể Lê Lợi vẫn là một vị vua có công lớn trong việc đuổi giặc Minh, giành lại độc lập dân tộc. Điểm giống với Hán Cao Tổ So với Hán Cao Tổ Lưu Bang, cuộc đời sự nghiệp của Lê Thái Tổ có nhiều điểm trùng hợp nhau: Cả hai vua đều là con thứ ba trong nhà. Trên Lưu Bang có Lưu Bá, Lưu Trọng. Trên Lê Lợi có Lê Học, Lê Trừ. Cả vua Lê và vua Hán đều xuất thân từ người áo vải, khởi nghĩa gặp rất nhiều khó khăn nhiều năm đầu, về sau mới thuận lợi. Khi gặp gian nguy, Lưu Bang phải nhờ Kỷ Tín ra hàng, lừa địch và chết thay, Lê Lợi cũng phải nhờ có Lê Lai theo gương Kỷ Tín để thoát nạn. Sau khi lên ngôi, hai vua đều giết công thần khai quốc. Về sau, cơ nghiệp của hai vua đều bị họ khác cướp ngôi con cháu, nhà Hán và nhà Lê đều bị gián đoạn một thời gian nhưng sau đó đều hồi phục lại được. Nhà Đông Hán kế tục nhà Tây Hán và nhà Lê được trung hưng. Khi mất cả hai vua đều được đặt chữ “Cao”. Lưu Bang là Cao Đế hay Cao Tổ, Lê Lợi là (Thái Tổ) Cao hoàng đế. Về truyền thuyết Gươm thần Thuận Thiên Bài chi tiết: Thuận Thiên Hồ Hoàn Kiếm (Hồ Gươm), nơi có huyền thoại Lê Thái Tổ trả gươm cho rùa vàng.Sách Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi chép: Khi ấy Nhà-vua cùng người ở trại Mục-sơn là Lê Thận cùng làm bạn keo sơn. Thận thường làm nghề quăng chài. Ở xứ vực Ma-viện, đêm thấy đáy nước sáng như bó đuốc soi. Quăng chài suốt đêm, cá chẳng được gì cả. Chỉ được một mảnh sắt dài hơn một thước, đem về để vào chỗ tối. Một hôm Thận cúng giỗ (ngày chết của cha mẹ) nhà vua tới chơi nhà. Thấy chỗ tối có ánh sáng, nhận ra mảnh sắt, nhà vua bèn hỏi: - Sắt nào đây? Thận nói: - Đêm trước quăng chài bắt được. Nhà vua nhân xin lấy. Thận liền cho ngay. Nhà vua đem về đánh sạch rỉ, mài cho sáng, thấy nó có chữ "Thuận Thiên", cùng chữ "Lợi". Lại một hôm, nhà vua ra ngoài cửa, thấy một cái chuôi gươm đã mài-dũa thành hình, nhà vua lạy trời khấn rằng: - Nếu quả là gươm trời cho, thì xin chuôi và lưỡi liền nhau! Bèn lấy mảnh sắt lắp vào trong chuôi, bèn thành ra chuôi gươm. Tới hôm sau, lúc đêm, trời gió mưa, sớm ngày mai, hoàng hậu ra trông vười cải, bỗng thấy bốn vết chân của người lớn, rất rộng, rất to. Hoàng hậu cả kinh, vào gọi nhà vua ra vườn, được quả ấn báu, lại có chữ Thuận Thiên (sau lấy chữ này làm niên hiệu) cùng chữ Lợi. Nhà vua thầm biết ấy là của trời cho, lòng lấy làm mừng, giấu giếm không nói ra. Truyền thuyết kể tiếp rằng, sau Lê Lợi dùng thanh gươm báu đó làm gươm chiến đấu, xông pha chém địch nhiều trận, cuối cùng đuổi được quân Minh làm vua Đầu năm 1428, Lê Thái Tổ cùng quần thần bơi thuyền ra hồ Thủy Quân. Ra giữa hồ, có Rùa Vàng nổi lên mặt nước, chắn trước thuyền của vua gọi to: - Hãy trả gươm thần cho ta! Lê Thái Tổ rút gươm trả, rùa vàng ngậm lấy gươm lặn xuống nước đi mất. Từ đó hồ Thủy Quân được đặt tên là hồ Hoàn Kiếm. Có thuyết khác nói khác về truyện trả gươm. Đại ý khi thuyền của vua ra giữa hồ thì rùa vàng chắn trước. Vua Lê rút gươm chỉ vào Rùa Vàng, Rùa Vàng liền đớp lấy gươm của vua mà bơi đi. Vua Lê sai tát cạn hồ Thủy Quân để tìm lại gươm báu nhưng không thấy rùa đâu ---------------------------- 9. Lê Thái Tông: (chữ Hán: 黎太宗, 1423 – 1442) Là vị vua thứ hai của nhà Hậu Lê (ở ngôi từ năm 1433 đến 1442) trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Lê Nguyên Long (黎元龍). Ông sinh ra tại Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá, Việt Nam. Thái Tông lên kế vị khi mới 11 tuổi nhưng đã tỏ ra là minh quân. Ông trọng dụng các đại thần chính trực như Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt, giáng chức bè đảng quyền thần Lê Sát, Lê Ngân. Thân thế Lê Nguyên Long là con thứ hai của vua Lê Thái Tổ và bà Cung Từ hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần. Ông chào đời ngày 20 tháng 11 âm lịch năm 1423 trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống ách đô hộ của nhà Minh. Lên ngôi Thân mẫu Lê Nguyên Long mất năm 1425 khi ông mới 3 tuổi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chưa kết thúc. Lúc đó anh cả của Nguyên Long là Lê Tư Tề đã trưởng thành và tham gia vào việc quân với vua cha Lê Lợi. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (Lê Thái Tổ). Trong triều xảy ra mâu thuẫn giữa hai phe đại thần ủng hộ Lê Tư Tề và Lê Nguyên Long. Sau, phe Lê Sát ủng hộ ông thắng thế, Lê Tư Tề bị kết luận là “mắc chứng điên cuồng” và bị hạ chức từ Quốc vương xuống Quận Ai vương, Lê Nguyên Long được lập làm thái tử. Năm 1433, Lê Thái Tổ qua đời, Lê Nguyên Long lên nối ngôi, tức là vua Lê Thái Tông. Minh quân Giáng chức quyền thần, mở mang việc học Lê Thái Tông lên ngôi lúc mới 11 tuổi có Lê Sát làm phụ chính. Bấy giờ mâu thuẫn trong triều nổ ra giữa những khai quốc công thần, đứng đầu là Tư đồ Lê Sát cùng Lê Ngân và bên kia là các quan xuất thân khoa bảng. Dù còn ít tuổi nhưng nhà vua tỏ ra là người thông minh, quyết đoán, đủ bản lĩnh đối phó với những vấn đề phức tạp của triều đình. Lê Sát ít học nhưng là công thần nên được Lê Thái Tổ thăng làm Tư đồ, cậy quyền làm nhiều điều trái phép, những ai không hợp ý đều bị Sát tìm cách hãm hại.[1] Các gian thần Trình Hoàng Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư trước có công về phe với Lê Sát vu cáo Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn, sau vua Thái Tổ đã có lệnh cấm những người đó tham dự triều chính và không được tố cáo nhưng Lê Sát vẫn cố tiến cử với Lê Thái Tông. Vua Thái Tông theo lời can của Phan Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ, cương quyết giữ phép tắc của vua cha, không phục chức cho những người đó. Ít lâu sau khi lên ngôi, năm 1434 vua Lê Thái Tông đã ra chiếu cho bá quan văn võ, nội dung như sau: “ Đạo làm tôi cốt yếu ở hai điều. Trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung, yêu dân phải hết lòng thành, thế thôi. Tất cả các quan được trẫm tin dùng, nếu có ai không hết lòng trung thành, bỏ bê phận sự, thì nhà nước đã có luật pháp. Mới rồi, tìm người hiền để giúp việc trị nước, đã có lệnh cho mọi ngưởi tiến cử người mình biết. Nay đã lâu rồi mà chưa có ai theo lệnh tiến cử một người nào để đáp lại lòng trẫm là cớ làm sao. ” Hơn một tuần sau đó, nhà vua ra chiếu cho quan lại lập ngay danh sách người của địa phương tới dự thi, ai thi đỗ thì được miễn lao dịch, vào học Quốc Tử Giám v.v... Ngày 4 tháng 2 năm 1434, khoa thi đầu tiên được tổ chức. Khi Lê Thái Tông đủ 15 tuổi, lẽ ra Lê Sát phải rút lui nhưng vẫn tham quyền cố vị, tỏ ra chuyên quyền. Thái Tông bất bình bèn bãi chức Lê Sát và Lê Ngân rồi hạ lệnh giết chết. Đích thân chấp chính Năm 1438, vua Thái Tông chỉnh đốn việc thi cử các đạo. Lệ cứ 5 năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi thì kỳ thứ nhất làm một bài kinh nghĩa, bốn bài tứ thư nghĩa, mỗi bài phải 300 chữ trở lên; kỳ thứ hai làm bài chiếu, bài chế và bài biểu; kỳ thứ ba làm bài thi phú; kỳ thứ tư làm một bài văn sách phải 1.000 chữ trở lên. Theo Việt Nam sử lược, thời vua Lê Thái Tông trong nước phải mấy năm đại hạn, nước lụt và hoàng trùng làm hại mùa màng, dân đói khổ. goài ra, đôi khi có một số nhóm người Mường, Mán làm loạn ở các vùng xa xôi, vua thân chinh hoặc cử các tướng đi đánh, nhanh chóng dẹp được. Những nước lân bang, như Xiêm La (Thái Lan), Ai Lao (Lào) và Chiêm Thành đều có sứ thần đi lại và thường có tiến cống. Năm 1442, ông mở khoa thi tiến sĩ, những người thi đỗ đều được khắc tên vào bia đá. Các tiến sĩ được khắc tên vào bia ở Văn Miếu (nơi thờ Khổng Tử – người sáng lập Nho giáo) bắt đầu từ đó. Ngoài ra, ông còn quy định lại những cách thức tiêu dùng tiền và lụa vải ở trong nước; cứ 60 đồng là một tiền; lụa thì cứ dài 30 thước, rộng 1 thước 5 tấc trở lên là một tấm; giấy thì 100 tờ làm một tập. Cốt nhục tương tàn Bài chi tiết: Lê Tư Tề Lê Thái Tông lên ngôi nhưng vẫn lo nguy cơ giành lại địa vị của anh cả Lê Tư Tề. Theo sử sách, do có người tố cáo Lê Tư Tề có lời oán vọng, vua Thái Tông ra lệnh giam lỏng Tư Tề, cấm các quan không được lại gần và cấm Tư Tề vào triều, ai vi phạm sẽ bị tội nặng. Phạm Thị Nghiêu - tức Phạm Huệ phi, mưu phế bỏ Thái Tông, bị ông đưa khỏi kinh thành về Lam Kinh để coi Vĩnh Lăng - nơi chôn vua cha Lê Thái Tổ. Sau nghe lời tố cáo của một số thị nữ về lời oán vọng của bà, vua Thái Tông hạ lệnh ép bà tự sát. Năm 1438, sau khi giết Lê Sát trực tiếp lên nắm quyền, Thái Tông lập tức phế anh cả Tư Tề làm dân thường. Không lâu sau đó, Tư Tề qua đời. Hoàng đế đa tình Lê Thái Tông có nhiều vợ và 4 người con trai. Trước khi sinh hoàng tử, Thái Tông đã có 2 bà phi là Lê Ngọc Dao (con Lê Sát) và Lê Thị Lệ (con Lê Ngân). Khi Lê Sát và Lê Ngân bị xử tội năm 1437, hai người bị phế. Lê Ngọc Dao xuống làm dân thường còn Lê Thị Lệ xuống làm Tu dung. Sau đó Lê Thái Tông sủng ái bà phi Dương Thị Bí và sinh ra con trai trưởng là Lê Nghi Dân năm 1439. Năm 1440, Thái Tông bắt đầu sủng ái Nguyễn Thị Anh và lấy cớ Dương Thị Bí kiêu ngạo nên truất làm Minh nghi. Năm sau một người con trai thứ hai là Lê Khắc Xương ra đời, nhưng mẹ không được vua yêu. Cùng năm đó Nguyễn Thị Anh sinh được Lê Bang Cơ. Thái Tông liền truất Nghi Dân làm Lạng Sơn vương và lập Bang Cơ làm thái tử. Tháng 7 năm 1442, một bà vợ khác là Ngô Thị Ngọc Dao sinh hoàng tử thứ tư là Lê Tư Thành. Ngoài ra, theo sử sách, cùng việc trọng dụng Nguyễn Trãi, nhà vua còn hay gần gũi với một người thiếp của ông - Nguyễn Thị Lộ, khi đó đã 40 tuổi. Nguyễn Thị Lộ có sắc đẹp, giỏi văn chương nên hay được ra vào cung cấm. Cả sách Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê và Khâm định Việt Sử thông giám cương mục của nhà Nguyễn đều chép: Nguyễn Thị Lộ người đẹp, hay chữ, vua cho ra vào cung và sàm sỡ với bà. Vụ án Lệ Chi Viên Bài chi tiết: Vụ án Lệ Chi ViênCuối tháng 7 năm 1442, vua Thái Tông đi tuần phía đông, đầu tháng 8 đến Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 vua về đến trại Vải (Lệ Chi Viên), có Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Sử sách chép: Vua thức suốt đêm hôm đó với Nguyễn Thị Lộ rồi qua đời. Đây chính là Vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục ghi thêm rằng: Vua có ở với bà Thị Lộ nhưng cùng lúc đó bị sốt rét nên qua đời. Triều đình quy tội cho Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Trãi giết vua và tru di tam tộc. Đây là nghi án lớn trong lịch sử. Việc oan khuất của vợ chồng Nguyễn Trãi sau này đã được Lê Thánh Tông xác nhận. Riêng về nguyên nhân cái chết của Thái Tông, ngày nay một số nhà nghiên cứu đã nêu ra giả thiết chính bà phi Nguyễn Thị Anh là thủ phạm. Ông ở ngôi được 9 năm, hưởng thọ 20 tuổi. Ngày 16 tháng 10 năm 1442, ông được táng phía bên trái Vĩnh Lăng ở Lam Sơn gọi là Hựu Lăng, thụy hiệu là Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Triết Chiêu Hiến Kiến Trung Văn Hoàng Đế (繼天體道顯德功欽明文思英睿仁哲昭憲建中文皇帝), miếu hiệu là Thái Tông (太宗). Bài văn bia Hựu Lăng do Hàn lâm viện thị độc học sĩ kiêm tri ngự tiền học sinh cục cận thị chi hậu Nguyễn Thiên Tích soạn. Niên hiệu Thời Lê Thái Tông đã hai lần đổi niên hiệu: Thiệu Bình (1434 - 1439) Đại Bảo (1439 - 1442) Nhận định Sách Đại Việt sử ký toàn thư nhận định về vua Lê Thái Tông như sau: “ “Vua thiên tư sáng suốt, nối vận thái bình; bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp Di Địch. Trọng đạo sùng nho, mở khoa thi chọn hiền sĩ; xử tù, xét án phần nhiều tha thứ khoan hồng. Cũng là bậc vua tài giỏi biết nối giữ cơ đồ. Song đam mê tửu sắc, đến nỗi thình lình băng ở bên ngoài cũng là tự mình chuốc lấy tai họa.” ” Nhận định như vậy quả là xác đáng. “Yêu mẹ thì bế con”. Vua Thái Tông yêu bà Dương Thị Bí nên lập Lê Nghi Dân. Sau đó Nguyễn Thị Anh dù đang được sủng ái nhưng tấm gương mẹ con Dương Thị Bí cùng bị phế truất có lẽ khiến đã bà lo sợ vua Thái Tông “thay lòng đổi dạ” lần nữa vì vua lại mới có thêm Tư Thành, ngoài ra có Khắc Xương còn lớn hơn cả Bang Cơ. Câu chuyện về nguồn gốc của Bang Cơ ngày một lớn mà nhà vua trẻ trung, đa tình có nhiều khả năng còn “được mới nới cũ”, sủng ái những người khác, ngôi vị của mẹ con bà Nguyễn Thị bị đe doạ khiến bà quyết định ra tay trước. Đây là trường hợp tranh chấp trong cung đình tương tự như chuyện nhà Đinh.
NHI NỮ - QUỐC SẮC 1. Ỷ LAN THÁI PHI : Ỷ Lan (1044–1117) là vợ vua Lý Thánh Tông trong lịch sử Việt Nam. Bà có rất nhiều đóng góp tích cực vào cơ nghiệp của nhà Lý. Xuất thân Tên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến. Một học giả người Tống là Thẩm Hoạt ghi lại là Lê Thị Yến Loan, nhưng giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho biết đó chỉ là cách phiên âm từ tên Ỷ Lan. Theo tài liệu truyện thơ của Trương Thị Ngọc Trong, một cung tần của chúa Trịnh Cương thì bà có tên là Lê Khiết Nương. Bà được cho là sinh ngày 7 tháng 3 năm 1044, (19 tháng 2 âm lịch) hay năm Giáp Thân, Thiên Cảm Thánh Võ thứ nhất. Một tài liệu khác cho rằng năm sinh của Ỷ Lan không rõ, sử sách chỉ ghi: Bà mất ở kinh thành Thăng Long vào năm 1117 - trên dưới 70 tuổi - thời Lý Nhân Tông. Nguyên quán của Ỷ Lan ở trại trang Thổ Lỗi, hương Siêu Loại, nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Yến Loan vốn là một thôn nữ, con gái ông Lê Công Thiết và bà Vũ Thị Tình, làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm. Năm Yến Loan 12 tuổi thì mẹ mất. Hai năm sau Lê Công Thiết lấy một người con gái họ Đồng làm vợ kế. Năm Yến Loan 16 tuổi, cha cũng qua đời, cô được mẹ kế nuôi dạy. Giai thoại Câu chuyện Yến Loan vào cung vua Lý đã trở thành một giai thoại nổi tiếng, nhưng có một vài chi tiết nhỏ còn mâu thuẫn. Năm Quý Mão 1063, Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai. Vua và hoàng hậu đi cầu tự nhiều nơi nhưng không thành. Một sáng mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương Quang, phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá. Vua ngự giá đến trang Thổ Lỗi, thấy một cô thôn nữ xinh đẹp vẫn điềm nhiên hái dâu bên cạnh gốc lan. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, cho người gạn hỏi. Người con gái đối đáp thông minh, cử chỉ đoan trang dịu dàng. Đó chính là Yến Loan. Vua truyền lệnh tuyển cô gái ấy vào cung, rước về Lan Cung thuộc đất làng Kim Cổ, huyện Thọ Xương của kinh thành Thăng Long. Lý Thánh Tông phong Yến Loan là Ỷ Lan phu nhân, cũng có ý kỷ niệm hình ảnh cô gái đứng tựa bên gốc lan. Nguyên phi, Hoàng thái hậu Ỷ Lan Trong cung Ỷ Lan được học hành. Khác với các cung phi khác, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc, mong chiếm được tình yêu của vua mà quan tâm đến hết thảy mọi công việc trong triều đình. Bà khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách. Chỉ trong một thời gian ngắn, mọi người đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của Ỷ Lan, triều thần khâm phục Ỷ Lan là người có tài. Khi sinh người con trai thứ nhất là Càn Đức (Bính Ngọ 1066), bà được phong là Thần phi, sinh người con trai thứ hai là Minh Nhân Vương, bà được phong là Nguyên phi. Càn Đức được lập làm thái tử. Khi vua Lý Thánh Tông mất (1072), Càn Đức lên nối ngôi, tức là vua Nhân Tông, bà được phong là Linh Nhân Hoàng Thái hậu. Thái hậu Linh Nhân (Ỷ Lan) vốn là người tài đức, thấy bà đích mẫu (tức bà Thái hậu họ Dương ở cung Thượng Dương) được tham dự việc triều chính lấy làm buồn lòng và oan ức cho mình nên mới bảo vua rằng: Mẹ già khó nhọc nuôi con để có ngày nay, đến lúc phú quý thì người khác hưởng, ăn ở như thế thì đặt con mẹ già này vào chỗ nào? Nhà vua tuy nhỏ bé nhưng cũng có hiểu biết chút ít rằng, mình không phải là con của Thái hậu Thượng Dương, bèn giam Thái hậu Thượng Dương và 72 người thị nữ ở cung Thượng Dương rồi bức bách bắt đem chôn sống theo vua Thánh Tông. Nhiếp chính Ỷ Lan đã hai lần làm nhiếp chính. Lần thứ nhất Năm Kỷ Dậu 1069, Lý Thánh Tông thân chinh cùng Lý Thường Kiệt mang quân đi đánh Chiêm Thành, trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ Ỷ Lan là Quan Âm Nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan. Lý Thánh Tông đánh giặc lâu ngày không thắng, bèn trao quyền binh cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Đến Mạt Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên ngày nay), Lý Thánh Tông hay tin Ỷ Lan đã vững vàng đưa đất nước vượt qua khó khăn, giữ cảnh thái bình, thịnh trị, vua hổ thẹn quay ra trận quyết đánh cho kỳ thắng mới về. Trong sự nghiệp chấn hưng đất nước của Lý Thánh Tông, có vai trò không nhỏ của Nguyên phi Ỷ Lan. Lần thứ hai Năm Nhâm Tý 1072, Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, hoàng thái tử Lý Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi (tức hoàng đế Lý Nhân Tông), bà được tôn làm Hoàng thái phi, rồi Hoàng thái hậu. Triều đình rối ren, Ỷ Lan đã coi triều chính, điều khiển cả quốc gia, cùng tể tướng Lý Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống sang xâm lược (1075 và 1077), vua Lý Nhân Tông chưa quá 10 tuổi, Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao lại chức Thái sư, cùng Lý Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Là một phụ nữ tài trí, đức độ, lại được Lý Thường Kiệt ủng hộ nên Hoàng Thái hậu đã có những đóng góp tích cực vào cơ nghiệp nhà Lý. Hoàng Thái hậu Ỷ Lan còn chăm lo đến việc mở mang dân trí, thi cử học hành. Bà ban hành nhiều chính sách tiến bộ như chuộc nô tỳ, tha cung nữ, giảm tô thuế, cấm giết trâu bò. Ngô Sĩ Liên có lời bàn: "Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu (tức Ỷ Lan) đổi mệnh cho họ cũng là việc nhân chính vậy". Là người rất am hiểu và hâm mộ đạo Phật, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan có công xây dựng hàng trăm ngôi chùa. Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý, mà đến nay mới biết được gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào Việt Nam. Ỷ Lan còn được các nhà nghiên cứu văn học xếp vào hàng tác gia văn học thời Lý - Trần. Bà có làm những bài kinh, có câu kệ còn truyền lại đến ngày nay: Sắc thị không, không tức sắc Không thị sắc, sắc tức không Sắc không quân bất quản Phương đắc khế chân không. Sắc là không, không tức sắc Không là sắc, sắc tức không Sắc không đều chẳng quản Mới được hợp chân tông. Nhưng trong đời Ỷ Lan không phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm quyền nhiếp chính. Bà đã xui vua bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết. Về cuối đời Ỷ Lan đã hối hận về hành động của mình, bà cho lập nhiều chùa để tỏ lòng sám hối và độ siêu sinh cho hoàng hậu Thượng Dương và các cung nữ Bà mất ngày 25 tháng 7 (âm lịch) năm 1117, năm Đinh Dậu, Hội Tường Đại Khánh năm thứ 8 đời Lý Nhân Tông, thọ 74 tuổi. Bà được hỏa táng, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng, phủ Thiên Đức. Tại quê hương và nhiều nơi đã xây dựng chùa tháp, đền thờ bà. Cùng với những ngôi đền lớn thờ bà ở huyện Gia Lâm, Hà Nội, hiện ở Hưng Yên có hai ngôi: Đền Ghềnh, xã Như Quỳnh và chùa Hương Lãng, xã Minh Hải đều thuộc huyện Văn Lâm. Con cái Hoàng thái tử Lý Càn Đức (tức vua Lý Nhân Tông) Minh Nhân vương không rõ tên (2/1068-?) -------------------- 2. LINH TỪ PHI (TRẦN THỊ DUNG) Trần Thị Dung (?-1259) là hoàng hậu cuối cùng của nhà Lý, vợ vua Lý Huệ Tông, mẹ nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam là Lý Chiêu Hoàng. Sau khi Lý Huệ Tông mất, bà trở thành vợ thái sư Trần Thủ Độ nhà Trần. Thân thế Xem thêm: Nhà Trần Trần Thị Dung vốn có tên là Trần Thị Ngừ. Do họ Trần xuất thân chài lưới nên thường đặt tên theo tên các loài cá. Bà người thôn Gia Lưu, Hải Ấp (nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Bà là con gái Trần Lý, em gái kế của Trần Thừa và Trần Tự Khánh, tức là cô ruột của Trần Thái Tông (1226 – 1258). Cuộc đời Xem thêm: Trần Tự Khánh, Lý Huệ Tông Thái tử phi Năm 1209 đời Lý Cao Tông, khi xảy ra loạn Quách Bốc, thái tử Lý Sảm chạy về miền Hải Ấp quê bà, nương nhờ cha bà là Trần Lý. Trần Lý và cậu ruột bà là Tô Trung Từ nhân cơ hội giúp nhà Lý để phát triển thế lực nên gả bà cho thái tử Sảm và tập hợp lực lượng tham gia dẹp Quách Bốc. Nguyên phi Loạn Quách Bốc bị dẹp, Trần Lý tử trận, người cậu Tô Trung Từ trở thành đại thần nhà Lý. Đầu năm 1210, nhân vua Cao Tông bệnh nặng, muốn đón thái tử Sảm về kinh, Tô Trung Từ bèn giả mang quân bản bộ đi đánh quân phiến loạn ở Khoái châu, nhân đó Trung Từ về Hải Ấp nắm lấy thái tử Sảm. Cuối năm 1210, Lý Cao Tông mất, thái tử Sảm lên ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Vừa lên ngôi, vua Huệ Tông sai đón bà về triều, nhưng Trần Tự Khánh không cho, vì lúc trước Trung Từ giành lấy Huệ Tông từ tay anh em họ Trần nên nảy sinh mâu thuẫn với Tự Khánh. Vua Cao Tông chết chưa kịp chôn, Tô Trung Từ và các đại thần có thế lực cũ của nhà Lý đã xung đột dữ dội để tranh quyền. Trung Từ giết Đỗ Kính Tu, Đỗ Thế Quy và giằng co với Đỗ Quảng. Đầu năm 1211, Huệ Tông lại sai người đi đón Trần Thị Dung. Lần này thì Trần Tự Khánh đồng ý để bà về triều, sai hai tỳ tướng Phan Lân, Nguyễn Ngạnh cầm quân hộ tống. Khi quân hộ tống bà tới Thăng Long, đúng lúc Tô Trung Từ đang đánh nhau to với Đỗ Quảng. Trung Từ hợp binh với hai tướng Phan, Nguyễn phá tan quân của Quảng và bắt giết Quảng. Trần Thị Dung được phong làm nguyên phi. Bà sinh được 2 con gái với Lý Huệ Tông là công chúa Thuận Thiên và công chúa Chiêu Thánh (Phật Kim) - sau này trở thành Lý Chiêu Hoàng. Hoàng hậu Sau khi cậu Tô Trung Từ bị giết, do anh bà là Trần Tự Khánh xung đột với các hào trưởng địa phương thân với nhà Lý và có lần xung đột với quân của Huệ Tông nên bà bị thái hậu Đàm thị là mẹ Huệ Tông ghét. Huệ Tông nghe lời mẹ, phế truất ngôi phi của bà, cho làm ngự nữ. Tuy nhiên, sau đó các phe thân nhà Lý cũng như chính Lý Huệ Tông bị Trần Tự Khánh đánh bại. Vì yêu bà, đầu năm 1216, Huệ Tông lại lập bà làm Thuận Trinh phu nhân. Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ Trần Thị Dung mà nói là bè đảng của giặc, bảo Huệ Tông đuổi bỏ đi. Sau đó Đàm thái hậu lại sai người nói với bà, bảo phải tự sát. Huệ Tông biết bèn ngăn lại. Đàm Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn Huệ Tông thường chia cho bà một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Tháng 4 năm 1216, các tướng ở Cảo Xã (Nhật Tảo, Từ Liêm, Hà Nội) là Đỗ Át, Đỗ Nhuế chống lại triều đình. Lý Huệ Tông dựa vào Lý Bát, sai Bát đánh lại, nhưng không thắng. Trước tình thế đó, Huệ Tông đành lại quay về nương nhờ anh em họ Trần. Khi đó trong triều, Đàm Thái hậu ngày ngày muốn giết Trần Thị Dung, sai người cầm chén thuốc độc bắt bà phải chết. Huệ Tông ngăn lại không cho, rồi đêm ấy cùng với bà lẻn đi đến chỗ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đã sáng, phải nghỉ lại ở nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem binh thuyền đến đón. Huệ Tông bèn đỗ lại ở bãi Cứu Liên và truyền cho Tự Khánh đến chầu. Tự Khánh, vì ý đồ chính trị của họ Trần nên khi đón được Huệ Tông vẫn kính cẩn lao động đường phố trợ. Họ Trần nắm quyền trong triều, bà được Huệ Tông phong làm hoàng hậu. Hoàng thái hậu Trần Tự Khánh chết (1223), em họ bà là Trần Thủ Độ lên thay. Thủ Độ buộc Huệ Tông lập công chúa nhỏ là Lý Phật Kim làm thái tử, rồi ép Huệ Tông lên làm thượng hoàng để nhường ngôi cho Phật Kim mới lên 7 tuổi. Năm 1225, Huệ Tông nhường ngôi cho Phật Kim và đi tu. Phật Kim lên ngôi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Trần Thị Dung trở thành hoàng thái hậu nhà Lý. Công chúa Thượng hoàng Lý Huệ Tông bị Thái sư Trần Thủ Độ bức hại chết. Do sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, không lâu sau Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng - con Trần Thừa, cháu ruột bà - là Trần Cảnh mới lên 8 tuổi, tức là vua Trần Thái Tông. Bà bị giáng làm Công chúa Thiên Cực, còn Chiêu Hoàng trở thành hoàng hậu Chiêu Thánh. Không lâu sau bà lấy Trần Thủ Độ. Hai con gái bà, ngoài Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Thái Tông, còn công chúa Thuận Thiên (lớn) lấy anh Trần Cảnh là Trần Liễu. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, do Trần Cảnh muộn con, Trần Thủ Độ cùng bàn với bà, ép vua lấy chị dâu là công chúa Thuận Thiên đã có mang với Trần Liễu. Trần Liễu tức giận nổi loạn, Trần Cảnh bị Thủ Độ ép buộc cũng định bỏ ngôi vua đi tu. Sau do sự cứng rắn của Trần Thủ Độ và sự can ngăn, khuyên giải của bà, anh em Trần Cảnh và Trần Liễu vì cơ nghiệp nhà Trần mà giảng hoà, Trần Cảnh thôi ý định bỏ ngôi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lược vào năm 1258, bà đã lập nên công lao rất lớn. Trong lúc vua quân nhà Trần đang đánh nhau với quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, đang rút khỏi Bình Lệ Nguyên thì ở kinh thành Thăng Long, bà đã tổ chức thực hiện mưu kế “vườn không nhà trống” do nhà Trần định sẵn một cách thành công, bảo vệ các vương tôn, quý tộc nhà Trần. Chính nhờ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này, mà quân Mông Cô ngay khi tiến vào Thăng Long đã gặp vô vàn khó khăn. Sau đó, cuộc phản công của quân Trần được diễn ra, Trần Thị Dung đã thực hiện rất tốt việc tích trữ và vận chuyển lương thảo kịp thời cho quân Đại Việt diệt đạo quân hùng mạnh Mông Cổ. Trần Thái Tông phong bà là Linh Từ quốc mẫu. Năm 1259, bà mất. Tại tỉnh Thái Bình ngày nay còn nhiều địa điểm, địa danh lưu dấu tích công trạng này của bà. Dân địa phương quê bà thường gọi bà theo tên khi mới sinh là bà chúa Ngừ. Nhận định Sử gia Ngô Sĩ Liên viết về bà như sau: “Linh Từ (hiệu do nhà Trần ban cho Trần Thị Dung) trước lấy Lý Huệ Tông là bất chính, sau lấy Trần Thủ Độ là thất tiết, thế nhưng con gái bà là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho nhà Trần và người con gái khác là Thuận Thiên là hoàng hậu của vua Trần Thái Tông, thân mẫu của vua Trần Thánh Tông. An Sinh Vương có hiềm khích với Thái Tông, nhưng Linh Từ đã ra sức hòa gải, nhờ đó mà anh em lại tình nghĩa như xưa”. Cuộc đời Trần Thị Dung gắn chặt với sự chuyển đổi quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần. Bà nhiều lần thay ngôi đổi vị, do sự biến đổi của thời thế. Lấy và tác động tới Huệ Tông, từ thái hậu xuống làm công chúa, lấy người trong họ tộc, tái giá với kẻ sát hại chồng mình, cùng sắp đặt để con gái lớn lấy em rể, hoà giải 2 cháu là con rể... Những việc làm của Trần Thị Dung trước sau đều vì sự tồn tại và phát triển cơ nghiệp của họ Trần. Ban đầu, Lý Huệ Tông nghe mẹ đã phế bà làm ngự nữ, nhưng sau đó vì quá yêu thương bà nên đã ra sức che chở cho bà, ngay cả khi vua đang đối đầu với Trần Tự Khánh (khi đó Tự Khánh đã lập hoàng thân khác làm vua Càn Ninh) vẫn phong bà lên làm phu nhân. Tha thiết hơn, Huệ Tông không phải vì chạy loạn mà vì muốn bảo vệ bà đã cùng bà bỏ cung điện đi tìm đến chỗ Tự Khánh. Tuy nhiên, những việc làm của Huệ Tông không được Trần Thị Dung đền đáp tương xứng. Dẫu việc nước trong tay Trần Thủ Độ phán quyết, nhưng bản thân bà, trước cái chết của Huệ Tông do tay Thủ Độ, dù không chết theo cũng không giữ tiết chung thuỷ với chồng cũ; không tái giá với ai khác lại tái giá với chính người vừa hại chồng mình. Vì cơ nghiệp của họ Trần, bà trở thành người lạnh lùng với họ Lý, hy sinh hết quyền lợi và tình cảm của người họ Lý, dù đó là những người thân thuộc. Những việc làm của bà khác hẳn với Tôn phu nhân - em gái Tôn Quyền khi đã làm vợ Lưu Bị, và Tào hoàng hậu - em gái Tào Phi khi đã làm vợ Hán Hiến Đế thời Tam Quốc. Dường như phẩm chất năng động ở Trần Thị Dung khiến bà không thể lui vào hậu cung sau cái chết của Huệ Tông như hành động theo "đạo" thường thấy của người phụ nữ thời phong kiến. Bà tham gia chính sự và còn góp tay chống ngoại xâm. Những công lao với nước Đại Việt của bà được người đời sau ghi nhận. ----------------------- 3. LÝ CHIÊU HOÀNG Xem bài các quân vương ----------------------- 4. THIÊN CỰC PHI: ----------------------- 5. AN TƯ CÔNG CHÚA - AN QUỐC - AN THƯ Công chúa An Tư,không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết bà là con gái vua Trần Thái Tông, em gái út của vua Trần Thánh Tông, thuộc nhà Trần, Việt Nam. Lược truyện Cuộc đời của An Tư, sử Việt chép rất sơ lược, như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chỉ ghi: Tháng 2 (Ất Dậu)...Sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy Ở Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ cũng chỉ ghi:...Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông; quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại, không được; ngày đã về chiều, quân giặc qua được sông vào kinh thành, Vua sai đưa Thiên Tư Công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước. Tóm tắt truyện: Đầu năm Ất Dậu (1285), quân nhà Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long. Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông đã đi thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng đối phương. Nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9 tháng 3 cùng năm, thủy quân Nguyên đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được hai vua. Chiến sự buổi đầu bất lợi. Tướng Trần Bình Trọng lại hy sinh ở bờ sông Thiên Mạc. Trước thế mạnh của đối phương, nhiều tôn thất nhà Trần như Trần Kiện, Trần Lộng, kể cả hoàng thân Trần Ích Tắc đều qui hàng. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung được sai đi sứ để làm chậm tốc độ tiến quân của Nguyên, nhưng không có kết quả. Trong lúc đó, cần phải có thời gian để củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu, bởi vậy, Thượng hoàng Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến kế mỹ nhân, tức sai người dâng em gái út của mình cho tướng Thoát Hoan. Sau, quân Trần bắt đầu phản công, quân Nguyên đại bại. Trấn Nam vương Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt đã phải "chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy" để về Tàu. Chiến thắng, các vua Trần làm lễ tế lăng miếu, khen thưởng công thần, nhưng không ai nói đến An Tư. Không rõ công chúa còn hay mất, được mang về Trung Quốc hay đã chết trong đám loạn quân. Trong cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc, một thuộc hạ của Trần Kiện theo chủ chạy sang nhà Nguyên, sống lưu vong ở Trung Quốc có ghi: Trước, Thái tử (chỉ Thoát Hoan) lấy người con gái nhà Trần sinh được hai con. Người con gái họ Trần này có thể là công chúa An Tư, tuy nhiên chưa có chứng cứ rõ ràng khẳng định điều này. Ghi công “ ...Một ngày trong tháng 2 năm 1825, Trung Hiếu hầu Trần Dương nhận lệnh đi thương thuyết giảng hòa, rồi sai quan hầu cận là Đào Kiên đưa công chúa An Tư sang dinh tướng Mông Nguyên (Thoát Hoan). Chẳng bao lâu, dưới sự chỉ huy kháng chiến của Trần Quốc Tuấn, quân Nguyên Mông bị dẹp tan. Trong chiến công này rõ ràng là có sự đóng góp của công chúa An Tư, người đã hi sinh vì nạn nước. ” GS. Phạm Đức Dương, Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á Việt Nam, viết: “ Nhà Trần trở thành triều đại vinh quang nhất trong lịch sử Đại Việt vì đã 3 lần chiến thắng quân Nguyên, một đội quân đã từng làm mưa làm gió khắp Á – Âu. Trong chiến công chung đó người ta ghi nhận sự đóng góp, sự sinh thầm lặng của những người phụ nữ, trong số ấy có công chúa An Tư. Người con gái “lá ngọc cành vàng” ấy vì nợ nước đã ra đi không trở lại. Nhưng trớ trêu thay, sau chiến thắng quân Nguyên, tháng 7 năm 1285, vua trở về kinh thành hân hoan khen thưởng những người có công, nhưng không ai nhắc tới công chúa An Tư. ” Và trên website Vietsciences trong một bài viết, không ghi tên tác giả, cũng có đoạn: “ Dù triều Trần và sử sách có quên nàng thì các thế hệ đời sau vẫn dành cho nàng sự kính trọng, thương cảm. Khoảng trống lịch sử sẽ được lấp đầy bằng tình cảm của người đời sau…. ” Trong văn học Khoảng năm 1943, câu chuyện về người công chúa này đã được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết thành cuốn tiểu thuyết lịch sử An Tư Theo nội dung truyện, công chúa An Tư có người yêu là Chiêu Thành Vương Trần Thông, con cả của Thái úy Khâm Thiên Đại Vương Trần Nhật Hiệu. Và sau khi " người chồng" là Thoát Hoan trốn chạy, “nàng xuống ngựa thắp hương, rồi dập đầu trên nấm đất (ngôi mộ của Trần Thông) mà khóc rũ dượi…”. Rồi dưới "ánh trăng bàng bạc, nàng mê mang như ngày ruổi ngựa cùng chàng vào Thanh. Nàng đã đến bên bờ sông Cái, và không ngần ngại văng mình xuống nước...”[9] Bàn về nhân vật này, PGS.TS. Nguyễn Bích Thu viết: Trong tiểu thuyết...An Tư tượng trưng cho cái đẹp biết dấn thân, mang một ý nghĩa lớn lao có thể lay chuyển hàng binh thế trận...Nguyễn Huy Tưởng bằng tình cảm và lòng ngưỡng mộ của mình đã ghi nhận và tôn vinh sự hi sinh thầm lặng nhưng quyết liệt của An Tư, một nữ trung hào kiệt trong tiểu thuyết như một chiến công sánh ngang với Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng và trường hợp của nàng đáng được lưu danh như tên tuổi các bậc tiền nhân nhà Trần. ----------------------- 6. HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA Huyền Trân, một công chúa đời nhà Trần, là con gái của vua Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành (Champa) là Chế Mân (tiếng Phạn: Jaya Sinhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Sử sách Bà sinh vào năm 1287. Vào năm 1293, vua Trần Nhân Tông thoái vị, hoàng thái tử Trần Thuyên lên nối ngôi ( tức là hoàng đế Trần Anh Tông ). Vua Trần Nhân Tông trở thành Thái thượng hoàng, lên tu ở núi Yên Tử. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được vua Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là hoàng hậu Tapasi, người Java (Nam Dương ngày nay). Sau đó nhiều lần Chế Mân sai sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành. Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền Trân cho Chế Mân. Huyền Trân về Chiêm Thành, được phong làm hoàng hậu Paramecvari. Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5 năm 1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chiêm sai sứ sang Đại Việt báo tang. Theo tục nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên dàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền, đưa Huyền Trân về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm và theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa. Tháng 8 năm Mậu Thân (1308), Huyền Trân về đến Thăng Long. Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm (1309), dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng. Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã qui y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự. Bà mất ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là "Thần Mẫu" và lập đền thờ cạnh chùa Nộn Sơn. Ngày bà mất sau này hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế. Các triều đại sau đều sắc phong bà là thần hộ quốc. Vua triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần" . Nhận định Tuy nhiên, một số người đời sau cho rằng câu chuyện này có phần thêu dệt, chuyện nêu lý do công chúa phải lên giàn hỏa chỉ là cớ do sách Việt sau này viết thêm. Theo tiến sĩ Po Dharma, công chúa Huyền Trân không thể hội đủ điều kiện để xin lên giàn hỏa vì nếu theo truyền thống Champa xưa, đây là một vinh dự và chỉ có bà hoàng hậu chính thức mới được phép hủy thân trên giàn hỏa với chồng của mình. Trong kinh điển theo đạo Bà La Môn đều không nhắc đến tục lệ này của người Champa, chưa chắc đã có tục lệ như thế. Cho dù có tục lệ đó đi nữa, thì việc hỏa táng phải tổ chức trong vòng 7 ngày sau khi chết, vì khí hậu nhiệt đới không cho phép bảo quản thi hài được lâu hơn, đến khi tin đưa về Đại Việt và dù Trần Khắc Chung có lên tàu sang ngay cũng không thể nào kịp, trong điều kiện giao thông thời đó. Chuyện Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân có thể là vì bị dèm pha, đồn thổi vì sự chênh lệch tuổi tác quá lớn và Trần Khắc Chung được tiếng đạo đức, trên tàu còn rất nhiều người khác cùng đi, như là An Phủ Sứ Đặng Vân (Đặng Thiệu), không dễ dàng hành động. Sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư chê trách chuyện này: Ngày xưa Hán Cao Hoàng vì nước Hung Nô nhiều lần làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà dân làm công chúa gả cho thiền vu. Kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê trách, song dụng ý là muốn binh yên, dân nghỉ, thì còn có thể nói được. Nguyên Đế thì vì Hô Hàn sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy Vương Tường mà ban cho, cũng là có cớ. Còn như Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại lệnh đó thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì tín ở đâu? Theo nhà sử học Phạm Văn Sơn trong Việt sử toàn thư : Duy việc Trần Khắc Chung lập mưu đưa Huyền Trân trở về nước sau khi Chiêm Vương qua đời, dù muốn sao ta cũng phải nhận là một việc bất tín đối với Chiêm Thành. Thì phản ứng của nước Chiêm là lẽ dĩ nhiên và chính đáng. Còn người Việt đã thắng một canh bạc không lương thiện lắm lại còn ra bộ não nùng xót xa … . Huyền Trân trong thi ca nghệ thuật Câu chuyện về Huyền Trân đã trở thành một đề tài trong thi ca, nghệ thuật. Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chăm là dân tộc thấp kém nên đã có câu: Tiếc thay cây quế giữa rừng Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo Tương truyền là bài "Nước non ngàn dặm" theo điệu Nam Bình, có người cho rằng chính công chúa đã soạn ra trong lúc đi đường sang Chiêm quốc: Nước non ngàn dặm ra đi... Mối tình chi! Mượn màu son phấn Đền nợ Ô, Ly. Xót thay vì, Đương độ xuân thì. Số lao đao hay là nợ duyên gì?... Một số tác phẩm có nói đến Huyền Trân như: Thơ Công chúa Huyền Trân của Hoàng Cao Khải (?) Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười, Vốn đà không mất lại thêm lời, Hai châu Ô Lý vuông ngàn dặm, Một gái Huyền Trân của mấy mươi... ! --------------------------- 7. Phạm Thị Ngọc Trần Người huyện Lôi Dương, Thanh Hoá, là một trong những bà phi theo Lê Lợi từ khi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn (1418). Năm thứ 6 của cuộc khởi nghĩa (1423) bà hạ sinh Lê Nguyên Long. Hy sinh cho thần biển Trong một lần chuyển quân vào Nghệ An (1425), Lê Lợi nằm mộng thấy một vị thần đến xin một người thiếp và hứa sẽ phù hộ cho Lê Lợi đập tan quân nhà Minh. Lê Lợi bèn đem chuyện này ra nói với các bà phi của mình, ai cũng đắn đo, duy chỉ có Phạm Thị Ngọc Trần khẳng khái xin dâng mình cho thần nhân, chỉ xin Lê Lợi khi thành nghiệp lớn hãy lập con của bà làm thái tử. Lê Lợi đồng ý rồi truyền quân mở đàn tế lễ, đem bà tế cho thần. Khi đó Lê Nguyên Long chỉ mới ba tuổi, và được giao cho người hầu thân cận của bà nuôi nấng. Khi Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lại lập con trưởng là Lê Tư Tề làm giám quốc lo triều chính mà quên mất Lê Nguyên Long. Theo truyền thuyết, một hôm vua đang ngủ, bà Phạm quay về báo mộng trách cứ vua quên công lao của mình, vua choàng tỉnh rồi truyền thân cận ra chiếu chỉ lập Nguyên Long làm Hoàng thái tử, phế Tư Tề xuống làm Quận vương. Tuy nhiên sử chép rằng vua Lê Thái Tổ bỏ Tư Tề vì cho rằng Tư Tề làm nhiều điều trái ý. Năm 1433 Lê Lợi qua đời, Lê Nguyên Long lên ngôi vua, tức là vua Lê Thái Tông. Năm Đinh Tỵ (1437), vua Thái Tông truy tôn mẹ mình làm Hoàng thái hậu, thờ phụng ở Thái Miếu. ------------------------- 8. Nguyễn Thị Anh: ------------------------- 9. Ngô Ngọc Dao: Ngô Thị Ngọc Dao (1421-1496?), là vợ thứ năm của vua Lê Thái Tông, là mẹ của Lê Thánh Tông, thuộc nhà Hậu Lê, Việt Nam. Cuộc đời Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, thì Ngô Thị Ngọc Dao, người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa (nay là tỉnh Thanh Hóa)[1]. Ông nội bà tên Ngô Kính, là gia thần của Lê Khoáng (cha Lê Thái Tổ), về sau được phong Thái phó. Cha bà tên Ngô Từ, là gia thần của Lê Thái Tổ, được phong Thái bảo, vì có công cung cấp quân lương, ngay trong những ngày đầu kháng Minh. Làm vợ vua Nhờ có người chị tên Xuân, là cung tần của Lê Thái Tông (1423-1442), nên bà Ngô Thị Ngọc Dao có dịp theo chị vào hậu cung chơi. Nhà vua trông thấy, liền tuyển bà làm cung tần. Năm Canh Thân (1440), bà được phong làm Tiệp dư, ở cung Khánh Phương. Trước đây, Lê Thái Tông đã có 2 bà phi là Lê Ngọc Dao (con Đại tư đồ Lê Sát) và Lê Thị Lệ (con Tư khấu Lê Ngân). Khi Lê Sát và Lê Ngân bị xử tội năm 1437, hai người bị phế. Lê Ngọc Dao xuống làm dân thường còn Lê Thị Lệ xuống làm Tu dung. Sau đó Thái Tông sủng ái bà phi Dương Thị Bí và sinh ra con trưởng là Lê Nghi Dân năm 1439. Năm 1440, Thái Tông bắt đầu sủng ái Nguyễn Thị Anh và lấy cớ Dương Thị Bí kiêu ngạo nên truất làm Minh nghi. Năm sau một người con trai thứ hai là Lê Khắc Xương ra đời, nhưng mẹ cũng không được vua yêu. Cùng năm đó Nguyễn Thị Anh sinh được Lê Bang Cơ (1441-1459), Thái Tông liền truất Lê Nghi Dân, con của Dương Thị Bí, khi ấy mới 2 tuổi, làm Lạng Sơn vương và lập Bang Cơ làm Thái tử. Bị khép tội Khi nghe Ngô Thị Ngọc Dao có thai, Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế, nên đã vu khống Ngọc Giao và xin Thái Tôn khép tội voi giày, nhưng nhà vua chỉ khép vào tội phát lưu (đày đi xa). Biết chuyện, Nguyễn Trãi bàn với vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ, lúc này đang làm Lễ nghi học sĩ, vào xin vua cho đổi sang án giam, và được vua chấp thuận. Nhờ vậy, mà Ngọc Dao chỉ bị giam ở chùa chùa Huy Văn (nay là chùa Dục Khánh), ngõ Văn Chương, trong kinh thành Thăng Long. Ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), Ngô Thị Ngọc Dao sinh ra Lê Tư Thành (tức Lê Thánh Tông, 1442-1479) tại chùa này, rồi cũng vì sợ Nguyễn Thị Anh tiếp tục ám hại, Nguyễn Trãi cho người đưa mẹ con bà trốn biệt ra trấn An Bang (Quảng Yên, nay là một phần của Quảng Ninh). Ngày 4 tháng 8 cùng năm trên, vua Thái Tông chết đột ngột ở vườn Lệ Chi, tục gọi là Trại Vải, ở làng Đại Lại, nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Mấy ngày sau (ngày 12 tháng 8), Thái tử Bang Cơ lên ngôi (tức vua Lê Nhân Tông), Nguyễn Thị Anh trở thành Thái hậu nhiếp chính. Ngày 16 tháng 8 năm 1442, Nguyễn Trãi bị triều đình do bà Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ (tru di tam tộc)..., Được phục vị Đến năm Tư Thành được bốn tuổi, theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, thì “Tuyên Từ thái hậu (Nguyễn Thị Anh) mới ăn năn cho người tìm đi rước mẹ con bà Ngọc Dao về Kinh, phục vị cũ cho bà là Tiệp Dư, và phong cho Tư Thành làm Bình Nguyên vương, sau đổi làm Gia vương”. Ngày 3 tháng 10 năm 1459, Lê Nghi Dân cùng các thủ hạ tin cậy đem hơn trăm quân vào cung cấm giết chết Lê Nhân Tông, và hôm sau, giết luôn Thái hậu Nguyễn Thị Anh. Nghi Dân lên ngôi, Tư Thành không bị vua anh sát hại, mà phải cải phong làm Cung vương. Chín tháng sau, một cuộc đảo chính thứ hai do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu đã giết chết Lê Nghi Dân. Ngày 8 tháng 6, năm Canh Thìn 1460, do đề nghị của hai danh tướng trên, Lê Tư Thành lên ngôi, tức vua Lê Thánh Tông, và Ngô Thị Ngọc Dao trở thành Quang Thục Hoàng thái hậu. Mất Nơi mất và năm mất của Ngô Thị Ngọc Dao, hiện nay có hai nhóm tài liệu chứa đựng những thông tin rất khác nhau. Nhóm thứ nhất, gồm các thư tịch cổ như Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ thực lục, quyển 13), Đại Việt thông sử (Hậu phi truyện), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 24) và gần đây hơn là quyển Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 472)...Tất cả đều cho rằng bà mất vào ngày 26 tháng 2 (nhuận) năm Bính Thìn (1496), thọ 75 tuổi. Riêng Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi rõ Thái hậu Ngọc Dao mất vào giờ Hợi, tức khoảng 21 giờ đến 23 giờ tối, vì bị cảm nặng sau khi về bái yết Lam Kinh (Thanh Hóa). Còn Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt thông sử thì chép bà mất vì bệnh kiết lỵ Về nơi mất, nhóm sách này đều viết bà mất ở điện Thừa Hoa, tức nơi ở của bà ở kinh đô Thăng Long. Nhóm thứ hai, gồm 25 đạo sắc phong, gia phả họ Phan hiện còn lưu giữ ở xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Tất cả đều ghi Thái hậu Ngọc Dao mất ngày 25 tháng 3 năm Tân Mão (1471), khi mới 50 tuổi. Sau khi công bố thông tin trên, GS. Thuần cho biết: Theo lời kể của người dân địa phương, thì vào năm 1471, sau khi cùng con là Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, về dọc đường, bị lâm bệnh nặng và mất tại cửa Sót (nay thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Nhà vua đành phải mai táng mẹ tại trang Đồng Cần, xã Quang Chiêm (nay thuộc xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Chẳng bao lâu sau, vua sai người chọn đất, cải táng hài cốt của bà về vị trí cũng gần đó. Trước khi trở về Thăng Long, vua Lê còn cấp trăm công đất cho cậu ruột (em Thái hậu Ngọc Dao) cùng năm người họ Phan, vốn là bà con bên ngoại của Thái hậu, ở lại canh tác, lấy hoa lợi, lo việc tế tự và trông coi mộ phần. Kể từ đó, ở trang Đồng Cần mới có một chi họ Phan, mà nguồn gốc ở Thanh Hóa. Người dân ở trang Đồng Cần còn khẳng định rằng: Sát bên cạnh đền thờ[5], có một ngôi mộ cổ. Đấy mới thật là mộ của Thái hậu Ngọc Dao. Vì sao có sự khác biệt này, phải chờ các nhà sử học nghiên cứu thêm. Nhận xét GS. Nguyễn Khắc Thuần đánh giá: Thái hậu Ngọc Dao là người đã hết lòng cùng con chăm lo cho giang sơn xã tắc, là một trong những chỗ dựa tin cậy của Hoàng đế Lê Thánh Tông. Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ thực lục, quyển 12, tờ 65-a) ghi rõ rằng, chính bà là người đã không quản đường xá dặm dài, cùng Lê Thánh Tông tiến hành cuộc tấn công vào đất Chiêm Thành, cuối năm 1470, đầu năm 1471. -------------------------------------